Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Lý luận giá trị thặng dư trong học thuyết kinh tế của c mác ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.78 KB, 38 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
“Các Mác, người thầy vĩ đại của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động trên tồn thế giới, bậc vĩ nhân mà cuộc đời và sự nghiệp in đậm dấu
ấn lên toàn bộ lịch sử cận đại và hiện đại của nhân loại” 1. Khi nói về các
tác phẩm trong sự nghiệp của Mác chúng ta không thể không nhắc tới Bộ
“ Tư bản”. Đây là tác phẩm chủ yếu của Mác – một cơng trình nghiên cứu
kinh tế hết sức vĩ đại về Chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh. Dựa trên
tổng kết thực
tiễn phát triển ở nước Anh cổ điển, Ông đã phân
tích một cách khoa học và triệt để Chủ nghĩa tư
bản với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội,
đã vạch ra quy luật phát sinh, phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những
mâu thuẫn trong lịng nó tất yếu sẽ thúc đẩy xã
Bìa ngoài cuốn "Tư
bản"

hội tư bản quá độ lên một phương thức sản xuất
cao hơn.
Trên cơ sở xác định rõ đối tượng nghiên

cứu, và sử dụng sức mạnh trừu tượng hóa, Mác đã xây dựng hệ thống các
lý luận hết sức lôgic, chặt chẽ. “… Động cơ thúc đẩy và mục đích quyết
định q trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự tăng lên càng nhiều càng tốt
của tư bản, tức là sản xuất ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt, do đó, là
việc nhà tư bản bóc lột sức lao động càng nhiều càng tốt” 2. Qua lý luận giá
trị thăng dư, Mác đã chỉ rõ quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. nó
quyết định tất cả những đặc điểm và những mặt chủ yếu của nền sản xuất
ấy. Quy luật này biểu hiện mối quan hệ sản xuất chủ yếu của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa – quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Mác
đã coi việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư là mục đích cuối cùng của


1

Bài phát biểu của Đồng chí Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện

Chính trị - Hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh tại lế kỉ niệm 190 năm ngày sinh Các Mác
2

C.Mác. Tư bản, tiếng Việt, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát – xcơ – va, t. I, q. I, ph. I, tr. 420

1


cơng trình nghiên cứu của mình trong Bộ “ Tư bản”. Học thuyết giá trị
thặng dư đã cho phép giải thích đúng tất cả mọi q trình và hiện tượng
kinh tế xã hội trong xã hội tư bản, vạch rõ những cơ sở sâu xa của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và bản chất bóc lột, nguyên nhân những
mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Đặc biệt,
học thuyết giá trị thặng dư cho phép luận chứng một cách khoa học về sự
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy mà V. I. Lênin gọi học
thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng của Học thuyết kinh tế Mác. Lênin đã
nhấn mạnh rằng “ Mác đã hoàn toàn dựa vào và chỉ dựa vào những quy luật
kinh tế của sự vận động của xã hội hiện tại mà kết luận rằng xã hội tư bản
chủ nghĩa nhất định sẽ phải chuyển biến thành xã hội xã hội chủ nghĩa” 1
nghĩa là dựa vào quy luật giá trị thặng dư.
Như vậy, việc nghiên cứu Học thuyết Mác, mà đặc biệt là lý luận giá
trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, sự phát
triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật – cơng nghệ, đang có nhiều chủ
thuyết xây dựng nhằm bác bỏ học thuyết Mác mà trước tiên là lý luận giá
trị thặng dư. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư giúp những người giác ngộ
chủ nghĩa Mác củng cố quan điểm lập trường Mác – xít, chống lại các luận

điệu đả kích, đồng thời trong q trình phát triển đất nước chúng ta cũng có
thể rút ra những vấn đề có tính quy luật đi lên nền sản xuất lớn. Từ đó, tiếp
tục đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tạo ra
nhiều sản phẩm thặng dư, tăng tích lũy.
Cuốn "Tư bản" đang trở thành sách bán chạy nhất, đặc biệt là trong
thời điểm đang diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính. Những ngày qua, lý
luận của Các Mác liên tục được trích dẫn trên các báo ở Đức, quê hương
của Các Mác và là nước hiện cũng đang lao đao vì khủng hoảng tài chính.
Dưới đầu đề “Phải chăng Các Mác có lý?”, tờ Hamburger Morgenpost
(Đức) viết: “Trong những ngày khốn khó này, ai đi tìm câu trả lời ở Các
1

V. I. Lênin toàn tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản tiến bộ Mát – xcơ – va, t.26, tr. 86

2


Mác chắc chắn là không sai lầm”. Họ cho rằng, giờ đây ai đi tìm câu trả lời
ở Các Mác “chắc chắn là không sai” bởi ngay trong Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản, Các Mác đã yêu cầu cần có “sự tập trung hóa trong tay Nhà nước
thơng qua một ngân hàng quốc gia cùng với vốn Nhà nước”. Theo báo này,
trong cuộc khủng hoảng hiện nay, Các Mác “lại trở nên vô cùng hấp dẫn” 1.
Không những chúng ta nghiên cứu Bộ “ Tư bản” mà có cả các nước
phương Tây, nơi mà chủ nghĩa tư bản đã ra đời và phát triển cho tới ngày
nay. Vậy trong Bộ “Tư bản” có gì? Để nhận thức rõ tầm quan trọng và để
hiểu sâu hơn về Học thuyết kinh tế của Mác, mà trước tiên là lý luận giá trị
thặng dư, tạo điều kiện cho việc học tập các môn kinh điển chuyên nghành,
tác giải chọn đề tài tiểu luận “Lý luận giá trị thặng dư trong học thuyết
kinh tế của C. Mác. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong giai
đoạn hiện nay?”.


1

, Sách của Karl Marx bán chạy giữa cơn bão tài chính

3


PHẦN NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh ra đời:
Mác sinh năm 1818, trong một gia
đình thuộc tầng lớp trung lưu Do Thái, ở
Trier, Đức. Ơng học tại trường trung học ở
đó. Sau khi tốt nghiệp ông quyết định vào
trường Đại học Bonn để học luật, nhưng
chẳng bao lâu sau đó ơng cảm thấy chán
ngán với các vấn đề luật pháp và bắt đầu
say sưa với triết học. Để theo đuổi niềm
đam mê này ơng chuyển sang trường Đại
học Berlin, nơi lúc đó đang sôi sục triết học
Hegel. Mác đã tiếp nhận nhiều tư tưởng của
Hegel với một cách có phê phán. Ơng nhận bằng tiến sỹ triết học năm
1841. Sau đó, với những tư tưởng tiến bộ, ông liên tục bị trục xuất khỏi
Paris, Brussel. Ơng và gia đình cuối cùng đã được chính quyền London
chấp nhận. Mác đã sống 33 năm còn lại tại London, dành hầu hết thời gian
tại bảo tàng Anh và nghiên cứu Kinh tế học, lãnh đạo phong trào công nhân
quốc tế.
Mác đã viết Bộ “Tư bản” trong thời gian khá dài, đây là tác phẩm
chủ yếu của ơng. Ơng đã làm việc bốn chục năm để viết nó, từ giữa những
năm 40 của thế kỉ XIX cho tới khi ơng qua đời. Trong đó, tập I được ra mắt

bạn đọc năm 1867, các tập tiếp theo được xuất bản sau khi Mác mất và do
Ăngghen chuẩn bị.(Tập II năm 1885, tập III năm 1894, tập 4 được dành để
nói về lịch sử và phê phán học thuyết kinh tế). Đây cũng là quãng thời gian
mà bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi chính trị - xã hội, tư tưởng, mà trước
tiên là kinh tế.

