Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Lý luận của kinh tế chính trị học mác leenin về hàng hóa và tính hai mặt của hàng hóa liên hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.46 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

Lý luận của kinh tế chính trị học
Mác - Lênin về hàng hóa và tính hai mặt
của sản xuất hàng hóa. Liên hệ thực tiễn.

MÃ MƠN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120205_21_2_17CLC
NHÓM THỰC HIỆN: RICARDO. Thứ 2 - tiết: 1-2
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2022


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1.

Lý do chọn đề tài. ............................................................................................... 1

2.

Mục tiêu nghiên cứu. .......................................................................................... 1

3.

Đối tượng nghiên cứu. ........................................................................................ 2
3.1



Đối tượng nghiên cứu phần lý thuyết: ...................................................... 2

3.2

Đối tượng nghiên cứu phần thực tiễn: ...................................................... 2

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HÓA .............................................. 3
1.1 Khái niệm cơ bản. ............................................................................................... 3
1.1.1 Khái niệm về hàng hóa. ............................................................................ 3
1.1.2 Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. ............... 3
1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa. ............................................................................ 4
1.2.1 Thuộc tính giá trị. ...................................................................................... 4
1.2.2 Thuộc tính giá trị sử dụng. ........................................................................ 5
1.2.3 Mối quan hệ của hai thuộc tính. ................................................................ 6
1.3 Tính hai mặt của hàng hóa .............................................................................. 7
1.3.1 Lao động cụ thể. ........................................................................................ 7
1.3.2 Lao động trừu tượng ................................................................................. 8
1.4 Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. .... 9
1.4.1 Khái niệm lượng giá trị hàng hóa. ............................................................ 9
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa............................ 9
1.4.2.1 Năng suất lao động. ............................................................................ 9
1.4.2.2 Mức độ phức tạp của lao động. ........................................................ 10
1.4.2.3 Cường độ lao động. .......................................................................... 11
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG TRONG TÍNH HAI MẶT
CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM. ........................................................... 12


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ II. NĂM HỌC: 2021-2022


Nhóm Ricardo. Thứ 2 tiết 01, 02
Tên đề tài: Lý luận của kinh tế chính trị học Mác - Lênin về hàng hóa và tính hai mặt
của sản xuất hàng hóa. Liên hệ thực tiễn.
HỌ VÀ TÊN

MÃ SỐ SINH

TỶ LỆ %

SINH VIÊN

VIÊN

HỒN THÀNH

1

Nguyễn Thị Thanh Trúc

21126098

100%

0834544189

2

Lê Trần Bích Vy


21126106

100%

0346990554

3

Huỳnh Tấn Hào

21126263

100%

0335176594

4

Nguyễn Thị Yến Nhi

21126063

100%

0916677910

5

Diệp Thị Ngọc Hân


21126022

100%

0945507608

6

Đào Phương Khánh

21126036

100%

0783673129

7

Ngơ Trương Hồng Ngọc

21126060

100%

0964663414

8

Võ Nguyễn Minh Kha


21126032

100%

0919350693

STT

SĐT


Ghi chú:
− Tỷ lệ % = 100%
− Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Thanh Trúc

Nhận xét của giáo viên:
..........................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................

Ngày ............ tháng......... năm.......
Giáo viên chấm điểm


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.

