1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV
TIỂU LUẬN
PHẦN HỌC: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
TÊN NỘI DUNG
TÍNH TẤT YẾU VÀ NỘI DUNG CỦA ĐỔI MỚI
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Họ và tên học viên: NGÔ ................
Mã số học viên: MP22...................
Lớp: Cao học Xây dựng Đảng và CQNN,
HÀ NỘI - 2021
ST – 202...
MỞ ĐẦU
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.................................................4
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của đề tài........................................................5
6. Kết cấu của tiểu luận...................................................................................5
CHƯƠNG I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÂN LOẠI TỔ CHỨC
CHÍNH TRỊ XÃ HỘI......................................................................................5
1. Khái niệm tổ chức chính trị- xã hội..............................................................5
2. Phân loại tổ chức Chính trị- xã hội..............................................................6
3. Phương thức hoạt động................................................................................7
CHƯƠNG II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VÀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA TỔ
CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI..........................................................................9
1. Đặc điểm của Tổ chức chính trị- xã hội......................................................9
2. Chức năng tổ chức chính trị- xã hội............................................................9
3. Vị trí, vai trị của các tổ chức chính trị- xã hội..........................................11
KẾT LUẬN...................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................19
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian qua, hệ thống chính trị của nước ta đã có những bước chuyển
biến quan trọng, tích cực. Tuy nhiên, việc tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị
vẫn là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết. Việc đổi mới này, xét cả về mặt lý
luận lẫn thực tiễn, là một yêu cầu có tính tất yếu, khách quan. Việc đổi mới
hệ thống chính trị phải dựa trên nhiều yếu tố, nguyên tắc cơ bản như: Xuất
phát từ những quan điểm chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về hệ thống
chính trị; Đảm bảo mục tiêu và nội dung của nhiệm vụ chính trị; Đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và theo nguyên tắc thực hiện đồng bộ, từng bước vững
chắc; Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục tư tưởng và giải quyết thoả đáng các
chế độ chính sách nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch,
có trách nhiệm và năng lực sáng tạo. Thực tiễn của đất nước trong những năm
qua cho thấy, sự vững mạnh và hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị
là yếu tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đối với sự nghiệp đổi
mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Do đó, Bản thân lựa chọn
nghiên cứu nội dung “Tính tất yếu và nội dung của đổi mới hệ thống chính
trị ở Việt Nam Hiện nay” để tiếp cận và nhận thức rõ hơn về vấn đề đổi mới
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trang bị những tri thức, kinh nghiệm cần thiết phục vụ cơng tác phù
hợp với nhiệm vụ chính trị một cách khoa học, khách quan, tránh những chủ
quan, sai lầm, duy ý chí. Xây dựng thái độ, động cơ đúng đắn, có cơ sở khoa
học để đánh giá đúng bản chất những sự kiện chính trị diễn ra trong thực tiễn
để đưa ra những định hướng, chính sách, phương hướng và quyết định chính
trị phù hợp, đảm bảo cho tất cả các hoạt động trong hệ thống chính trị được
đồng bộ, hài hịa, thực hiện đúng mục đích theo quan điểm lãnh đạo của
Đảng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị ở nước ta.
4
Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận tập trung nghiên cứu thực trạng và đề
xuất các biện pháp nhằm nâng cao vai trò, chức năng và hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, lịch sử – logic, nghiên cứu
tài liệu, so sánh để rút ra những nhận xét và kết luận khách quan khoa học.
4.2. Phương Pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hổ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta,
đồng thời kế thừa hợp lý kết quả nghiên cứu có liên quan trong công tác xây
dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay.
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của đề tài
Nội dung vấn đề hệ thống chính trị nước ta, vốn là một hệ thống quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, với kiến thức hạn hẹp, tôi chỉ
mong đề tài có thể góp phần đưa ra một hình dung khái quát về vấn đề này
trong thực tiễn hiện nay. Đề tài cũng hi vọng đem lại những cái nhìn đầy đủ
hơn để có những giải pháp tích cực để công tác xây dựng Đảng được thực
hiện tốt hơn, nghiêm túc hơn và có sức mạnh hơn góp phần xây dựng Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh, thật sự là nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
được kết cấu gồm 2 chương như sau:
- Chương 1. Khái quát chung về hệ thống chính trị.
- Chương 2. Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam.