4


1.1. Về kinh tế:
Giai đoạn từ giữ thế kỉ XIX, lần lượt các nước tư bản hoàn thành
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, mà mở đầu là nước Anh. Cuộc
cách mạng cơng nghiệp lần thứ I, đã có những tác động lớn, biến lao động
thủ công thành lao động máy móc, đưa chủ nghĩa tư bản từ cơng trường thủ
cơng sang đại cơng nghiệp cơ khí, tạo tiến đề vật chất cho chủ nghĩa tư bản,
giúp cho chủ nghĩa tư bản chiến thắng hoàn toàn chế độ phong kiến. Đồng
thời, các mâu thuẫn xã hội và kinh tế được thể hiện đầy đủ.
1.2. Về chính trị - xã hội:
Những biến đổi nêu trên về kinh tế đã có những biến đổi nhất định
về chính trị - xã hội. Một giai cấp mới đã ra đời – đó là giai cấp công nhân
công nghiệp – sản phẩm của Đại cơng nghiệp cơ khí. Hình thành hai giai
cấp cơ bản trong xã hội, trên cơ sở quan hệ bóc lột, với hính thức bóc lột
tinh vi và khơng có giới hạn so với các phương thức sản xuất trước kia. Tuy
máy móc ra đời ban đầu nó là phương tiện để giải phóng sức lao động,
nhưng sau chủ nghĩa tư bản đã biến chúng thành cơng cụ bóc lột sức lao
động của người công nhân. Do vậy, các phong trào đấu tranh của công
nhân đã diễn ra tự phát. Điều này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, xây dựng
một lý luận tiến bộ soi đường cho giai cấp công nhân đấu tranh, chuyển từ
tự phát sang tự giác.
1.3. Về tư tưởng:

Trong giai đoạn này có nhiều phát minh khoa học, điển hình với
ba trào lưu tư tưởng lớn là Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị cổ
điển Anh, và Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Mác đã kế thừa có
phê phán những tư tưởng của các trào lưu này để góp phần xây dựng lý
luận của mình.
Có thể nói, trong bối cảnh như vậy, Mác đã kế thừa những tinh hoa
của nhân loại, kết hợp với thực tiễn sinh động của Chủ nghĩa tư bản ở nước
Anh qua tài năng trí tuệ của mình ơng đã viết nên Bộ “Tư bản”.
5


II. Nội dung lý luận về giá trị thặng dư của Mác trong “Bộ Tư Bản”
2. 1. Lý luận giá trị thặng dư – bước tiến khoa học của Mác so với
các nhà kinh tế tư sản cổ điển.
Được ra đời trong điều kiện và hoàn cảnh như vậy, bằng Bộ “ Tư
bản”, “Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học,
về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, về học thuyết giá trị lao động,
ông đã đưa quan niệm duy vật lịch sử vào việc phân tích các phạm trù, các
quy luật kinh tế,…nhưng hơn cả là việc xây dựng học thuyết giá trị thặng
dư. Trước đó, nhà kinh tế Thomson đã nêu ra giá trị thặng dư, nhưng
không thừa nhận phạm trù này vì cho rằng nếu tồn tại sẽ vi phạm quy
luật giá trị” 1. Mác là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh học thuyết giá
trị thặng dư và khẳng định giá trị thặng dư tồn tại và phát triển hoàn toàn
tuân theo quy luật giá trị. Trước tiên, Mác đã kế thừa một cách có phê
phán lý luận của các nhà kinh tế trước ơng, mà điển hình là các nhà kinh
tế tư sản cố điển.
2.1 1. Những hạn chế trong việc nghiên cứu tư bản và lợi nhuận của
các nhà kinh tế tư sản cổ điển:
Trước Mác đã có nhiều trường phái khác nhau định nghĩa về tư bản.
Ví dụ: Trường phái trọng thương cho rằng tư bản là tiền mang lại tiền lớn

hơn, phái trọng nơng thì cho rằng tư bản là tiền ứng trước. A. Smith lại định
nghĩa tư bản là một bộ phận của cải hay cái dự trù mà nhờ đó người sở hữu
nó nhận được thu nhập. Ông đã gắn tư bản với lợi nhuận. Ông xây dựng lý
thuyết về lợi nhuận tự nhiên, cho rằng, lợi nhuận tự nhiên là phần trả cho tư
bản, do kết quả của việc tiết kiệm. Nhưng đây chỉ đơn thuần là định nghĩa
về lợi nhuận tự nhiên, nó khơng giải thích cái gì quyết định mức lợi nhuận
tự nhiên. D. Ricacdo lại coi tư bản là công cụ, là vật. Ông ta coi lợi nhuận
là phần thặng dư, hay phần còn lại của nhà tư bản sau khi đã trả công cho
công nhân và địa tô cho địa chủ. Rõ ràng các nhà kinh tế trước Mác đã
1

Phạm Văn Chiến, Lịch sử tư tưởng kinh tế, Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội, 2003, tr. 130

6


hồn tồn nhìn nhận một cách phiến diện, khơng biện chứng về tư bản và
lợi nhuận. Họ cho tư bản là vật thể, tồn tại vĩnh viễn. Họ cũng không tìm ra
nguồn gốc của lợi nhuận.
Trong chương đầu tiên quyển IV bộ “Tư Bản”. C. Mác đã khẳng
định rằng, tất cả những nhà kinh tế học trước ông đều nhầm lẫn giá trị
thặng dư với một hình thái nào đó. Ví dụ : trong phái trọng nơng nhầm lẫn
giá trị thặng dư với “sản phẩm rịng”, A. Smith nhầm nó với lợi nhuận…
Khi người ta nói đến sản phẩm rịng, lợi nhuận thì cũng có nghĩa là nói đến
giá trị thặng dư. C. Mác là người đầu tiên tách phạm trù giá trị thặng dư
thành một phạm trù riêng. Vậy với phương pháp nghiên cứu như thế nào,
và bắt đầu từ đâu mà Mác có thể làm được điều mà các nhà tiền bối không
làm được?
2. 2 Lý luận giá trị thặng dư của Mác
2.2.1 Công thức chung của tư bản, bước đi đúng đắn cho việc tìm ra

giá trị thặng dư.
Mác bắt đầu nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư từ cơng thức chung
của tư bản. Ơng viết: “Lưu thơng hàng hóa là khởi điểm của tư bản… Nếu
gạt sang một bên cái nội dung vật thể của lưu thơng hàng hóa, sự trao đổi
giá trị sử dụng khác nhau, và chỉ xét tới những hình thái do q trình đó đẻ
ra thì chúng ta sẽ thấy rằng tiền là sản phẩm cuối cùng của quá trình ấy. Sản
phẩm cuối cùng ấy của lưu thơng hàng hóa là hình thái biểu hiện đầu tiên
của tư bản.”1. Khơng những tiền là biểu hiện đầu tiên của tư bản, khi xuất
hiện đầu tiên trên vũ đài, tức là trên thị trường, thị trường hàng hóa, thị
trường lao động, hay thị trường tiền tệ, thì mỗi tư bản bao giờ cũng xuất
hiện dưới dạng tiền, số tiền này phải được chuyển hóa thành tư bản thơng
qua những q trình nhất định. Như vậy, Mác đã chỉ rõ được hình thái đầu
tiên và hình thái cuối cùng của tư bản, đó chính là Tiền. Tiền với tư cách là