Trong thời kỳ đầu của xã hội lồi người, thời kì xã hội nguyên thủy, mọi hoạt động
sản xuất của xã hội đều mang tính tự cung tự cấp. Nhu cầu của con người trong thời kì ấy
bị gói gọn trong một giới hạn nhất định vì lực lượng sản xuất cịn bị hạn chế. Chỉ đến khi
lực lượng sản xuất dần dần phát triển và đạt được những thành tựu nhất định, nhu cầu của
con người mới được đáp ứng ngày càng nhiều hơn. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
dẫn đến đến sự thay đổi hình thái kinh tế, từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất
hàng hóa, và phát triển nhất chính là nền kinh tế thị trường.
Hàng hố đóng vai trị rất quan trọng trong xã hội. Bất kỳ một hình thái xã hội nào
cũng liên quan đến hàng hoá. Một con người cần có nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại… nhưng họ
khơng thể tự sản xuất tất cả mọi thứ để đáp ứng nhu cầu của mình. Để thoả mãn họ phải tự
trao đổi với nhau. Chính vì vậy ta có thể hiểu rằng hàng hoá ra đời từ nhu cầu cấp thiết,
không thể thiếu của cuộc sống. Từ chủ nghĩa Mác, đến Mác và sau Mác đã có rất nhiều lý
luận đã ra đời nhằm nghiên cứu một thứ vật chất đặc biệt đó là “hàng hố”. Với những
thuộc tính của mình hàng hóa giữ một vai trị quan trọng trong sản xuất và lưu thơng. Hàng
hố là một “tế bào kinh tế” của xã hội tư bản. “Có nền kinh tế hàng hố thì tất nhiên tồn tại
cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật bắt buộc của nền kinh tế hàng hố”, vì vậy việc nghiên
cứu về hàng hố và những thuộc tính của nó là một việc quan trọng có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đối với quá trình cạnh tranh.
Tóm lại để tìm hiểu và làm rõ về hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa, cả nhóm
chúng tơi đã quan tâm và chọn đề tài: “Lý luận của kinh tế chính trị học Mác – Lênin về
hàng hố và tính hai mặt của sản xuất hàng hoá. Liên hệ thực tiễn.” để làm đề tài cho
tiểu luận của môn học này.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Bài tiểu luận sẽ giải thích, phân tích, làm rõ các khái niệm “hàng hố”, “giá trị sử
dụng”, “hai thuộc tính của hàng hoá”,... theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích được mối
quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hố. Từ đó đề xuất ra các giải pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh hàng hoá Việt Nam.

1



3. Đối tượng nghiên cứu.
3.1 Đối tượng nghiên cứu phần lý thuyết:
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh
tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá tồn tại
một phạm trù lịch sử đó chính là hàng hố. Hàng hố là sản phẩm của lao động, có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi, mua bán.
Hàng hố cịn là phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hố, đồng
thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hố khi nó là đối tượng trao đổi trên thị
trường.
Mặt khác, hàng hố có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai
thuộc tính này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì
khơng phải là hàng hố.
Hiểu được tầm quan trọng của hàng hóa, đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung
vào hai thuộc tính của hàng hóa hay rộng hơn là tính hai mặt của hàng hóa.
3.2 Đối tượng nghiên cứu phần thực tiễn:
Dù ở thời đại nào, con người ln có nhu cầu trao đổi và mua bán hàng hoá. Sản xuất
hàng hố ở mỗi giai đoạn lịch sử chính là cơ sở để đất nước Việt Nam ngày càng phát triển.
Đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người cũng từ đó được cải thiện và ngày càng
phong phú hơn. Mặt khác, mọi sự vật, hiện tượng ln có tính hai mặt, sản xuất hàng hố
cũng thế, vậy tính hai mặt đó đã tác động gì đến nền sản xuất hàng hố của Việt Nam ? Đó
chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài chúng tôi.

2


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HÓA
1.1 Khái niệm cơ bản.
1.1.1 Khái niệm về hàng hóa.
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh

tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Trong nền sản xuất hàng hóa tồn tại
một phạm trù lịch sử đó chính là hàng hóa. Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi, mua bán.
Có rất nhiều tiêu thức để phân chia các loại hàng hóa như: hàng hóa thơng thường,
hàng hóa đặc biệt. hàng hóa hữu hình, hàng hóa vơ hình, hàng hóa tư nhân, hàng hóa cơng
cộng... Dạng hữu hình như: sắt, thép lương thực, thực phẩm...; Dạng vơ hình như những
dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ... Hàng hóa có thể
cho một cá nhân sử dụng hoặc nhiều người cùng sử dụng. Từ khái niệm trên cho thấy “hàng
hóa là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hóa, đồng thời sản
phẩm lao động mang hình thái hàng hóa khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường.”
Karl Marx định nghĩa hàng hóa trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thỏa
mãn nhu cầu con người nhờ có các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hóa cần phải
có tính hữu dụng đối với người dùng; giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phối bởi lao động;
sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm.
1.1.2 Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
Khái niệm sức lao động: Sức lao động là tồn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể
con người, nó được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của q trình lao
động sản xuất. Nhưng khơng phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức lao động chỉ
biến thành hàng hố khi có hai điều kiện sau:
Một là, người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức
lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu
nó do bản con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức lao động phải có

3


quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hố địi hỏi phải thủ
tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến.
Hai là, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành lao

động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán sức lao động của
mình, vì khơng cịn cách nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên
tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá. Dưới chủ nghĩa tư bản, đã xuất hiện
đầy đủ hai điều kiện đó. Một mặt, cách mạng tư sản đã giải phóng người lao động khỏi sự
lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và chúa phong kiến. Mặt khác, do tác động của quy luật giá
trị và các biện pháp tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người sản xuất
nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay một số ít người.
Việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức thuê mướn. Quan hệ làm thuê
đã tồn tại khá lâu trước chủ nghĩa tư bản, nhưng không phổ biến và chủ yếu được sử dụng
trong việc phục vụ nhà nước và quốc phòng. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản nó mới trở nên phổ
biến, thành hệ thống tổ chức cơ bản của toàn bộ nền sản xuất xã hội. Sự cưỡng bức phi kinh
tế được thay thế bằng hợp đồng của những người chủ sở hữu hàng hoá, bình đẳng với nhau
trên cơ sở “thuận mua, vừa bán”. Điều đó đã tạo ra khả năng khách quan cho sự phát triển
tự do cá nhân của các công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển tự do cá
nhân của các công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển của văn minh nhân
loại. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định sự chuyển hoá tiền
thành tư bản.
1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa.
1.2.1 Thuộc tính giá trị.
Để có thể hiệu được giá trị hàng hóa thì chúng ta phải bắt đầu từ mối quan hệ được C.
Mác gọi là giá trị trao đổi. Đây là một mối quan hệ về số lượng, nói cách khác là theo tỉ lệ
đó mà giá trị sử dụng của loại hàng hóa này có thể trao đổi với những giá trị sử dụng loại
hàng hóa khác.
VD: 3 con gà = 1 con lợn. Tức là 3 con gà có giá trị trao đổi bằng 1 con lợn.
Hai hàng hóa khác nhau trao đổi với nhau được thì theo C. Mác giữa chúng phải có
một cơ sở chung nào đó. Điểm chung ấy được biểu thị là chúng đều là sản phẩm của hao

