MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 4
I. THẾ NÀO LÀ LÃNH ĐẠO, THẾ NÀO LÀ QUẢN LÝ 4
1. Lãnh đạo là gì? 4
2. Quản lý là gì? 5
II. SỰ KHÁC NHAU GIỮA LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ 6
1. Sự khác nhau về công việc của lãnh đạo và quản lý 7
2. Sự khác nhau về vai trò của nhà lãnh đạo và nhà quản lý 8
2.1. Vai trò của nhà lãnh đạo 8
2.2. Vai trò của nhà quản lý 9
3. Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý 10
III.LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ VỚI THỂ CHẾ ĐẢNG LÃNH ĐẠO,
NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ Ở VIỆT NAM
10
1. Thể chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ ở Việt
Nam
11
2. Một số hạn chế trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ ở Việt Nam hiện nay
13
3. Giải pháp nâng cao chất lượng của hệ thống lãnh đạo, quản lý, làm chủ
ở Việt Nam
14
VI.LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI ĐƠN VỊ 16
1. Quản lý thực hiện kế hoạch giáo dục của ban giám hiệu 16
2. Chi bộ thực hiện vai trò lãnh đạo xây dựng nhà trường
17
KẾT LUẬN 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
MỞ ĐẦU
T
rong xã hội con người, khi xuất hiện các nhóm người, các cơ quan, tổ
chức có chung yêu cầu hoạt động để đạt tới một mục đích nào đó thì xuất hiện
người thủ lĩnh, người lãnh đạo hay người quản lý.
Đối với nhiều người, thậm chí là những người lãnh đạo, người quản lý còn
nhầm lẫn giữa lãnh đạo và quản lý. Nhiều khi người lãnh đạo lại thực hiện chức
năng của người quản lý, hay ngược lại người quản lý lại thực hiện chức năng của
người lãnh đạo. Trên thực tế có rất nhiều người có thể được coi vừa là nhà lãnh đạo
vừa là nhà quản lý. Công việc của họ là quản lý, nhưng họ hiểu ra rằng họ có thể
dùng tiền mua nhiều thứ trừ "trái tim" của những người lao động, càng khó hơn để
tập hợp những trái tim này vượt qua một chặng đường dài và nhiều gian khổ, khi
đó họ lựa chọn cách làm của một nhà lãnh đạo.
Vậy sự khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý là gì? Đây là câu hỏi có tần suất
nhắc lại cao nhất và cũng có từng ấy cách trả lời khác nhau. Sự khác biệt lớn nhất
giữa người lãnh đạo và nhà quản lý nằm ở cách thức họ khuyến khích người lao
động, sự khác biệt này cũng điều chỉnh những hành động khác của họ.
Ở Việt Nam, việc phân biệt sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý còn khá
mơ hồ. Sự mơ hồ ấy không phải không có lý do. Ranh giới giữa hai tư cách ấy
không phải lúc nào cũng thật rõ ràng. Cả hai đều là những người nắm giữ những
chức vụ thật cao và đều có những trách nhiệm thật nặng. Cả hai đều phải chứng tỏ
có tài năng và sự am hiểu công việc thuộc chức năng của mình. Tuy nhiên, dù vậy,
nhà lãnh đạo vẫn khác nhà quản lý. Không phải người nào có tài quản lý cũng đều
có tài lãnh đạo. Hoặc ngược lại. Mỗi chức phận có những yêu cầu và những phẩm
chất khác hẳn nhau.
Việc phân biệt sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý là rất cần thiết. Bởi
vậy, tiểu luận “Sự khác nhau giữa lãnh đạo, quản lý và thể chế đảng lãnh đạo,
nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở Việt Nam” giúp cho chúng ta có sự nhìn
nhận đầy đủ về lãnh đạo và quản lý, từ đó vận dụng vào công việc của bản thân
một cách phù hợp để hướng tới mục đích đề ra. Bởi vì người ta mong đợi rất nhiều
ở người lãnh đạo. Nếu bạn đã từng là người lãnh đạo thì bạn sẽ hiểu rằng mọi
người mong muốn bạn là người có tài xoay xở và làm việc độc lập. Khi công việc
không thuận lợi, bạn phải gánh lấy trách nhiệm, và khi thành công thì các thành
2
viên trong nhóm phải được khen thưởng. Và vì, chúng ta phải biết trước cách làm
lãnh đạo để làm nhân viên cho tốt, và biết trước thì mới hiểu cách vươn lên làm
lãnh đạo cho đúng. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng của hệ thống lãnh đạo,
quản lý, làm chủ ở Việt Nam.