1

C.Mác & Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.221

7


tiền, và tiền với tư cách là tư bản lúc đầu chỉ khác nhau về hình thái lưu
thơng khơng giống nhau mà thôi.
Bằng những lập luận vô cùng sắc sảo, Mác đã chỉ ra công thức chung
của tư bản và mâu thuẫn của nó. Chúng ta hãy xem Mác nghiên cứu và lập
luận như thế nào?
Đầu tiên, Mác đã so sánh sự giống và khác nhau giữa lưu thơng hàng
hóa giản đơn (H – T – H) và lưu thông tư bản(T – H – T) qua cơng thức
chung. Ơng đã đưa ra một ví dụ dùng 100 p. xt. để mua 2000 pao bơng và
đem 2000 pao bơng đó ra bán thu được 110 p. xt., để đặt vấn đề rất

hay:“chúng ta cũng sẽ thấy một sự khác nhau về nội dung ẩn giấu đằng
sau những sự khác nhau về hình thức ấy” . Ơng chỉ rõ những điểm khác
nhau của hai cơng thức này và phân tích chúng, giúp chúng ta thấy được
bản chất của lưu thông tư bản. Hai hình thái trên có giống nhau: Đều trải
qua hai giai đoạn đối lập nhau (mua, bán); trong mỗi giai đoạn đó đứng đối
diện với nhau là hai yếu tố vật chất (Hàng và tiền); và cả hai hình thái đó
đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
Sự khác nhau đầu tiên Mác nói đến giữa hai cơng thức này là “trình
tự đảo ngược của những giai đoạn đối lập ấy của lưu thông”. Lưu thơng
hàng hóa bắt đầu bằng việc bán kết thúc bằng việc mua, cịn lưu thơng của
tiền với tư cách là tư bản thì bắt đầu bằng việc mua và kết thúc bằng việc
bán. Trong hình thái thứ nhất, tiền là vật trung gian, cịn trong hình thái thứ
hai tiền với vai trị là một loại hàng hóa. Từ đó, Mác đã chỉ ra điểm khác
nhau tiếp theo trong hai cơng thức đó là ở mục đích cuối cùng của lưu
thơng. “ Trong q trình lưu thơng H – T – H, tiền cuối cùng được
chuyển thành hàng hóa, hàng hóa này được chuyển làm giá trị sử dụng”,
“ngược lại trong hình thái đối lập T – H – T, người mua chỉ chi tiền của
mình ra để rồi thu lại tiền với tư cách là người bán” 1. Giá trị là mục đích
của lưu thơng tư bản.
1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.224

8


Những lý luận đó giúp Mác tiếp tục chỉ rõ giới hạn của sự vận động
cho từng loại hình lưu thơng. Đó cũng là điểm khác nhau tiếp theo giữa
chúng. Lưu thơng hàng hóa giản đơn, việc lưu thơng là phương tiện để đạt
mục đích sử dụng nằm ngồi lưu thông, chỉ là phương tiện để chiếm giá trị

sử dụng thỏa mãn nhu cầu, nên vận động đó có giới hạn. Trong lưu thông
tư bản, sự vận động là không có giới hạn “nó ra khỏi lĩnh vực lưu thơng rồi
lại trở lại lưu thơng, tự duy trì và sinh sôi nảy nở trong lưu thông, quay trở
về dưới dạng lớn lên và lại khơng ngừng bắt đầu vịng chu chuyển ấy” 1..
Như vậy, Mác đã xây dựng lý luận của mình một cách khá lơgic và chặt chẽ
trong việc nghiên cứu công thức chung của tư bản. Mác cũng khẳng định
Mua để Bán, T – H – T’ không phải là hình thái riêng của một loại tư bản –
tư bản thương nhân, mà nó tồn tại ngay cả ở tư bản công nghiệp, cả ở tư
bản cho vay (T – T’). Như vậy, T – H – T’ thực sự là công thức chung của
tư bản, đúng như nó thể hiện trong lĩnh vực lưu thơng và trong nó thể hiện
những mâu thuẫn.
Mác lập luận bằng chính những nghiên cứu trước đây của mình để
chỉ rõ những mâu thuẫn cơng thức chung của tư bản. hàng hóa có giá trị và
giá trị sử dụng, giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội trừu tượng kết
tinh trong hàng hóa, tiền lại là sự kết tinh của giá trị thông qua ý niệm về
một số lượng vàng nhất định, nhưng trong lưu thông không thể sinh ra một
ngun tử giá trị nào. Nhưng hình thái lưu thơng, nhờ đó tiền chuyển hóa
thành tư bản, hình như mâu thuẫn với ba điều trên. Mác đã chuyển sang
xem xét lĩnh vực trao đổi. Ông nêu ra 2 trường hợp, trao đổi ngang giá và
khơng ngang giá. Sau đó, ơng đặt từng trường hợp “ những hàng hóa, hoặc
hàng hóa và tiền có cùng một giá trị trao đổi, tức là vật ngang giá, được
người ta đem trao đổi với nhau, thì rõ ràng là khơng ai rút được từ lưu
thông ra nhiều giá trị hơn số đã bỏ vào trong đó” 2. Trong trường hợp tiếp
1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.234

2

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.240


9


theo, hàng hóa trao đổi khơng ngang giá có thể sảy ra các khả năng: người
bán hàng hóa cao hơn giá trị hàng hóa của mình, người mua hàng hóa thấp
hơn giá trị của mình, cón người mua rẻ bán đắt, và có những kẻ bịp bợm.
Trong các trường hợp đó cũng khơng tạo thêm một ngun tử giá trị nào.
Từ đó, Mác kết luận “ Vậy tư bản khơng thể không xuất hiện từ lưu thông
và cũng không xuất hiện ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu
thơng đồng thời khơng phải trong lưu thơng” 1. Đây chính là mâu thuẫn
công thức chung của tư bản. Mâu thuẫn đặt ra u cầu phải giải quyết.
Tính lơgic và lịch sử đã được thể hiện đầy đủ trong nghiên cứu của
Mác. Từ việc so sánh hai công thức, chỉ ra cơng thức chung của tư bản và
mâu thuẫn của nó. Có thể khẳng định tư bản bao giờ cũng xuất hiện dưới
hình thức tiền. Vậy tiền chuyển hóa thành tư bản như thế nào? Mác đã giải
thích điểu này ra sao? Đó là do trên thị trường tư bản chủ nghĩa lúc này
xuất hiện một loại hàng hóa mới, đặc biệt, đó là hàng hóa sức lao động.
2. 2. 2 Lý luận hàng hóa sức lao động - mâu thuẫn công thức chung của
tư bản được giải quyết.
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển vượt bậc so với nền
sản xuất hàng hóa giản đơn khơng những cả về lượng mà còn cả về chất.
Trên thị trường lúc này xuất hiện một loại hàng hóa mới, đặc biệt, chưa
từng xuất hiện trước đây. Và một điều quan trọng đó là nhờ nó mà mâu
thuẫn cơng thức chung của tư bản được giải quyết.
Mác cho rằng sức lao động là “toàn bộ những năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” 2
Nhưng muốn cho người chủ tiền tìm được trên thị trường một sức
lao động với tư cách là hàng hóa thì một số điều kiện khác nhau phải thực