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm hệ thống chính trị
Hiện nay có một số quan niệm về hệ thống chính trị như:
Quan niệm thứ nhất cho rằng, hệ thống chính trị là cơ quan quyền lực
nhà nước bao gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp với các chức năng,
cơ chế vận hành và các mối quan hệ của chúng. Quan niệm này dựa trên cơ sở
là mọi quyết định chính trị, chính sách của một quốc gia đều do nhà nước
quyết định, ban hành. Chỉ cần tập trung làm rõ quá trình này trong chính bộ
máy nhà nước là có thể giải mã được những vấn đề quan trọng của đời sống
chính trị.
Quan niệm thứ hai nhìn nhận hệ thống chính trị ở một phạm vi rộng
hơn, hệ thống chính trị bao gồm nhà nước và các tổ chức chính trị hợp pháp
(đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, …). Cách tiếp cận này giúp người ta lý
giải được nhiều vấn đề hơn xoay quanh việc thực hiện quyền lực và ra quyết
định của nhà nước. Đằng sau các quyết định chính trị của nhà nước là cả một
quá trình đấu tranh, tương tác, gây sức ép, thỏa hiệp giữa các nhóm, lực
lượng, giai cấp, khác nhau trong xã hội.
Tuy nhiên, cách tiếp cận trên cũng khơng giải thích được các vấn đề
của đời sống chính trị trong những thời điểm đặc biệt, biến động, cách mạnh,
khi có sự tham gia của nhiều lực lượng, đảng phái, các nhóm bất hợp pháp
trong xã hội.
Quan niệm thứ ba cho rằng, hệ thống chính trị bao gồm nhà nước, các
tổ chức chính trị hợp pháp và cả các lực lượng chính trị bất hợp pháp.
Cách tiếp cận này tuy không phổ biến nhưng nó có thể khắc phục
được sự hạn hẹp của hai cách tiếp cận trên trong những trường hợp nhất
định. Nói chung, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu để lựa chọn cách tiếp
cận cho phù hợp.
Xuất phát từ các quan niệm trên, chúng ta có thể định nghĩa: HTCT là
tổ hợp có tính chỉnh thể các thế chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà
6
nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong trào xã hội)... được xây
dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức
năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể,
nhằm thực thi quyền lực chính trị.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam
Khái niệm “hệ thống chính trị” lần đầu tiên xuất hiện trong các văn bản
chính thức của Đảng ta từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI. Cho
đến nay, khái niệm hệ thống chính trị được sử dụng khá phổ biến trong các
văn bản chính thức của Đảng, Nhà nước, các cơng trình nghiên cứu và các
diễn đàn khoa học.
HTCT Việt Nam là tổ hợp có tính chỉnh thể, gồm Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị – xã hội được xây dựng theo một kết cấu chức
năng nhất định, vận hành trên những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể
nhằm thực thi quyền lực chính trị của nhân dân Việt Nam.
So với hệ thống chính trị của một số nước, hệ thống chính trị Việt Nam
có tính đặc thù và có những nét cơ bản sau đây:
- Một là, hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống tổ chức nhất
nguyên chính trị; bảo đảm tính thống nhất về mục tiêu và lợi ích.
Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam được thể
hiện:
+ Về tổ chức: Ở Việt Nam, có nhiều tổ chức và đồn thể nhân dân
nhưng khơng có tổ chức chính trị và đảng chính trị đối lập được thành lập
cơng khai. Các tổ chức chính trị - xã hội, các đồn thể nhân dân đều thừa nhận
vai trị lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Về tư tưởng: Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị được
thể hiện trong tồn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đều được tổ chức và
hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đều nhằm đấu tranh giành và bảo vệ quyền lực chính trị của giai
7
cấp công nhân mà đại diện là Đảng cộng sản Việt nam, phục vụ mục tiêu, lý
tưởng của giai cấp và dân tộc Việt Nam.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị Việt Nam thể hiện:
+ Thống nhất về mục tiêu: Trong cấu trúc của hệ thống chính trị Việt
Nam gồm 3 bộ phận: Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Cả 3 bộ
phận đó đều có chung mục tiêu là đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc và đi lên
chủ nghĩa xã hội (CNXH); xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu
từ khi Đảng ra đời, chính quyền nhân dân mới được thành lập, là mục tiêu
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là sự lựa chọn của toàn thể nhân dân,
dân tộc Việt Nam. Tất cả mọi hoạt động của các thành viên của hệ thống
chính trị đều nhằm đạt được mục tiêu đó.