NỘI DUNG
I. THẾ NÀO LÀ LÃNH ĐẠO, THẾ NÀO LÀ QUẢN LÝ
Những nhà nghiên cứu lý thuyết về “lãnh đạo học” và “quản lý học” cũng
chưa thống nhất về định nghĩa cho hai từ trên. Dưới góc độ của khoa học lãnh đạo
3
chúng ta sẽ tìm hiểu về lãnh đạo và quản lý để từ đó thấy được sự khác nhau giữa
lãnh đạo và quản lý.
1. Lãnh đạo là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về lãnh đạo.
Theo James Gibson: Lãnh đạo là một phần công việc của quản
lý nhưng không phải toàn bộ công việc quản lý. Lãnh đạo là năng lực
thuyết phục ngườikhác hăng hái phấn đấu cho những mục tiêu đã xác định.
George Tery: Lãnh đạo là hoạt động gây ảnh hưởng đến con người
để họ phấn đấu tự nguyện cho các mục tiêu của tổ chức.
R. Tannenbaum, R. Weschler và F. Massarik: Lãnh đạo là ảnh hưởng
liênnhân cách được thực hiện trong tình huống và được định hướng thông
qua quátrình giao tiếp nhằm đạt được mục đích chung hoặc những mục đích
chuyên biệt.
H. Koontz và các tác giả: Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người
saocho họ cố gắng một cách tự giác và hăng hái thực hiện mục
tiêu chung của tổ chức.
P. Hersey và Ken Blanc Hard: Lãnh đạo là một quá trình gây ảnh
hưởng đến các hoạt động của một cá nhân hay một nhóm nhằm đạt được mục đích
trong tình huống nhất định.
Lãnh đạo là một dạng quản lý đặc thù (quản lý con người – xã hội) – lãnh
đạo được hiểu là phương thức ứng xử của một hay một tập thể đứng đầu có ảnh
hưởng tích cực đến mọi người xung quanh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và
xác định mục tiêu.
Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) giải thích về “Lãnh đạo” là đề ra
chủ trương và tổ chức động viên thực hiện.
Theo quan điểm của khoa học lãnh đạo: là một hoạt động với nghĩa như một
quá trình khai mở tiềm năng, nhằm đem lại phúc lợi chung, thông qua sự khích lệ
và chia sẻ.
4
Lãnh: là nhận về (nhận lấy sự dìu dắt): giáo dục, thuyết phục, động viên (ảnh
hưởng bằng quyền lực mềm).
Đạo: con đường (dẫn đường) được xác định mục tiêu.
Lãnh đạo được quan niệm như một "phương thức ứng xử" của một tổ chức
mang quyền lực chính trị có vị thế đứng đầu Nên, đòi hỏi chủ thể lãnh đạo cần có
"tầm nhìn xa, trông rộng" với một thế giới quan khoa học để định hướng chiến lược
và hoạch định đường lối một cách đúng đắn. Với ý nghĩa đó - Chức năng chủ yếu
của lãnh đạo được xác định là định hướng, xây dựng các mục tiêu chiến lược, hình
thành chủ trương và đề ra đường lối.
Về cơ chế ảnh hưởng của lãnh đạo được tiến hành chủ yếu qua phương pháp
giáo dục, nêu gương kết hợp với thuyết phục và động viên, cảm hoá mọi người
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ , xác định mục tiêu.
2. Quản lý là gì?
Quản lý trong kinh doanh hay quản lý trong các tổ chức nhân sự nói chung là
hành động đưa các cá nhân trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn
thành mục tiêu chung. Công việc quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ (theo Henry Fayol):
xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm soát. Trong đó, các nguồn
lực có thể được sử dụng và để quản lý là nhân lực, tài chính, công nghệ và thiên
nhiên.
Quản lý (tiếng Anh là Management - điều khiển bằng tay) đặc trưng cho quá
trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ
chức kinh tế, thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân
lực, tài chính, vật tư, trí thực và giá trị vô hình).
Nói đến quản lý là một hoạt động có "tính tổ chức", "tính mục đích" nhằm
giúp con người thực hiện hoạt động có hiệu quả trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Trong đời sống xã hội, quản lý không chỉ với nghĩa là quản lý con người, quản lý
xã hội mà còn có nghĩa quản lý chung với tính cách là " công cụ", là "phương tiện"
5
cho con người trong quản lý các đối tượng. Ví dụ: Quản lý thông tin, Quản lý hiện
vật Về quản lý xã hội - quản lý con người - khái niệm quản lý được khái quát như
một hoạt động có tính tổ chức nhằm duy trì và phát triển một tập hợp người để
cùng nhau thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ và mục tiêu đã được đặt ra.