1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.249

2

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.251

10


hiện. Mác đã chỉ ra hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Sức
lao động chỉ xuất hiện với tư cách là hàng hóa khi nó được đưa ra thị
trường và chỉ trong chừng mực nó được đưa ra thị trường, tức là khi nó
được chủ sở hữu của nó đem bán. Muốn vậy thì người chủ của nó phải có
khả năng chi phối nó, tức là anh ta phải là “kẻ tự do” sở hữu sức lao động
của mình. Cả người chủ sở hữu sức lao động – Người bán, và chủ tiền –
Người mua đều bình đẳng về mặt pháp lý. Do đó, người chủ sở hữu sức lao
động chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định mà thôi. Nếu anh
ta bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần thì anh ta sẽ tự bán cả
thân anh ta, anh ta sẽ trở thành người nô lệ. Dưới chủ nghĩa tư bản, xã hội
tiến bộ nhất so với các xã hội trước đó, người lao động có sự tự do tương
đối, trong đó có việc sở hữu sức lao động của mình. Với tư cách đó, người
sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ để cho người mua sử dụng hoặc tiêu
dung sức lao động trong một thời gian nhất định mà thôi, anh ta không từ
bỏ quyền sở hữu sức lao động của mình.
Điều kiện thứ hai Mác chỉ ra là người chủ sức lao động phải khơng
cịn có khả năng bán những hàng hóa trong đó lao động của anh ta được vật
hóa, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán, với tư cách là hàng hóa, chính
ngay cái sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể người sống của anh ta mà

thôi. Mác đã đưa ra các khả năng để cho người nào đó bán được hàng hóa
khác với sức lao động của mình, thì tất nhiên là anh ta phải có những tư
liện sản xuất, ví dụ như ngun liệu, cơng cụ lao động … Anh ta không thể
làm giày ống mà khơng có da thuộc. Ngồi ra anh ta cịn cần có tư liệu sinh
hoạt nữa. Có nghĩa là điểu kiện thứ hai phải là bản thân người sở hữu sức
lao động khơng cịn gì cả - “trần như nhộng” hình ảnh chính xác, khơng
cịn gì có thể diễn tả hay hơn thế như trong kết luận của Mác về người lao
động trong chủ nghĩa tư bản.
Mác đã kết luận điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa, một
thứ hàng hóa đặc biệt “Như vậy là để chuyển hóa tiền thành tư bản, người
11


chủ tiền phải tìm được người lao động tự dơ trên thị trường hàng hóa, tự do
theo hai nghĩa: theo nghĩa là một con người tự do, chi phối được sức lao
động của mình với tư cách là một hàng hóa, và mặt khác anh ta khơng cịn
có một hàng hóa nào khác để bán, nói một cách khác là trần như nhộng,
hồn tồn khơng có những vật cần thiết để thực hiện sức lao động của
mình.”1.
Người chủ tiền đã tìm thấy trên thị trường lao động với tính cách là
một chi nhánh đặc biệt của thị trường hàng hóa. Mác đã khẳng định rằng
mối quan hệ giữa người chủ tiền, và người chủ sở hữu sức lao động là sự
phát triển tất yếu của lịch sử, là sản phẩm của nhiều cuộc cách mạng kinh
tế, là sản vật của sự diệt vong của hàng loạt những hình thái sản xuất xã hội
cũ hơn.
Qua những lập luận trên ta có thể thấy cách phân tích lập luận vơ
cùng lơgic và chặt chẽ, chính xác, kết hợp với lý luận với thực tiễn, làm cho
người đọc ai cũng phải thừa nhận.
Mác tiếp tục dẫn dắt: “chúng ta phải nghiên cứu tường tận hơn thứ
hàng hóa đặc biệt đó, tức là sức lao động. Cũng như mọi hàng hóa khác,

hàng hóa này cũng có giá trị. Giá trị ấy được quyết định bởi cái gì?”2
Giá trị sức lao động, cũng như mọi hàng hóa khác, được quyết định
bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất, và do đó, để tái sản xuất ra
thứ sản phẩm đặc biệt ấy. Vì sức lao động là một giá trị, cho nên bản thân
nó chỉ đại biểu cho một sức lao động trung bình nhất định đã vật hóa. Để
sản xuất và tái sản xuất sức lao động phải tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt
cần thiết. Như vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt ấy. Không chỉ tư liệu sinh hoạt cho bản thân anh ta, nên
giá trị sức lao động phải được tính thơng qua những tư liệu sinh hoạt cần
thiết khơng những cho người cơng nhân mà cịn cho cả con cái họ. Đồng
1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.253

2

C.Mác & Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.254

12


thời cịn có cả những chí phí đào tạo gia nhập vào tổng số những giá trị
được chi phí để sản xuất ra sức lao động. Mác đã đưa ra cơng thức tính số
lượng trung bình hàng ngày của những hàng hóa ấy =
(365A + 52B + 4C + v.v.)
365
Trên thực tế, tổng số những chi phí ấy được thanh tốn bằng những
thu nhập trung bình, thu được từ ngày này qua ngày khác. Trong công thức
trên, A là số khối lượng các hàng hóa cần thiết hàng ngày để sản xuất ra
SLĐ = A, khối lượng hàng hóa cần thiết cho mỗi tuần = B; khối lượng hàng

hóa cần thiết cho mỗi tháng = C, .v.v…
Mác đã phân tích rất kĩ lưỡng, chặt chẽ. Để có được điều này đòi hỏi
phải tốn rất nhiều thời gian, tâm sức và một trí tuệ siêu việt. Trong việc
phân tích giá trị sức lao động, Mác cũng đã chỉ ra rằng tùy điều kiện khác
nhau của mỗi quốc gia, khu vực, tức là, ngược lại với các hàng hóa khác,
việc quy định giá trị của sức lao động bao hàm một yếu tố lịch sử và yếu tố
tinh thần. Nhưng với một nước nhất định và một thời kì nhất định, thì tính
trung bình, quy mơ của những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao
động là một đại lượng nhất định. Mác đã tính đến hồn cảnh lịch sử cụ thể.
Ơng đã khá tồn diện trong việc phân tích các bộ “Tư bản” nói chung và
giá trị sức lao động nói riêng.
Khi chuyển sang phân tích về giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động Mác chỉ rõ một điểm đặc biệt của thứ hàng hóa này, “Khi hợp đồng
lao động được ký kết giữa người mua và người bán thì giá trị sử dụng của
nó vẫn chưa thật sự chuyển sang tay người mua. Trong khi như đã phân
tích ở trên giá trị của hàng hóa sức lao động, cũng như giá trị của bất kì một
loại hàng hóa nào khác, đã được quyết định trước khi nó đi vào lưu thông.
Nhưng giá trị sử dụng của sức lao động thì chỉ bao hàm những biểu hiện
sau này mà thơi. Mác nói: “Vậy là ở khắp mọi nơi, người lao động đều ứng
13