4



phí sức lao động. Lao động hao phí để sản xuất ra sản phẩm nào thì giá trị của sản phẩm ấy
càng cao, tức là hàng hóa có giá trị. Mặc dù khác nhau về giá trị sử dụng nhưng các loại
hàng hóa này đều là kết quả của sự hao phí sức lao động của người sản xuất đối với hàng
hóa đó, do đó hàng hóa có giá trị. Bên cạnh, giá trị hàng hóa cịn là biểu hiện của mỗi quan
hệ giữa những người mua, người bán; là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với nền sản xuất
hàng hóa.
Mặt khác, giá trị trao đổi có giá trị làm nội dung, là cơ sở. Ngược lại, giá trị trao đổi
chỉ đơn giản là hình thức biểu hiện của giá trị mà thơi. Khi nào có sản xuất, trao đổi hàng
hóa giữa người mua và bán thì khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Nếu giá trị sử dụng là
thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
1.2.2 Thuộc tính giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của một vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người. Nhu cầu ở đây có thể là nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần, cũng
có thể là nhu cầu tiêu dùng cá nhân, thậm chí là nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất. Đối với
bất kì một hàng hóa nào cũng sở hữu một hay một số công dụng nhất định, cụ thể. Chính
cơng dụng đó hình thành nên giá trị sử dụng của nó. Chẳng hạn, cơm để ăn, xe để đi chuyển,
vui chơi để giảm bớt căng thẳng,…
Giá trị sử dụng có các đặc điểm cơ bản sau:
− Số lượng giá trị sử dụng của một hàng hóa khơng phải ngay một lúc đã phát hiện
được hết mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật.
Từ ý nghĩa này mà giá trị sử dụng được xem rằng có tính lịch sử cụ thể, phụ thuộc nhất
định vào sự phát triển của khoa học – kỹ thuật. Và các giá trị sử dụng là những vật phẩm
mang giá trị trao đổi, giá trị của nó chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dụng
nó mà thơi, khi chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó ln ở trạng thái khả năng,
có thể gọi nơm na là chưa được kích hoạt. Để giá trị sử dụng có khả năng chuyển hóa
thành giá trị sử dụng hiện thực thì nó phải được sử dụng, tiêu dùng. Qua đó nói lên ý nghĩa
quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất.
− Các giá trị sử dụng của từng loại hàng hóa là do chính những thuộc tính tự nhiên,
chẳng hạn như vật lý, hóa học,… các yếu tố mà tham gia vào việc cầu thành nên vật phẩm


5


đó quyết định. Vì thế, giá trị sử dụng của hàng hóa là phạm trù vĩnh viễn. Bởi lẽ nó tồn tại
trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất.
− Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hố, nó khơng phải là
giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác,
cho xã hội thông qua trao đổi – mua bán. Vì vậy, nếu là người sản xuất thì hiển nhiên phải
chăm lo cho giá trị sử dụng của hàng hóa mình sản xuất ra sao cho đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao và nghiêm khắc của người tiêu dùng.
− Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng khơng
phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Ví dụ, khơng khí rất cần cho
cuộc sống con người nhưng khơng phải là hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng
hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để mua bán, để trao đổi, cũng có
nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.
1.2.3 Mối quan hệ của hai thuộc tính.
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa ln có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau,
nó vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau, mặt thống nhất thể hiện ở chỗ hai thuộc tính
này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này
mới là hàng hóa, nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó sẽ khơng phải là hàng hóa. Mẫu
thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất. Nhưng
với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều là sự kết tinh của lao động
trong đó.
Thứ hai, tuy giá trị và giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng q trình
thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt không gian va thời gian. Hai thuộc tính của
hàng hố này khơng phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong hàng hoá mà
là do lao động sản xuất hàng hố có tính chất hai mặt, vừa có tính trừu tượng (lao động trừu
tượng), vừa có tính cụ thể (lao động cụ thể). Ta có thể nói, giá trị của hàng hoá là lao động
trừu tượng kết tinh trong hàng hố. Đây chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.


6


Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình
thức biểu hiện của giá trị ra bên ngồi. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản
xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau.
Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình
chứa đựng trong các hàng hố. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội giữa những người
sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Nếu
giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Như vậy, hàng hố là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng
là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử
dụng, nhưng mục đích của họ khơng phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến
giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi.
Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản
xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu
khơng thực hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.
1.3 Tính hai mặt của hàng hóa
Nghiên cứu mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hố với lao động sản xuất
hàng hoá, C.Mác gọi là lao động phức tạp và lao động giản đơn được nhân bội lên. Đây là
cơ sở lý luận quan trọng để cả nhà quản trị và người lao động tính tốn, xác định mức thù
lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động lao động trong quá trình tham gia vào các
hoạt động kinh tế xã hội.
1.3.1 Lao động cụ thể.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những ngành nghề
chun mơn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có thao tác riêng, đối tượng riêng, mục đích
riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị hàng hoá sử dụng riêng. Trong đời
sống xã hội, có vơ số những hàng hoá với những giá trị sử dụng khác nhau. Khoa học kỹ

thuật, phân công lao động ngày càng phát triển thì xã hội ngày càng nhiều ngành nghề khác
nhau, do đó có nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Khoa học kỹ thuật, phân công lao động
càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng. Mỗi lao động