Theo quan điểm của khoa học lãnh đạo thì Quản lý là hoạt động như một
quá trình đạt các kết quả cụ thể một cách ổn định ngay cả trong điều kiện không
hoàn toàn kiểm soát và không chắc chắn.
II. SỰ KHÁC NHAU GIỮA LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ
Lãnh đạo là đề ra chủ trương và tổ chức động viên thực hiện, còn quản lý là
tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu nhất định. Từ điển Hán ngữ
của Trung Quốc thì cũng giải thích tương tự: Lãnh đạo là xoái lĩnh và dẫn đạo tiến
lên theo một hướng nhất định, còn quản lý là tiến hành thuận lợi một việc được
giao trách nhiệm, bảo quản và xử lý, chăm sóc đồng thời có ràng buộc chặt chẽ.
Như vậy, có thể hiểu: lãnh đạo là chỉ đường, vạch lối, nhìn xa trông rộng,
hướng tới mục tiêu cuối cùng, còn quản lý là tổ chức và điều khiển theo các hoạt
động đó. Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối, nguyên lý, sách lược, còn quản
lý là tổ chức thực hiện. Lãnh đạo quan tâm đến những vấn đề chiến lược, những
mục tiêu lâu dài, còn quản lý chú trọng những yêu cầu có tính chiến thuật, mục tiêu
cụ thể và thường ngắn hạn. Lãnh đạo có thể gắn vói những khía cạnh trừu tượng
của cuộc sống, còn quản lý thường phải xử lý những vấn đề rất thực tế. Lãnh đạo
thuộc lĩnh vực chính trị, người lãnh đạo là nhà chính trị, còn quản lý thuộc lĩnh vực
hành chính, người làm quản lý là những nhà hành chính.
Lãnh đạo dùng biện pháp động viên, thuyết phục, gây ảnh hưởng dựa vào đạo
lý là chính, trái lại quản lý phải sử dụng các biện pháp chặt chẽ, dựa vào ràng buộc
của pháp chế, thể chế. Lãnh đạo tác động đến ý thức của con người, còn quản lý sử
dụng con người như một nguồn lực, nguồn nhân lưc bên cạnh nguồn tài lực và vật
lực. Lãnh đạo thuộc về phạm trù tư tưởng, lý luận và đạo đức, không có tính cưỡng
6
chế, còn quản lý lại thuộc phạm trù luật pháp, pháp quy, có ý nghĩa cưỡng chế rõ
rệt.
1. Sự khác nhau về công việc của lãnh đạo và quản lý
Nói về chức năng công việc, thì lãnh đạo và quản lý là hai công việc khác
nhau.
Những công việc chủ yếu của lãnh đạo là:
Phân tích tình hình, định hướng, vạch chiến lược.
Đưa ra các quyết định quan trọng.
Làm điểm tựa về uy tín cho tổ chức, đối với cả người bên trong lẫn người bên
ngoài.
Những công việc chủ yếu của quản lý là:
Thực hiện các quyết định của lãnh đạo.
Xử lý các công việc ngày này sang ngày khác.
Đảm bảo cho bộ máy hoạt động trơn tru.
Ở các tổ chức nhỏ, các việc lãnh đạo và quản lý hay được qui làm một, do
cùng một người (ví dụ như chủ một doanh nghiệp nhỏ) đảm nhiệm. Tuy nhiên, đối
với các tổ chức lớn, thì sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý là cần thiết. Có những
người có khả năng làm cả hai công việc lãnh đạo và quản lý, và trong các tổ chức
lớn cũng có những vị trí đòi hỏi phải làm cả hai việc. Tuy nhiên, hai công việc này
đòi hỏi những loại kỹ năng khác nhau.
Những điều mà một người lãnh đạo cần có (ngoài việc là một con người có tư
cách tốt nói chung) là:
Uy tín cá nhân cao (nếu người bên trong không phục thì khó lãnh đạo, nếu mất
uy tín với bên ngoài thì toàn bộ tổ chức mất uy tín theo).
Có trình độ cao, tầm nhìn xa trông rộng, để có thể đưa ra những định hướng và
quyết định đúng đắn.
Biết phối hợp hài hòa với bộ phận quản lý.
7
Người quản lý thì không nhất thiết cần có trình độ cao, uy tín cao hay tầm nhìn
xa trông rộng như người lãnh đạo, nhưng ngược lại cần những đức tính như:
Hiểu được và tuân theo các quyết định của lãnh đạo
Có tính kỷ luật, cẩn thận, tỉ mỉ, nắm sát các chi tiết (người lãnh đạo có thể
không mạnh những điểm này).
Tùy lĩnh vực quản lý mà cần có trình độ chuyên môn tương ứng nhất định.