trước giá trị sử dụng của sức lao động của mình cho nhà tư bản; anh ta để
cho mọi người tiêu dùng sức lao động của mình trước khi nhận được giá cả
của nó, nói tóm lại, ở đâu người công nhân cũng cho nhà tư bản vay nợ”
sức lao động đã được bán rồi nhưng chỉ về sau, nó mới được trả tiền. Tiền
của người mua lúc này làm chức năng thanh toán. Vậy giá trị sử dụng của
sức lao động là gì? Giá trị sử dụng của nó mà người chủ tiền nhận được khi
trao đổi, đến lượt nó, lại chỉ thể hiện ra trong q trình sử dụng thực sự, tức
là trong quá trình tiêu dùng sức lao động. Quá trình tiêu dùng sức lao động

đồng thời là q trình sản xuất ra hàng hóa và giá trị thặng dư.
Bằng phương pháp luận khoa học, đồng thời Mác cũng kế thừa có
phê phán những luận điểm của các nhà lý luận khác. Chẳng hạn, Mác đã sử
dụng quan điểm của Stc – sơ “người cơng nhân…cho vay sự cần cù của
mình” để nói rằng nhà tư bản vay nợ. Điều đó giúp cho luận điểm của Mác
trở nên thuyết phục hơn. Tuy vậy, ông cũng phê phán thẳng thắn những
điểm khơng tiến bộ. Mác viết về Stc – sơ “ nhưng ông ta lại thêm một
cách láu cá rằng người cơng nhân “khơng sợ mất gì cả” ngồi việc mất tiền
cơng của mình … vì người cơng nhân khơng chuyển một cái vật chất gì vào
sản xuất cả”1. Đây chỉ là một dẫn chứng trong rất nhiều các luận điểm mà
trong cách viết của Mác đã sử dụng chính các luận điểm của các nhà lý
luận khác để xây dựng, củng cố luận điểm của mình.
Ăngghen nói rằng Mác là người đầu tiên phát hiện ra lý thuyết mới
về tiền chuyển hóa hành tư bản, bằng việc ông phát hiện ra phạm trù hàng
hóa sức lao động. Có thể nói đây chính là chiếc chìa khóa để giải quyết mối
quan hệ giữa tư bản và lao động, đã tìm ra bí mật của sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Khơng những hàng hóa sức lao động là điều kiện cho sự chuyển hóa
tiền thành tư bản, giải quyết được vấn đề tiền đẻ ra tiền mà không vi phạm
quy luật sản xuất hàng hóa. Khi sức lao động thực sự trở thành hàng hóa thì
sản xuất hàng hóa giản đơn sẽ trở thành sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó báo
1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.261

14


hiệu một thời đại mới, thời đại của tư bản cơng nghiệp. Lý luận hàng hóa
sức lao động là cơ sở lý luận để xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư,
những bế tắc của các nhà kinh tế học cổ điểm được giải quyết. Như vậy,

việc tìm ra lý luận hàng hóa sức lao động có ý nghĩa quan trọng. Vậy hàng
hóa sức lao động giải quyết được mâu thuẫn trong công thức chung của tư
bản như thế nào?
2. 2. 3 Thực chất quá trình sản xuất giá trị thặng dư:
Như đã trình bày, người mua sức lao động tiêu dùng sức đó bằng
cách bắt người bán nó phải lao động. Lao động chính là q trình tiêu dùng
sức lao động. Trong chủ nghĩa tư bản việc sử dụng sức lao động chính là
việc tiêu dùng hàng hóa mà chủ tiền đã mua, tức là sức lao động. Người
mang sức lao động, người công nhân, phải tiêu dùng các tư liệu sản xuất
bằng lao động của mình. Người lao động thực hiện quá trình lao động cho
nhà tư bản chứ khơng phải bản thân mình. Như vậy, việc sử dụng hàng hóa
sức lao động của người cơng nhân là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao
động với hai đặc trưng, “người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của
nhà tư bản, lao động của anh ta thuộc về nhà tư bản, Nhà tư bản trông nom
sao cho công việc tiến hành được tốt và những tư liệu sản xuất được tiêu
dùng một cách hợp lý”1. Đó là đặc trưng thứ nhất. Đặc trưng thứ hai là sản
phẩm thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải những người sản xuất
trực tiếp, không phải người công nhân.
Để làm rõ hơn đặc điểm của quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động
trong chủ nghĩa tư bản, từ quan điểm duy vật lịch sử, “ Những thời đại kinh
tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng
sản xuất ra bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” 2, đặc điểm của
sức lao động trong chủ nghĩa tư bản đã được Mác chỉ ra. Ta có thể hiểu,
trong chủ nghĩa tư bản, cách thức sản xuất đó là bóc lột sức lao động của
1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.277

2


C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.269

15


người công nhân. Những sản phẩm người công nhân làm ra bị tước đoạt
bởi chính người mua sức lao động của họ. Bằng việc mua sức lao động,
nhà tư bản đã kết hợp bản thân lao động với tư cách là một chất men sống
vào những yếu tố chết cấu thành sản phẩm, cũng thuộc về hắn ta. Theo
quan điểm của hắn, quá trình lao động chỉ là việc tiêu dùng thứ hàng hóa
mà hắn ta đã mua, tức là sức lao động. Kết quả của quá trình tiêu dùng
hàng hóa sức lao động đương nhiên thuộc về hắn như quá trình lên men
nho trong hầm rượu.
* Tư bản bất biến và tư bản khả biến:
Mác nghiên cứu tư bản bất biến và tư bản khả biến nhằm khẳng định
lại lý luận đã trình bày về nguồn gốc giá trị thặng dư và nơi tạo ra nó, tức là
ơng muốn vạch rõ vai trò của từng bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá trị
thặng dư. Mác viết: “ Cúng với những bộ phân cấu thành ấy của tư bản, xét
trên quan điểm của quá trình lao động phân biệt thành những nhân tố khách
quan và chủ quan, thành những tư liệu sản xuất và sức lao động, nhưng xét
trên quan điểm của quá trình làm tăng giá trị thì lại phân biệt thành tư bản
bất biến và tư bản khả biến”1.
Qua phân tích, lập luận, Mác kết luận: Trong quá trình sản xuất, bộ
phận tư bản bất biến thành tư liệu sản xuất, tức là thành nguyên liệu, vật
liệu phụ và tư liệu lao động, không thay đổi đại lượng giá trị của nó. Mác
gọi đó là bộ phận bất biến của tư bản, hay tư bản bất biến.
Trái lại bộ tư bản biến thành sức lao động lại thay đổi giá trị của nó
trong q trình sản xuất. Nó tái sản xuất ra vật ngang giá với bản thân nó và
ngồi ra lại cịn sản xuất ra một số dư, tức là giá trị thặng dư; giá trị thặng
dư này có thể thay đổi, có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Từ một đại lượng bất

biến, bộ phận này của tư bản khơng ngừng chuyển hóa thành một đại lượng
khả biến. Mác gọi nó là tư bản khả biến.