+ Thống nhất về phương thức hoạt động. Hệ thống chính trị ở Việt Nam
bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trị, chức năng khác nhau nhưng
có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất từ Trung
ương đến
cơ sở.
Tồn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự
thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương thức
hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh
tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
+ Thống nhất về nguyên tắc hoạt động. Tồn bộ hoạt động của hệ thống
chính trị Việt Nam, từ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị - xã
hội đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên
tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện hệ thống chính trị và tồn xã hội;
ngun tắc dựa vào nhân dân, giữ vững mối quan hệ mật thiết với nhân dân;
nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy lợi ích dân tộc làm điểm tương đồng
và nguyên tắc nhân dân là chủ xã hội và đất nước. Quyền lực nhà nước là
quyền lực của nhân dân.
8
+ Về mặt tổ chức. Hệ thống chính trị Việt Nam có sự thống nhất cả về
tổ chức bộ máy và hoạt động từ Trung ương đến cơ sở. Về cơ bản, hệ thống
chính trị cấp dưới là mơ hình thu nhỏ của hệ thống chính trị cấp trên. Bộ máy
Đảng, chính quyền, đồn thể cấp trên có chức năng gì, cơ quan gì thì bộ máy
cấp dưới có chức năng, tổ chức tương ứng, chỉ có điều là gọn nhẹ hơn, giản
đơn hơn. Kiểu tổ chức hệ thống như vậy bảo đảm được tính thống nhất, thơng
suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến cơ sở.
- Hai là, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Việt Nam vừa thể hiện
được tính giai cấp sâu sắc, vừa thể hiện được tính nhân dân rộng rãi.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng là đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại diện cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động. Như vậy, trong bản thân Đảng đã chứa đựng cả yếu tố giai cấp và
yếu tố dân tộc, vừa thể hiện bản chất giai cấp, đồng thời cũng thể hiện tính
chất nhân dân của Đảng. Đó là điểm khác biệt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơng cụ của giai cấp,
mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước đó cũng chứa đựng tính chất giai cấp và
tính nhân dân rộng rãi.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị
Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân đều phục vụ cho mục tiêu của giai cấp và dân tộc, vì lợi ích
của giai cấp và dân tộc. Thông qua tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các
nhóm xã hội đều có tiếng nói chung, đều có quyền thể hiện tâm tư, nguyện
vọng, chính kiến của mình và được tôn trọng.
- Ba là, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Việt Nam vừa bảo đảm
được tính dân chủ rộng rãi, đồng thời bảo đảm được tính nghiêm minh, tối
thượng của pháp luật.
Tính dân chủ rộng rãi của tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị Việt
Nam trước hết thể hiện tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị Việt Nam
9
đều hướng tới bảo đảm và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là
chủ nhân của đất nước, là chủ thể quyền lực. Quyền lực của nhà nước là
quyền lực của nhân dân giao cho. Lợi ích của nhân dân là tối thượng.
Tính dân chủ rộng rãi còn thể hiện mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, của các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội đều được tôn trọng. Đảng,
Nhà nước luôn tôn trọng nhu cầu, nguyện vọng và quyền của mọi công dân.
Tất cả mọi người dân đều có quyền bình đẳng tham gia vào cơng việc chính
trị của đất nước, tham gia quản lý xã hội, tham gia bầu cử, lựa chọn người đại
diện cho mình, khơng có phân biệt đối xử.