Ví dụ: Một người làm trưởng phòng nhân sự (một chức vụ quản lý) ở một chỗ
này, thì dễ có thể chuyển sang làm trưởng phòng nhân sự ở chỗ khác, vì làm quản
lý nhân sự ở đâu cũng gần giống nhau, đòi hỏi cùng một loại kỹ năng. Nhưng một
người làm viện trưởng Viện Hóa (một chức vụ lãnh đạo) cần có uy tín trong ngành
hóa học, và khó có thể chuyển thành làm viện trưởng Viện Cơ Học.
Phương thức quản lý: Trên cơ sở tuân thủ pháp luật và các nguyên tắc, chế
tài quá trình quản lý được tiến hành chủ yếu bằng phương pháp hành chính; cưỡng
chế
2. Sự khác nhau về vai trò của nhà lãnh đạo và nhà quản lý
2.1. Vai trò của nhà lãnh đạo
Lãnh đạo có vô số công việc cần làm trong mỗi ngày làm việc của họ. Tuy
nhiên, việc xác định được các trọng tâm công việc là vô cùng quan trọng bởi nếu
không đạt được điều đó, tổ chức sẽ đi sai đường.
Thiết lập tầm nhìn cho tổ chức: Thông thường nhân tố này bị xem là mông
lung, song thực tế cho thấy tầm nhìn chính là ngọn hải đăng chỉ đường cho mỗi tổ
chức. Không có tổ chức nào có tầm nhìn kém, không có tầm nhìn rõ ràng hay thậm
chí không có tầm nhìn lại thành công trong thực tế.
Tập hợp quần chúng: Để tập hợp được quần chúng, lãnh đạo cần làm cho họ
thấu hiểu, thích thú, đam mê và tin tưởng. Quần chúng trong trường hợp nào cũng
là nền tảng cho thành công.
8
Cổ vũ, động viên toàn bộ đội ngũ: Công việc quản lý thường làm cho các
thành viên bị ức chế và cảm thấy mất động lực hành động. Chính vì vậy sự cổ vũ,
động viên của lãnh đạo lại càng cần thiết.
Xây dựng chiến lược cho tổ chức: Đây là công việc hay bị bỏ qua song lại rất
cần thiết.
Ra quyết định: Là bước quan trọng nhất, song lại chỉ là kết quả của cả một
quá trình.
Tạo ra những sự thay đổi: Tình hình bên ngoài luôn có những biến động; bao
gồm cả môi trường toàn cầu, biến động kinh tế toàn cầu đến tình hình quốc gia,
tình hình của cả ngành kinh doanh đó. Kết hợp với thay đổi của các nhân tố nội tại
công ty đòi hỏi có sự thay đổi và lãnh đạo cần phải là người tạo ra thay đổi đó.
Tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh: Cần hài hòa giữa cống hiến và
hưởng thụ. Có vô số công ty đã thành công trong kinh doanh. Song các thành công
không tính đến các nhân tố phát triển bền vững sẽ đều phải trả giá sớm muộn.
2.2. Vai trò của nhà quản lý
Vai trò giao tiếp, quan hệ: Đối với bên ngoài là đại diện cho tập thể mà
người đó quản lý. Đối với bên trong là lãnh đạo, liên kết mọi người để hoàn thành
mục tiêu chung
Vai trò thông tin: Thu thập thông tin từ cấp dưới. Phổ biến thông tin từ cấp
trên. Cung cấp thông tin cho bên ngoài.
Vai trò quyết định: Đây là vai trò quan trọng nhất của người quản lý. Nhà
quản lý là người có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về những quyết định của
mình.
3. Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý
9
Trong thực tiễn - Lãnh đạo và quản lý tạo thành một chỉnh thể thống nhất
trên cơ sở tính chất, chức năng và phương thức hoạt động của lãnh đạo và quản lý,
trong đó - Lãnh đạo là đề ra đường lối và lãnh đạo đường lối bằng phương pháp
giáo dục, thuyết phục, động viên mọi người trong quá trình thực hiện đường lối.
Còn quản lý là sự cụ thể hoá đường lối thành kế hoạch, thành nhiệm vụ và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ bằng biện pháp hành chính và bằng pháp luật Giữa lãnh đạo,
quản lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau – lãnh đạo không
quản lý dễ dẫn tới chung chung, thiếu cụ thể, ngược lại quản lý không lãnh đạo dễ
dẫn đến mất phương hướng. Để lãnh đạo tốt nhất thiết phải là nhà quản lý giỏi,
đồng thời để quản lý giỏi cần phải hiểu biết về người lãnh đạo.