1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.311

16


Mác đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của việc hình thành giá trị thặng
dư, vạch trần bản chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa bị quan hệ hàng hóa
che đậy. Khi tổ chức sản xuất, nhà tư bản chi một số tiền nhất định vào việc
mua tư liệu sản xuất và mua sức lao động, chỉ nhằm một mục đích duy nhất
là thu được một khoản dơi ra ngoài số tiền mà hắn ứng ra ban đầu, nghĩa là
thu được giá trị thặng dư. Tư liệu sản xuất không thể là nguồn gốc của giá
trị thăng dư, vì chúng khơng tạo ra giá trị mới, mà chỉ chuyển hóa giá trị
của chúng sang sản phẩm mới. Cịn với đặc tính riêng của hàng hóa sức lao
động, khiến nói chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Đó cũng chính là
ngun nhân vì sao mà nhà tư bản bắt người cơng nhân ngồi số thời gian
lao động cần thiết để tạo ra thêm nhiều sản phẩm, mang lại nhiều giá trị, để
nhà tư bản chiếm đoạt.
2. 2. 4 Các phương pháp sản suất giá trị thặng dư – Mác chỉ rõ mặt
lượng giá trị thặng dư:
Các Mác nêu rõ nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư. Có những
cách thức như thế nào để tạo ra giá trị thặng dư. Nghiên cứu quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa Mác chỉ ra hai phương pháp. Đó là phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối.
* Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:

Việc mua hàng hóa sức lao động là điều kiện căn bản để tiền chuyển
hóa thành tư bản. Nhưng sau khi mua sức lao động, nhà tư bản phải tiêu
dùng nó, nếu khơng tiêu dùng thì khơng thu được giá trị thặng dư. Mác
nghiên cứu quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa với tư cách là quá trình
tạo ra giá trị. Ông đã đưa ra các giả định:
- Tư liệu sản xuất thực sự dùng để sản xuất ra những giá trị sử dụng.
- Chỉ dung thời gian lao động tất yếu trong điều kiện sản xuất bình
thường (sức lao động hoạt động trong điều kiện trung bình của xã hội; tư
liệu sản xuất phải được tiêu dung ở mức bình thường( những hao phí vơ ích
17


khơng them vào giá trị sản phẩm thì khơng được tính vào giá trị sản
phẩm)).
- Phải tuân theo quy luật sản xuất hàng hóa, đặc biệt là quy luật giá trị.
Với các giả định nêu trên, Các Mác miêu tả q trình sản xuất ra giá
trị thặng dư thơng qua q trình sản xuất hàng hóa mà cụ thể là sản xuất
sợi. Trong q trình phân tích ơng đã sử dụng lý luận tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa để phân tích.
Giả định ngày lao động là 12h. 24h lao động hay hai ngày tạo ra
12silinh (sh). Để chế biến được 10pao sợi, cần một lượng bơng là 10pao, có
giá trị là 10 (sh), mua số lượng cọc sợi là 2 (sh). Vậy bộ phận tư liệu sản
xuất (bông + Cọc sợi) đã tạo ra 12 (sh) trong giá trị của 10pao sợi hay đó là
sự vật chất hóa của hai ngày lao động. Do đó, bây giờ cịn cần phải tìm
phần giá trị mà lao động của người kéo sợi đã kết hợp vào sản phẩm.
Khi bán sức lao động, giả định giá trị sức lao động một ngày 3 (sh),
biểu hiện bằng giờ lao động, chẳng hạn một giờ lao động chế biến 1 2/3
pao bơng thành 1 2/3 pao sợi thì sau 6h lao động sẽ chuyển hết 10pao bông
thành 10 pao sợi. 10 pao sợi đó biểu thị cho 6h lao động, và bằng 3 (sh).
Việc kéo sợi đã gắn thêm vào bông 3 (sh). Khi ấy tổng giá trị sản phẩm (10

pao sợi) đã vật hóa 2 ½ ngày lao động, biểu hiện = 12 + 3 = 15 (sh). Do
đó, giá cả phù hợp với giá trị 10 pao sợi = 15 (sh) hay giá cả 1 pao sợi = 1
(sh) 6 penny.
Giá cả của 10 pao sợi là 15 (sh) và nó được chi tiêu hết trên thị
trường hàng hóa các nhân tố sản xuất (10(sh) vào bơng; 2(sh) vào số cọc
sợi, và 3 (sh) vào sức lao động). Rõ ràng là đến đây giá trị ứng trước không
tăng lên, không sản xuất ra giá trị thặng dư và do đó tiền khơng biến thành
tư bản. Mác lại tiếp tục lập luận:
Nhưng giá trị một ngày sức lao động là 3 (sh) (chỉ trị giá nửa ngày
lao động ) và sự tiêu phí sức lao động ấy trong một ngày – đó là hai Đại
lượng hồn tồn khác nhau. Sự chênh lệch đó chính là mục đích của nhà tư

18


bản khi mua sức lao động, mà hắn vẫn hành động theo đúng quy luật của
sản xuất hàng hóa. Nhà tư bản sẽ tổ chức lao động 12h một ngày và trong
12h lao động sẽ biến 20pao bông thành 20pao sợi. Bây giờ trong 20pao sợi
đó đã vật hóa 5 ngày lao động (4 ngày tư liệu sản xuất đã tiêu dung và 1
ngày được bông thu hút trong quá trình kéo sợi) và biểu hiện bằng tiền qua
5 ngày lao động, đó là 30 (sh). Vậy đó đúng là giá cả của 20 pao sợi
(=30sh). Nhưng tổng giá trị của hàng hóa được ném vào trong qua trình chỉ
là 27(sh). Vậy 27 (sh) đã chuyển thành 30 (sh). Chúng đã đem lại một giá
trị thặng dư là 3 (sh), tiền đã biến thành tư bản.
Mác kết luận: “Nếu chúng ta so sánh qua trình tạo ra giá trị với q
trình làm tăng gía trị, thì chúng ta sẽ thấy rằng quá trình làm tăng giá trị
chẳng qua cũng chỉ là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài q 1 điểm mà
thơi”1. Nói cách khác đó là kéo dài tuyệt đối ngày lao động vượt quá thời
gian lao động cần thiết, tức là vượt quá thời gian mà người lao động sản
xuất ra vật ngang giá với giá trị sức lao động của mình. Đây chính là

phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối, một trong những phương
pháp nâng cao trình độ bóc lột. Phương pháp này được áp dụng nhiều trong
giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, trước khi nền đại sản xuất cơ khí chiếm
vị trí thống trị.
* Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Khi nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối, C.Mác đã xuất
phát từ giả định giá trị Sức lao động (Thời gian lao động tất yếu) là khơng
đổi, cịn thời gian lao động thặng dư là một đại lượng khả biến. Khi nghiên
cứu sản xuất giá trị thặng dư tương đối, ông giả định đo độ dài ngày lao
động và việc chia lao động cần thiết và lao động thặng dư là đã cho sẵn.
Vậy làm thế nào để việc sản xuất ra giá trị thặng dư có thể tăng lên được.
Trong thực tế, thời gian lao động tất yếu có thể thay đổi được do kết quả
của việc tăng năng suất lao động, mà tăng năng suất lao động lại là kết quả