7


cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại thì càng
tạo ra nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công
lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học cơng nghệ, các hình thức lao động cụ
thể ngày đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã
hội.
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là một phạm trù
vĩnh viễn, vì vậy, lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm
đó, nó là một điều kiện khơng thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào.
Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát
triển và sự áp dụng khoa học công nghệ vào nền sản xuất, đồng thời cũng là tấm gương
phản chiếu trình độ phát triển kinh tế, khoa học ở mỗi một thời đại.
Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản xuất
ra, giá trị sử dụng của các vật thể hàng hóa bao giờ cũng có hai nhân tố hợp thành đó là vật
chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật
chất làm nó thích ứng với nhu cầu của con người.
1.3.2 Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức óc, sức bắp thịt và sức
thần kinh) của người sản xuất hàng hố nói chung. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của
hàng hoá, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi. Có thể nói giá trị hàng hố là lao
động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá.
Giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra giá trị
hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa. Nếu lao
động cụ thể chỉ là một trong hai nhân tố tạo thành giá trị sử dụng, thì lao động trừu tượng

là nhân tố duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị của mọi hàng hóa chỉ là sự kết tinh
của lao động trừu tượng.
Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động của sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất
lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý luận lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự;
giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái

8


ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của
nó giảm xuống hoặc khơng thay đổi.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất
xã hội của người sản xuất hàng hóa.
1.4 Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.
1.4.1 Khái niệm lượng giá trị hàng hóa.
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động tiêu hao để làm ra hàng hóa đó quyết
định và được đo bằng đơn vị thời gian như: ngày, giờ, tuần, tháng, năm. Lượng giá trị của
hàng hóa khơng phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động
xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết hình thành tự phát trên thị trường do cạnh tranh,
thường là do thời gian trung bình của người sản xuất và cung cấp đại bộ phận hàng hóa cho
thị trường.
“Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy”1. Đó cũng chính
là giá trị xã hội chứ khơng phải là giá trị cá biệt của hàng hóa.
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.
1.4.2.1 Năng suất lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản
phấm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết đế sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm.

Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã
hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã
hội. Vì vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng
suất lao động xã hội.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất
1

C.Mác và Ph.Ăngghen tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.68

9


lao động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa
càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn
vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động
xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng
suất lao động xã hội.
Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của người
lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự
nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng
giá trị hàng hóa. Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự căng
thẳng mệt nhọc của người lao động. Vì vậy, khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao
động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra
cũng tăng lên tương đương, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét
về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
1.4.2.2 Mức độ phức tạp của lao động.
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị của

hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản đơn
và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao
động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo,
huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề mới có thể tiến hành được.
Khi nghiên cứu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một vấn đề đặt
ra là phải chăng trong cùng một đơn vị thời gian lao động, thì bất cứ ai làm việc gì, nghề gì
cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau?
C.Mác chỉ rõ: Trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra nhiều giá
trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao động giản đơn, có nghĩa là
bất kỳ một người bình thường nào, khơng phải trải qua đào tạo, khơng cần có sự phát triển
đặc biệt, cũng có thể làm được. Cịn lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động

10


phức tạp địi hỏi phải có sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề. Vì vậy, trong
cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị
hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội
lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng
hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức
tạp thành lao động giản đơn trung bình. C.Mác viết: "Lao động phức tạp... chỉ là lao động
giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn là lao động giản đơn được nhân
lên....”
Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết,
giản đơn trung bình.
1.4.2.3 Cường độ lao động.
Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ tổn hao sức lao động của nhân lực thực
hiện công việc trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay
căng thẳng của lao động.