Lãnh đạo và quản lý tuy khác nhau nhưng đều phục vụ chung một mục đích
cuối cùng. Dù là một tổ chức kinh tế, văn hóa, một quốc gia, mục tiêu dài hạn hay
ngắn hạn thì đều phục vụ một mục đích cuối cùng mà thôi. Các nhiệm vụ, kế hoạch
có đạt được thì các chủ trương, chiến lược mới có cơ sở để thực hiện, sự chỉ đạo
thường xuyên có chặt chẽ, có đúng pháp luật thì công việc mới hoàn thành, có hiệu
suất thì công việc cuối cùng mới có hiệu quả.
III. LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ VỚI THỂ CHẾ ĐẢNG LÃNH ĐẠO,
NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ Ở VIỆT NAM
1. Thể chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ ở Việt
Nam
Thể chế chính trị “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chứa
đựng nhiều nội dung cần làm rõ để có biện pháp thực hiện hiệu quả nhất. Nói một
cách hình thức, thì ở Việt Nam cũng có phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý, theo mô
hình “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý”. Nhưng đi vào chi tiết hơn, thì những
người đáng nhẽ phải là lãnh đạo (ví dụ viện trưởng một viện nghiên cứu) thì lại
thành quản lý, còn người đáng nhẽ làm chức năng quản lý (ví dụ trưởng phòng tổ
10
chức) thì có khi lại thành lãnh đạo. Tức là các chức năng quản lý và lãnh đạo nhiều
khi bị đảo lộn, và một bộ máy như vậy sẽ không có hiệu quả cao.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành vừa qua đã được
đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. Bởi ai cũng hiểu, một Đảng cầm
quyền, nếu không chú trọng củng cố và nâng cao sức chiến đấu, xa rời dân, mất dân
chủ thì Đảng sẽ tự đánh mất quyền lãnh đạo mà nhân dân đã đặt niềm tin.
Một tổ chức Đảng không biết trọng dân, đánh mất niềm tin trong dân thì sớm
muộn gì cũng đánh mất quyền, càng không thể giữ được quyền lãnh đạo, vì “đẩy
thuyền, lật thuyền cũng là dân”.
Dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngay khi thành lập và được nhân
dân tin tưởng, hơn tám thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tận tâm tận lực để
lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng Nhà nước cách mạng của dân, do dân và vì dân. Biết dựa vào dân, gắn bó
chặt chẽ với dân, nhân lên sức mạnh lớn lao của nhân dân nên Đảng ta ngày càng
vững mạnh.
Lịch sử đã chứng minh: Đảng cầm quyền vững mạnh, trước hết phải vững từ
nội lực của mình, từ niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy, Nghị quyết 4 của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI lần này thể hiện rõ tính cấp bách của
công tác xây dựng Đảng, chấn chỉnh tình trạng một số cán bộ đảng viên, tổ chức
Đảng có biểu hiện xa dân, lơ là việc thực thi dân chủ, không chú trọng tu dưỡng
phẩm chất đạo đức đảng viên, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, làm xói mòn
lòng tin của nhân dân.
Soi vào mình để tự chấn chỉnh, Đảng sẽ có cơ hội làm trong sạch đội ngũ.
Do đó, mỗi cán bộ đảng viên, tổ chức đảng phải thường xuyên đổi mới tư duy, đổi
mới công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước một cách khoa học, hiện đại, vì
11
lợi ích của dân, của nước và phù hợp với xu thế thời đại. Đây là yêu cầu cấp thiết
để Đảng không rơi vào tình trạng quan liêu, giáo điều, xa dân.
Khi Đảng cầm quyền thực sự trong sạch, vững mạnh, toàn tâm toàn ý vì dân,
lo cho dân, cho nước thì Đảng được dân tin tưởng. Đó mới chính là thực chất ý
nghĩa vinh quang của Đảng. Ngược lại, nếu Đảng cầm quyền xem nhẹ việc thực thi
dân chủ, không gắn bó với dân, không xây dựng được Đảng ngang tầm thời đại,
xứng đáng với niềm tin mà nhân dân đã trao thì Đảng tự đánh mất quyền lãnh đạo,
đánh mất vai trò lịch sử của mình. Bởi giành được quyền đã khó, để mất quyền rồi
lấy lại, càng khó gấp vạn lần.
Thực tiễn đã chứng minh rằng: Chỉ có nhân dân chứ không ai khác, là người
thẩm định chính xác nhất, và cũng chỉ có nhân dân mới là người lựa chọn sáng suốt
nhất đảng chính trị, nhà chính trị cầm quyền thay mặt mình lãnh đạo đất nước. Ai
thu phục được lòng dân, được dân ủng hộ thì người đó sẽ thành công. Ai làm mất
lòng dân thì dù tài giỏi, quyền hành đến mấy tất sẽ thất bại.