1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.291

19


của nhiều yếu tố: tiến bộ khoa học kĩ thuật, cải tiến tổ chức sản xuất, đổi
mới phương pháp sản xuất, .v.v…
Ý tưởng của Mác được thể hiện rõ, giá trị thặng dư tuyệt đối và giá
trị thặng dư tương đối đều là giá trị thặng dư, đều là kết quả chiếm đoạt lao
động thặng dư theo lối tư bản chủ nghĩa, về bản chất, chúng khơng có sự
khác nhau. Chúng chỉ khác nhau về phương thức tước đoạt giá trị thặng dư
mà thôi. Các Mác cũng chỉ rõ, lao động thặng dư đã từng tồn tại trong xã
hội đối kháng giai cấp, nên sự thống trị giai cấp được thể hiện ở sự chiếm
đoạt giá trị thặng dư. Nếu nhà tư bản tăng them thoife gian lao động thặng

dư bằng cách kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động, thì khơng
khác gì chủ nơ đã làm, chỉ khác là chỗ tư bản bòn rút được nhiều lao động
thặng dư hơn mà thôi. Trong sản xuất giá trị thặng dư tương đối, tư bản đi
theo con đường riêng biệt của nó – tăng thêm thời gian lao động thặng dư
bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu, chứ không phải ngược lại.
Mác lập luận và đưa ra định nghĩa của mình về giá trị thặng dư tuyệt
đối như sau: “ giá trị thặng dư được sản xuất bằng cách kéo dài ngày lao
động, thì gọi là tuyệt đối; trái lại, giá trị thặng dư có được do rút ngắn thời
gian lao động cần thiết và do sự thay đổi tương ứng trong tỷ lệ các đại
lượng bộ phận cấu thành ngày lao động, thì tơi gọi đó là giá trị thặng dư
tương đối ”1.
Vậy là muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải hạ thấp giá trị
hàng hóa sức lao động, tức là hạ thấp gía trị tư liệu sinh hoạt của cơng nhân
và con cái họ. Việc đó chỉ diễn ra trong lĩnh vực sản xuất, điều quyết định
là tăng năng xuất lao động trong hai ngành cơ bản: ngành sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt và ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu
sinh hoạt cần thiết cho người công nhân và con cái họ. Nhà tư bản sẽ đầu tư
cải tiến dây chuyền sản xuất, nâng cao năng xuất lao động trong các ngành

1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.458

20


nói trên. Đó chính là cách mà tư bản lợi dụng lực lượng sản xuất để bóc lột
giá trị thặng dư tương đối thông qua các phương pháp đặc thù sau:
+ Hiệp tác: Cái hình thức lao động trong đó nhiều người làm theo kế
hoạch bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong cùng một quá trình sản xuất

hay trong những quá trình khác nhau gắn liền với nhau, thì gọi là hiệp tác.
Khi phân tích về phương pháp hiệp tác Mác đã chỉ rõ những ưu điểm, hạn
chế của nó.
+ Cơng trường thủ cơng: xí nghiệp tư bản dựa trên cơ sơ phân công
lao động và kĩ thuật thủ cơng.
+ Máy Móc và Đại cơng nghiệp:
Máy móc trong Chủ nghĩa tư bản là phương tiện để sản xuất ra giá trị
thặng dư. Mác đã chỉ rõ quá trình chuyển từ cơng cụ thủ cơng thành máy
móc, trải qua ba bộ phận khác nhau (động cơ, cơ cấu truyền lực và máy
cơng cụ, trong đó máy cơng cụ có vai trị quyết định). Mác định nghĩa máy
móc như sau: Cái máy, điểm xuất phát từ cuộc cách mạng công nghiệp, đã
thay thế đã thay thế người lao động chỉ sử dụng có mỗi cơng cụ, bằng một
cơ cấu sử dụng ngay một lúc nhiều công cụ như nhau hoặc cùng loại và do
động lực làm chuyển động, mặc dù hình thức động lực này như thế nào
chăng nữa.
Trên đây chính là ba giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản,
dựa trên sự phát triển cao của lực lượng sản xuất nhà tư bản tăng cường bóc
lột giá trị thặng dư tương đối. Bên cạnh, chỉ rõ mặt lượng giá trị thặng dư,
các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cịn cho thấy tính chất và trình
độ bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
2.3. Lý luận giá trị thặng dư là lý luận trung tâm trong học thuyết
kinh tế của Mác.
2.3.1. Lý luận giá trị thặng dư làm sáng rõ tồn bộ những bí ẩn của
đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – xít.

21


Trước khi viết bộ “Tư bản”, trong tác phẩm “Góp phần phê phán
khoa kinh tế chính trị”, Mác đã xác định đối tượng của kinh tế chính trị

trước hết là nền sản xuất vật chất, nhưng nó khơng phải là kĩ thuật học,
cũng không phải là sản xuất của cá nhân riền lẻ, tách ra khỏi xã hội kiểu
Rôbinsơn mà là nền sản xuất có tính chất xã hội. Trong bộ “Tư bản” Mác
lại nhấn mạnh rằng, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là “Phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích
ứng với phương thức sản xuất ấy”1, “mà mục đích cuối cùng của tác phẩm
này là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại”2.
Bằng việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, Mác đã hồn thiện lý luận giá trị, khắc phục được những hạn chế của
các nhà kinh tế tư sản cổ điển, tạo ra cuộc cách mạng thực sự trong kinh tế
chính trị, xây dựng thành công lý luận giá trị thặng dư. Lý luận giá trị thặng
dư đã chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, đó là bóc lột giá trị thặng dư
ngày càng tăng, với các phương tiện và thủ đoạn mở rộng sản xuất, phát
triển kĩ thuật bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê. Lý luận giá trị
thặng dư đã chỉ rõ mối quan hệ bản chất nhất trong xã hội tư bản.
Đồng thời, lý luận này cũng chỉ rõ sự vận động phát triển và tất yếu
tiêu vong của chủ nghĩa tư bản dưới tác động của quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa – quy luật giá trị thặng dư, mâu
thuẫn nội tại do chính phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra, đó là
tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này được biểu hiện thông qua
các mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn xã hội. Điều đó tất yếu dẫn đễn sự diệt
vong của chủ nghĩa tư bản, thay thế vào đó là một phương thức sản xuất
mới cao hơn, tiến bộ hơn.