Khi cường độ lao động tăng lên trong một đơn vị thời gian, đồng nghĩa với việc tăng
mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh và mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của
lao động cũng tăng tương ứng. Tăng cường độ lao động thực chất là việc kéo dài thời gian
lao động nên hao phí lao động khơng đổi trong một đơn vị sản phẩm.
Điều này có nghĩa, nếu cường độ lao động tăng thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng
hóa sản xuất ra trong doanh nghiệp cũng tăng tương ứng. Giá trị của một đơn vị hàng hóa
khơng đổi.

11


CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG TRONG TÍNH
HAI MẶT CỦA SẢN XUẤT HÀNG HĨA Ở VIỆT NAM.
Hàng hóa có hai thuộc tính khơng phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh
trong nó mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: vừa mang
tính cụ thể (lao động cụ thể) vừa mang tính trừu tượng (lao động trừu tượng).
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định. Lao động cụ thể của người thợ máy, thợ dệt, thợ cơ khí. Mỗi lao
động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích, phương pháp lao động, kết quả sản xuất riêng.
Chính cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau, mỗi lao động cụ thể tạo ra
một giá trị sử dụng nhất định. Trong xã hội có vơ số giá trị sử dụng mn hình, mn vẻ
khác nhau đó là cho lao động cụ thể đa dạng, nhiều vẻ tạo ra.
Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn. Trong một hình thái kinh tế xã hội, những
hình thức của lao động cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của kĩ thuật, của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội. Lao động khai thác mỏ trước kia là lao động thủ công,
ngày nay là lao động cơ giới hóa. Khoa học ngày càng phát triển thì các hình thức lao động
cụ thể càng phong phú và đa dạng. Lao động cụ thể khác nhau làm cho các hàng hóa khác
nhau về giá trị sử dụng nhưng giữa các hàng hóa đó có điểm chung giống nhau, nhờ đó có
thể trao đổi được với nhau.
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ hình thức thể hiện

cụ thể của nó để quy về cái chung đồng nhất đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao cơ bắp
thần kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng
tạo ra giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng ở đây không phải là sự tiêu hao sức lực của
con người nói chung mà là sự tiêu phí sức lực của người sản xuất hàng hóa chỉ có sản xuất
sản phẩm để bán thì lao động sản xuất hàng hóa đó mới có tính chất là lao động trừu tượng.
Mức chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa. Khi mức độ chi phí để làm
ra một mặt hàng mà cao thì tất nhiên sản phẩm đó đem ra thị trường để bán thì mức giá cho
mặt hàng đó sẽ cao và ngược lại mức giá sẽ thấp. Hay mức chi phí để làm ra một sản phẩm
sẽ tỉ lệ thuận với mức giá cả của mặt hàng đó. Tuy nhiên, việc sản xuất ra quá nhiều mà

12


người tiêu dùng thì ít thì điều tất nhiên là giá cả của hàng hóa đó sẽ giảm cho dù chi phí để
sản xuất ra mặt hàng đó có cao tới mấy…(cung lớn hơn cầu). Cùng là sản xuất điện tử: để
sản xuất ra một chiếc ti vi thì chi phí lao động (cơng sức, trí tuệ, thời gian, chi tiêu…) sẽ ít
hơn rất nhiều so với việc sản xuất một chiếc máy vi tính. Hoặc chỉ mới cách đây khoảng 30
năm, để mua được một chiếc tivi đen trắng thì con rất khó khăn, nhưng tới bây giờ với cơng
nghệ tiên tiến và việc sản xuất hàng loạt thì ai cũng có thể mua được cho mình một chiếc
tivi với màn hình QLED với độ phân giải cao (chứ không chỉ là chiếc tivi đen trắng cũ kĩ
nữa.
Giá trị hàng hóa: Giá trị hàng hóa ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa, giá trị hàng hóa
thơng qua giá trị trao đổi mà giá trị trao đổi được thể hiện qua giá cả hàng hóa qua bn
bán. Cụ thể hơn là khi giá trị của hàng hóa được đẩy lên cao, người tiêu dùng ưa chuộng
thì giá cả của nó cũng sẽ tăng cao và ngược lại.
Tiền tệ: Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của
tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước
đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hóa khác nhau; là tiêu
chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hóa tiền
tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Khi