Trong mối quan hệ giữa ba chủ thể, Đảng, nhà nước và nhân dân, cũng như
giữ ba chức năng, lãnh đạo, quản lý và làm chủ, dễ dàng nhận thấy vai trò làm chủ
của nhân dân giữ vị trí tiền đề cho cả ba chức năng, vì không có nhân dân làm chủ
thì sự lãnh đạo và quản lý cũng không còn thuộc về chủ nghĩa xã hội nữa. Nhà
nước quản lý giữ vai trò làm phương tiện hay điều kiện để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân trong công việc quản lý quốc gia và xã hội. Còn sự lãnh đạo của
Đảng giữ vị trí then chốt trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân và dẫn
dắt chính quyền nhà nước quản lý đất nước. Điều quan trọng ở đây là bước vào giai
đoạn mới, nhịp độ công nghiệp hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ngày càng khẩn trương, đồng thời trình độ dân sinh và dân trí
cũng ngày càng cao thì yêu cầu nâng cao chất lượng cuar lãnh đạo và quản lý sẽ
ngày càng cấp thiết và bức súc.
12
Trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo về
chính trị, nhưng không thể vì thế mà có thể đứng trên Nhà nước hay trên luật pháp
nhà nước, không chịu sự ràng buộc của luật pháp; cũng không thể hòa vào trong
nhà nước, quốc gia hóa, hành chính hóa làm thay hay hoạt động trùng lặp, vì chức
năng của Đảng và Nhà nước hoàn toàn khác nhau, không thể nhầm lẫn.
2. Một số hạn chế trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ ở Việt Nam hiện nay
Trong mối quan hệ Đảng - Nhà nước - nhân dân còn những khuyết điểm, hạn
chế sau:
Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của quá trình
đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước; còn có tình trạng bao biện, chồng chéo
và buông lỏng nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội chưa phát huy đúng mức vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, chưa phân rõ, còn lẫn lộn chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo
với Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng bị "Nhà nước hóa", cồng kềnh, không rõ chức
năng lãnh đạo. Càng xuống dưới càng khó phân biệt chức năng lãnh đạo, quyền lực
chính trị. Mô hình tổ chức Đảng - Nhà nước - đoàn thể còn cồng kềnh, chồng chéo,
dư thừa, kém hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ đã
được xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu để cụ thể hóa đầy đủ.
Thứ tư, bộ máy hành chính còn nhiều tầng, nhiều nấc làm cho việc quản lý
các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả. Tình trạng quan
liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu của một số bộ phận cán bộ, công chức nhà nước chưa
13
được khắc phục, kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều nơi. Dân chủ quá
trớn, những hành vi trái với lợi ích của nhân dân, của Nhà nước chưa bị nghiêm trị.
Nhiều biểu hiện dựa vào dân chủ để phá hoại kỷ cương.
Thứ năm, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể không ít nơi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính hóa nặng nề, xơ
cứng, chậm đổi mới; một số cán bộ đoàn thể chưa thật gần với quần chúng.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng của hệ thống lãnh đạo, quản lý, làm
chủ ở Việt Nam
Để nâng cao chất lượng của hệ thống lãnh đạo – quản lý – làm chủ cần phải
làm tốt những công việc sau:
Thứ nhất, cải thiện mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân: Đảng là lực lượng
nòng cốt trong nhân dân, phải đứng trong hàng ngũ nhân dân, không thể đứng bên
trên để quyết định mọi việc (quyền lãnh đạo của Đảng không thể cao hơn quyền
làm chủ của người dân), trái lại Đảng vừa bảo vệ và đề cao quyên lợi của nhân dân,
vừa động viên thuyết phục, giúp nhân dân làm chủ vận mệnh của đất nước và của
bản thân mình, luôn luôn tạo ra sự đồng tình và ủng hộ cao của nhân dân đối với
đường lối, chính sách của Đảng, đó là đảm bảo cho tính “chính đáng” của sự lãnh
đạo của Đảng. Để làm được điều này, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã chỉ rõ:
“Đảng kiên quyết khắc phục những tệ độc đoán, chuyên quyền, bao biện làm thay
công việc của nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Song không thể từ đó lại dẫn đến
sai lầm cực đoan khác là buông trôi sự lãnh đạo của Đảng”
1
. Đại hội XI của Đảng
tiếp tục nêu: “khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện làm thay
chức năng, nhiệm vụ quản lý điều hành của chính quyền”
2
.
1
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991. tr.123.
2
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
tr.145.