1

C.Mác & Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.19

2


C.Mác & Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, t.23, tr.21

22


Như vậy, bằng lý luận giá trị thặng dư Mác đã làm sáng rõ đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị, phân tích một cách chính xác nhất, đầy đủ
nhất về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa điều mà các nhà lý luận
trước Mác chưa thể làm được.
2.3.2. Lý luận giá trị thặng dư giải quyết triệt để những vấn đề cơ
bản có liên quan đến chủ nghĩa tư bản theo quan điểm duy vật lịch sử.
* Kinh tế chính trị tư sản cổ điển chưa phân tích thành cơng, triệt
để chủ nghĩa tư bản, ngun nhân do đâu?
Mác vận dụng hệ thống phương pháp, trong đó có phương pháp duy
vật lịch sử - cống hiến vĩ đại của chính Mác trong việc nghiên cứu lịch sử
xã hội loài người, điều mà các nhà kinh tế trước Mác chưa thể có được đã
giúp ơng làm nên cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị.
Với phương pháp này, Mác cho rằng sự thay thế của một hình thái
kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn là một
quá trình lịch sử tự nhiên. Bằng phương pháp duy vật lịch sử, Mác ln
nhìn nhận một sự vật, hiện tượng trong qua trình vận động, và phát triển
khơng ngừng, nên Chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng một hình
thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn.
Trong khi đó, các nhà kinh tế tư sản cổ điển lại ln nhìn nhận chủ
nghĩa tư bản một cách thiếu triệt để và không khoa học. Với phương pháp
phản lịch sử và siêu hình, họ coi chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu và tự nhiên
của sản xuất, nên các phạm trù kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương nhiên là
phạm trù tự nhiên và vĩnh cửu, chúng chỉ thay đổi về lượng. Các quan hệ
xã hội trong chủ nghĩa tư bản biến thành bái vật, đóng vai các thuộc tính xã

hội của vật. Trong đó, họ cũng coi tư bản là vật, đồng nhất tư bản với
những vật mang vật chất của nó như tiền tệ, tư liệu sản xuất, hàng hóa. “Ở
những chỗ mà các nhà kinh tế học tư sản chỉ nhìn thấy quan hệ giữa vật
với vật, thì ở chính những chỗ đó, Mác đã tìm thấy quan hệ giữa người với
người”. Công lao lớn của các nhà kinh tế tư sản cổ điển là phát hiện ra lý
23


luận giá trị lao động, nhưng khơng có sự luận giải một cách khoa học về
chất và lượng của giá trị, cũng như nguồn gốc tạo ra nó mà Mác sau này đã
phát hiện ra đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng, làm nên cuộc
cách mạng trong nghiên cứu kinh tế chính trị học. Họ đã cố quy kết tất cả
về phạm trù giá trị lao động mà họ coi là điểm xuất phát để phân tích chủ
nghĩa tư bản. Từ đó, họ khơng thể luận giải một cách khoa học về lợi nhuận
mà nhà tư bản thu được. Kết luận sai lầm mà tính phản khoa học thể hiện
rõ nhất đó là họ khẳng định sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản, ca
ngợi chủ nghĩa tư bản là “bình đẳng và bác ái”.1
Tất cả những hạn chế của các nhà kinh tế chính trị cổ điển đã được
Mác khắc phục và hồn thiện với lý luận giá trị thặng dư.
* Lý luận giá trị thặng dư của Mác là cơ sở để đi đến những kết
luận khoa học:
Từ việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, lý luận giá trị đã được Mác bổ sung và hoàn thiện. Hơn thế, Mác tiếp
tục nghiên cứu, xây dựng thành cơng lý luận hàng hóa sức lao động. Chính
hàng hóa sức lao động, một loại hàng hóa đặc biệt, đã giải quyết được mâu
thuẫn công thức chung của tư bản. (Tư bản phải xuất hiện trong lưu thông,
đồng thời khơng phải trong lưu thơng). Từ đó, giúp Mác chỉ rõ giá trị thặng
dư là giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động do người công nhân tạo ra, bị
nhà tư bản chiếm không. Tư bản lại là giá trị mang lại giá trị thặng dư, bằng
cách bóc lột lao động làm thuê. Sự bóc lột đó được thực hiện bằng các

phương pháp khác nhau, ngày càng tinh vi và khơng có giới hạn. Sự lớn lên
của tư bản lại diễn ra trong q trình tuần hồn và chu chuyển của tư bản,
nó là một sự vận động, một quá trình tiến hành qua những giai đoạn khác
nhau. Nhưng giá trị thăng dư dù có vận động như thế nào thì cuối cùng nó
1

“Khác với cơ chế bóc lột trong hai hình thái kinh tế - xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện

vật, cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ trao đổi những vật
ngang giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với
vẻ bề ngoài như là tự do và bình đẳng”. (Theo GS. Bùi Ngọc Chưởng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Tạp chí Cộng sản số 732/2008).

24


vẫn vào tay nhà tư bản, chuyển hóa thành lợi nhuận, lợi nhuận thương
nghiệp, lợi tức, bản chất bóc lột đã bị che dấu và các nhà tư bản ăn chia
nhau giá trị thặng dư mà người công nhân tạo ra trong cuộc cạnh tranh
không khoan nhượng.
Trong chủ nghĩa tư bản, chế độ tư hữu giữ vai trị độc tơn, phân công
lao động xã hội được đẩy mạnh. Sản xuất và lưu thơng hàng hóa càng có
điều kiện để phát triển. Giá trị thặng dư trở thành mục đích và động lực.
Giá trị mang lại giá trị thặng dư, tức là tư bản, chỉ xuất hiện ở nơi nào sản
xuất và lưu thơng hàng hóa đã phát triển mạnh. Nơi ấy có đủ điều kiện cho
giá trị thặng dư cao nhất. Vậy những nơi ấy phải có điều kiện như thế nào
để tư bản tồn tại và phát triển được? Đó chính là bóc lột lao động làm th.
Lao động của người công nhân là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lẽ đương
nhiên tư bản muốn tồn tại và phát triển thì phải bóc lột lao động là th
ngày càng tăng.

Giá trị thặng dư, đã được Mác xây dựng thành quy luật phản ánh mối
quan hệ bản chất trong xã hội tư bản – Quy luật giá trị thặng dư, quy luật
tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Chạy theo giá trị thặng dư, nhà tư bản phải
phát triển khoa học – kỹ thuật - công nghệ, đổi mới trình độ, cơ cấu tổ chức
và quản lý. Từ đó, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đó là tác động
tích cực. Lực lượng sản xuất phát triển, mang tính xã hội hóa ngày càng
cao, đối lập với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này
biểu hiện ra các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Chạy theo giá trị thặng
dư, nhà tư bản khơng trừ một thủ đoạn nào, nó đem lại nhiều đau khổ chết
chóc cho người lao động. Sự phân hóa xã hội thành giai cấp khơng lao
động nhưng giàu có, đầy quyền lực, thống trị, áp bức đa số người trong xã
hội và giai cấp lao động sản xuất ra của cải xã hội nhưng nghèo khổ, bị
tước mọi quyền và bị áp bức là sản phẩm tất yếu của mọi xã hội có chế độ
người bóc lột người dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nó được
biểu hiện ngay từ trong xã hội nơ lệ và phong kiến. Nhưng trong chế độ
bóc lột tư bản chủ nghĩa (chiếm đoạt giá trị thặng dư), sự phân cực xã hội
là vô cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới cực độ. Ở đây của
cải ngày càng tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ
25


×