nước ta gia nhập WTO, ngày càng có nhiều cơng ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dẫn
đến cần một lượng tiền Việt Nam Đồng lớn để quy đổi, khi ấy lượng tiền Việt phát hành ra
cao hơn lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Lạm phát bao giờ cũng đi đơi với việc giá cả
của hầu hết hàng hóa đồng loạt tăng lên làm cho giá trị của mỗi đơn vị tiền tệ giảm, sức
mua của đồng tiền giảm. Chính vì vậy, để đo lường mức lạm phát, người ta dùng chỉ số giá
cả. Giá đồng USD: Hiện nay, USD được xem là đồng tiền mang tính thanh tốn tồn cầu.
Do đó, theo thơng lệ, các loại hàng hóa hay ngoại tệ khi giao dịch trên thế giới thường được
định giá theo USD. Chính vì vậy, bất cứ tác động nào ảnh hưởng đến giá trị đồng USD thì
cũng tác động trực tiếp đến biến động giá cả của vàng.
Khoa học công nghệ: Với sự phát triển như vũ bão của khoa học cơng nghệ thì tiến
trình tự động hóa ngày càng lan rộng trong các xí nghiệp - nhà máy - công ty đã giúp cho

13


cơng việc sản xuất được nhanh chóng, thuận lợi đã tiết kiệm được thời gian làm việc, công
sức lao động, chi phí sản xuất…từ đó đã hạ được giá thành sản phẩm, mà chất lượng sản
phẩm vẫn đảm bảo thậm chí cịn chất lượng cịn cao hơn.
Mặt khác, thuyết giá trị lao động cung cấp giải thích tổng qt hồn hảo nhất về giá
tương đối và sự hạn chế của Smith trong thuyết lao động về “nền kinh tế nguyên thủy” là
không cần thiết. Đối với Ricardo, mối quan hệ giữa giá trị và thời gian lao động tiêu dùng
trong sản xuất thật dễ hiểu, mỗi sự gia tăng số lượng lao động phải làm tăng giá trị của hàng
hóa đó mà lao động thực hiện, khi mỗi sự giảm bớt sẽ hạ giá trị ấy xuống.
Mặc dù Ricardo không hề dao động quan điểm cơ bản, tuy nhiên ông cũng bổ sung
một số đặc điểm cần thiết để làm cho thuyết thực tế hơn. Trong tiến trình này, thuyết giá trị
của ông dừng lại như một thuyết lao động thuần túy. Nhưng Ricardo luôn lảng tránh những
đặc điểm của chính mình trong phân tích và chính sách tiếp theo sau và sử dụng thuyết lao
động đơn thuần để đi đến kết luận chung.
Ngoại lệ thứ nhất đối với quy tắc trên mà Ricardo cho phép là trong trường hợp hàng
hóa khơng thể sản xuất. Ơng cho rằng: “Có một số hàng hóa mà giá trị của nó chỉ được xác

định bằng tính khan hiếm. Khơng có lao động nào có thể gia tăng số lượng hàng hóa như
thế, vì thế giá trị của chúng không thể hạ thấp bằng mức cung gia tăng”. Giá trị bức họa
của Renoir hay một chai Lafitte-Rothschild năm 1929, theo lời Ricardo, “hoàn toàn phụ
thuộc vào số lượng của lao động ban đầu cần thiết để tạo ra chúng, và thay đổi với của cải
đang thay đổi và sở thích của những người khát khao sở hữu chúng”. Về số lượng, ngoại lệ
này không quan trọng đối với Ricardo, vì “Những hàng hóa này... hình thành một bộ phận
rất nhỏ của đa số hàng hóa trao đổi hàng ngày trên thị trường”.