14
Thứ hai, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
Chính phủ: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và Chính
phủ, nói gọn là đối với chính quyền, thực chất cũng là đổi mới phương thức cầm
quyền của Đảng. Điều cơ bản ở đây là cần phân định rõ phạm vi chức năng giữa
lãnh đạo và quản lý, quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm, tổ chức đảng không
làm thay công tác chính quyền, cơ quan chính quyền không ỷ lại vào tổ chức đảng,
cả hai bên không làm việc trùng lặp và chồng chéo lên nhau đồng thời đề cao trách
nhiệm đối với Đảng, Nhà nước và pháp luật.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của Chính quyền nhà nước đối với nhân dân
và xã hội: Chính quyền nhà nước là từ nhân dân mà ra, được sự ủy thác của nhân
dân để quản lý xã hội và quốc gia. Điều quan trọng hiện nay là một mặt, Nhà nước
cần có cơ chế tốt để luôn luôn phản ánh được chính xác và kịp thời ý nguyện của
nhân dân và giải quyết một cách nhanh chóng nhất, mặt khác, cần tạo mọi khả năng
để người dân có thể tham dự càng nhiều càng tốt vào các công việc quản lý đất
nước, qua các hoạt động của các tổ chức dân cử và các tổ chức xã hội, đoàn thể
nhân dân.
Thứ tư, thể chế tổng thể Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát: Sự phân định chưc năng và phân vị giữa
các chủ thể là rõ ràng, song nếu không có một cơ chế giám sát chặt chẽ giữa các
chức năng và sự kiểm tra sát sao trong nội bộ các chủ thể thì không tránh khỏi
những hiện tượng “việt vị”, lấn sân…, nhất là giữa lãnh đạo và quản lý, trong khi
đó sự giám sát của nhân dân đối với cả hoạt động của Đảng và Nhà nước là căn bản
nhất, đồng thời cũng là không thể thiếu với vai trò của người làm chủ.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo- Nhân dân làm chủ- Nhà nước quản lý là mối
quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau, tạo nên nguồn lực tổng hợp để Đảng hoàn
thành sứ mệnh cầm quyền, lãnh đạo thành công sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
15
VI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI ĐƠN VỊ
1. Quản lý thực hiện kế hoạch giáo dục của ban giám hiệu
Là một giáo viên đang giảng dạy tại trường trung học phổ thông. Tôi nhận
thấy, đối với nhà trường quản lý là tổ chức và điều khiển hoạt động, như vậy quản
lý một nhà trường, một đơn vị là tổ chức điều khiển mọi hoạt động của một nhà
trường, một đơn vị, mà cụ thể là:
Hiệu trưởng phải tổ chức lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các
cán bộ quản lý dưới quyển, cho các tổ chuyên môn, cho các đoàn thể để thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục rèn luyện học sinh và tổ chức các hoạt động giáo dục,
thực hiện chương trình mục tiêu cấp học theo quy định.
Hiệu trưởng phải tổ chức lên kế hoạch, săn sóc, sử dụng, tu bổ và từng bước
khai thác triệt để mọi cơ sở vật chất của nhà trường để phục vụ giảng dạy, học tập,
rèn luyện và các hoạt động giáo dục, thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện như:
sân chơi, thư viện, phòng truyền thống, các phòng học bộ môn, phòng chức năng,
diện tích đất đai, vườn sinh, cảnh quan sư phạm,
Ngoài ra để gắn kết được nhà trường với xã hội thì hiệu trưởng phải có kế
hoạch tổ chức và điều khiển các hoạt động của hội cha mẹ học sinh, các tổ chức,
đoàn thể các nhà doanh nghiệp có những hoạt động hướng thiện, kết hợp ủng hộ
giúp đỡ nhà trường tài trợ các hoạt động giáo dục. Với tập thể học sinh các em vừa
là đối tượng giáo dục vừa là kết quả giaío dục, người hiệu trưởng phải có kế hoạch
thực hiện các chương trình giáo dục phù hợp, hài hòa từng thời gian, thời điểm một
cách cụ thể khoa học, giúp các em vừa học tâp, vừa rèn luyện và tham gia các hoạt
động giáo dục khác để tiếp thu kiến thức, bổ sung kỹ năng sống dần dần hình thành
nhân cách.
16
Tóm lại tổ chức điều khiển mọi hoạt động của nhà trường là một công việc
bao quát chỉ đạo xuyên suốt các hoạt động giáo dục chính khóa, ngoại khóa, hoạt
động trong lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp mà người làm chủ đó là tập thể sư
phạm nhà trường và đối tượng là học sinh.
2. Chi bộ thực hiện vai trò lãnh đạo xây dựng nhà trường
Trong quá trình lãnh đạo, chi bộ thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ là hạt
nhân chính trị lãnh đạo, cụ thể hoá các chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật
của Nhà nước vào thực tiễn đời sống nhà trường. Chi bộ đã chú trọng công tác bồi
dưỡng nâng cao trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê Nin, về đường lối đổi
mới của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, về truyền thống tốt đẹp của nhà giáo Việt
Nam và truyền thống hiếu học tôn sư trọng đạo của nhân dân, làm cho cán bộ đảng
viên, giáo viên, học sinh có niềm tin đối với Đảng, Nhà nước, tạo ra được sự đoàn
kết thống nhất ý chí trong chi bộ, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Chi bộ đã lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị trong nhà trường vững
mạnh cụ thể như xây dựng Công đoàn nhà trường thực sự là tổ ấm, là trung tâm
đoàn kết của tập thể Hội đồng sư phạm, phát huy quyền làm chủ của đoàn viên
Công đoàn. Chi bộ trở thành chỗ dựa vững chắc cho chuyên môn, nâng cao chất
lượng dạy và học.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh nhà
trường đã thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng phong trào thi đua rèn luyện học tập
trong Đoàn viên thanh niên, xứng đáng là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị đáng tin
cậy của Đảng.
Có thể nói rằng trong quá trình lãnh đạo nhà trường, chi bộ đã thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, các nghị quyết
của Đảng được chi bộ cụ thể hoá thành chương trình hành động, đồng thời phân
công trách nhiệm cho các đảng viên trong chi bộ giữ những cương vị chủ chốt
trong ban giám hiệu, ban chấp hành Công đoàn, Đoàn thanh niên, phối hợp tổ chức
17
thực hiện đảm bảo hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của nhà trường, góp phần tích
cực tạo nguồn nhân lực cho địa phương và cả nước phục vụ hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
KẾT LUẬN
Việc phân biệt sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý là rất cần thiết cho
Việt Nam hiện nay. Trên mọi lĩnh vực, chúng ta vừa thiếu những người quản lý
giỏi vừa thiếu những người lãnh đạo giỏi. Quan trọng hơn, chúng ta thường hay
đánh giá nhầm người và nhầm việc: thay vì đòi hỏi ở người lãnh đạo phẩm chất của
một người lãnh đạo, chúng ta lại yêu cầu họ đóng vai một nhà quản lý. Hoặc ngược
18
lại. Cũng vậy, không hiếm người lãnh đạo, thay vì đi làm việc của người lãnh đạo,
lại lăng xăng chạy tới chạy lui làm những việc của người quản lý.
Nhà lãnh đạo phải chỉ ra hướng đi cho người dưới quyền, còn nhà quản lý có
khả năng hướng ê kíp thực hiện những mục tiêu đã định trước. Các nhà lãnh đạo
thường có tầm nhìn xa, những người có khả năng dự báo những xu thế lớn. Họ là
những nhà chiến lược, trong khi người quản lý là nhà chiến thuật. Người lãnh đạo
phải xác định được tương lai, nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của một tổ chức, còn
nhà phải biết kết hợp các chi tiết để thực hiện những kế hoạch đã được xác định
Sự khác biệt có thể được tổng kết bằng cách nhìn nhận những hoạt động của
các nhà lãnh đạo như là những hành động mang tính tầm nhìn và đưa ra quyết
định - hay nói cách khác, hiệu quả - đối lại với những hành động của các nhà quản
lý là tập trung vào việc làm chủ được công việc - hay nói cách khác, hiệu suất.
Việc phân biệt sự khác nhau này giúp chúng ta nhận thấy khả năng lãnh đạo
vượt lên trên khả năng quản lý. Nhà lãnh đạo giỏi cũng là nhà quản lý giỏi, tuy
nhiên có nhiều nhà quản lý giỏi lại không thể trở thành nhà lãnh đạo giỏi. Do đó,
chúng ta cần phải tìm hiểu những phẩm chất cần có của một nhà lãnh đạo giỏi và
một nhà quản lý giỏi để phân biệt sự khác biệt này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
19
3. PGS, TS Nguyễn Hữu Đổng: Phân biệt hoạt động lãnh đạo và cầm quyền
của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 1/2012.
4. Gaston Courtois, Lãnh đạo và quản lý - một nghệ thuật, NXB LĐXH,
Hà Nội, 2002.
5. Thạc sĩ Nguyễn Hữu Lam: Nghệ thuật lãnh đạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1997.
6. Lê Hồng Lôi, Đạo của quản lý, NXB ĐHQGHN, Hà Nội, 2004.
7. Hồ Văn Vĩnh, Giáo trình khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003.
Sign Up
20