14


KẾT LUẬN
Hàng hóa hiện hữu ở khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng có thể ở dạng hữu hình hoặc
vơ hình, nhờ áp dụng lý luận về hàng háo của C.Mác đã tạo cơ hội cho sự hình thành và
phát triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam cho đến ngày nay. Lý luận có vai trị đặc
biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay. Nó giải thích
được bản chất của các thuộc tính hàng hóa, sự phân biệt giữa yếu tố bản chất và hiện tượng
liên quan đến trao đổi và mua bán hàng hóa. Nó cũng là nền tảng để giải thích sự ngang
bằng về giá trị trao đổi. Lý luận giúp phân tích đầy đủ về bản chất của tế bào kinh tế trong
chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó trong q trình trao đổi, mua bán.
Riêng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hôị chủ nghĩa Việt Nam, nó là cơ sở
để địi hỏi đảm bảo tính cạnh tranh, tính cơng bằng và hồn thiện thể chế kinh tế, cải thiện
vai trị quản lí kinh tế của Nhà Nước. Cùng với khoa học kỹ thuật và cơng nghệ hiện đại
hàng hố đã biến tướng vơ cùng đa dạng. Vì vậy việc nghiên cứu về hàng hố và những
thuộc tính của nó là một việc quan trọng và cần thiết. Việc nghiên cứu này giúp đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa . Mục đích chính của bất kể
nền kinh tế nào cuối cùng cũng là sản xuất ra hàng hóa đáp ứng nhu cầu của con người,
chính vì thế hàng hóa có vai trị rất quan trọng, ngày càng được quan tâm phát triển tiên
tiến.
Quốc gia nào muốn trở thành cường quốc thì khơng chỉ chính trị, xã hội vững mạnh

mà còn cần một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Và để nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thì
nền kinh tế đó ắt phải có năng lực cạnh tranh hàng hóa cao đủ thâu tóm thị trường mang về
nguồn lợi nhuận lớn. Cạnh tranh hàng hóa có mặt tốt và cũng có mặt xấu. Bất kể nhà nước
chính phủ nào hiện nay cũng đều cố gắng xây dựng nền kinh tế nước mình trở nên hùng
mạnh giảm thiểu những tiêu cực của cạnh tranh hàng hóa mang lại bằng những chính sách
khoa học thiết thực. Việt Nam cũng vậy, với nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng thì
việc nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa đẩy nền kinh tế lên những bước khởi sắc sẽ giúp
cho nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng trở thành nền kinh tế phát triển ngang tầm với Trung
Quốc, Hàn Quốc, Singapo,… Nền kinh tế Việt Nam đang được các nhà đầu tư xem như là

15


một ngôi sao đang lên của Châu Á. Song song với việc phát triển kinh tế chúng ta cần phải
đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố phát triển và bền vững, đặc biệt là giải quyết các vấn
đề xã hội, khắc phục khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, giải quyết tình trạng lãng phí và
ơ nhiễm mơi trường…

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Leenin.
2. Nguyễn Nam (2022), Hai thuộc tính của hàng hóa liên hệ với hàng hóa được sản
xuất ở Việt Nam, Luật Hoàng Phi, ngày truy cập: 27/05/2022.
3. Nguyễn Tuyết Anh (2021), Khái niệm hàng hóa, phân tích mối quan hệ giữa hai
thuộc tính của hàng hóa, Luận văn 1080, ngày truy cập: 28/05/2022.
4. Viện Pháp Luật Ứng Dụng Việt Nam (2021), Lượng giá trị hàng hóa và các nhân
tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa, />ngày truy cập: 28/05/2022.


17



×