Cùng với tính dân chủ rộng rãi, tổ chức của hệ thống chính trị Việt
Nam cịn thể hiện tính nghiêm minh, tối thượng của pháp luật. Hiến pháp Việt
Nam quy định: Đảng, Nhà nước tôn trọng các quyền tự do công dân, quyền tự
do lập hội... nhưng cả hệ thống chính trị, trong đó có Đảng Cộng sản Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phải hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi trái với Hiến pháp và
pháp luật, đi ngược lại lợi ích của giai cấp và dân tộc đều bị nghiêm trị, không
phân biệt đối xử. Tất cả Điều lệ Đảng, điều lệ của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân đều thể hiện tính thống nhất về hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
- Bốn là, tổ chức của hệ thống chính trị Việt Nam vừa bảo đảm tính tập
trung thống nhất trong hoạt động, đồng thời cũng phát huy được tính năng
động, chủ động của các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta được phân thành 4
cấp. Cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở. Tương ứng với nó là
các cơ quan đảng, đoàn thể và nhà nước ở Trung ương, tỉnh, huyện và xã,
phường, thị trấn. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực thống nhất.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
10
Mặt khác, hệ thống chính trị Việt Nam cũng thể hiện được sự phân
công phân cấp trách nhiệm, tạo điều kiện phát huy vai trị, tính năng động,
chủ động của các cơ quan và chính quyền các cấp. Sự phân công, phân cấp
thể hiện ở việc xác định thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận
trong hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị Việt Nam xác định: Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Trong bộ máy nhà nước, từng bộ phận được phân công trách nhiệm rõ
ràng: Quốc hội là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan hành pháp. Tịa án,
viện kiểm sát là cơ quan tư pháp, giám sát tối cao đối với các hoạt động của
nhà nước.
Nhìn một cách tổng thể, hệ thống chính trị Việt Nam với 3 đặc trưng cơ
bản là nhất nguyên, dân chủ và thống nhất đã thể hiện tính ưu việt của nó là
tạo được sự ổn định chính trị - xã hội trong suốt quá trình cách mạng Việt
Nam, đã huy động được đông đảo lực lượng nhân dân, được sự đồng tình ủng
hộ của nhân dân. Hệ thống chính trị đó vừa giữ vững được vai trò lãnh đạo
của Đảng, quyền lực của Nhà nước và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân.
Với những đặc trưng cơ bản đó, hệ thống chính trị Việt Nam đã làm trịn sứ
mệnh của mình đối với đất nước và dân tộc.
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM
1. Nội dung của đổi mới hệ thống chính trị
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mơ hình tổ chức của các bộ phận cấu
thành HTCT.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng trong bối cảnh mới.
Đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước theo hướng Nhà nước pháp
quyền.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn
thể nhân dân
11
Đổi mới mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT, cũng như giải
quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước – thị trường và xã hội.
2. Nhiệm vụ của đổi mới hệ thống chính trị
- Tiếp tục xây dựng chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực và sức chiến
đấu của Đảng.
Sứ mệnh và trách nhiệm của Đảng trong điều kiện Đảng là đảng duy
nhất cầm quyền
Đại hội XIII chủ trương xây dựng Đảng cả về tư tưởng, chính trị,
tổchức, đạo đức và cán bộ; đồng thời nêu lên 10 nhiệm vụ, giải pháp về xây
dựng Đảng.
- Tăng cường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Đổi mới thể chế bầu cử, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của quốc
hội.
Cải cách hành chính, điều chỉnh chức năng, đổi mới phương thức phục
vụ và cơ chế vận hành của các cơ quan HCNN
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của chính
quyền địa phương.
Phân cấp, phân quyền hợp lý, nâng cao tính chủ động của chính quyền
địa phương.
Đổi mới tổ chức nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tư pháp.
- Tiếp tục đổi mới nội dung và MTTQ và các đồn thể nhân dân thực
hiện đúng chức năng của mình.
MTTQ và các đoàn thể nhân dân thực hiện đúng chức năng của mình
Khắc phục tính hình thức, hành chính hóa trong hoạt động.
Nâng cao tính độc lập, tự chủ; thực hiện tốt chức năng giám sát và phản
biện xã hội.
- Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII đã
nêu lên nhiệm vụ, giải pháp cụ thể sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
12
Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII đã nêu lên nhiệm vụ, giải pháp cụ
thể.
Thông qua sáp nhập, hợp nhất, kết thúc hoạt động, điều chỉnh...để xây
dựng tổ chức bộ máy tinh gọn.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức và viên chức là nhân tố quyết định chất lượng chính
sách, hiệu quả thực thi chính sách và chất lượng cung ứng dịch vụ cơng cũng
có thể nói cán bộ, cơng chức là nhân tố quyết định năng lực quản trị quốc gia
cung ứng dịch vụ công.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, xây dựng đạo đức công vụ
Đại hội lần thứ XII và Hội nghị Trung ương 7 khóa XII rất coi trọng
việc đổi mới công tác cán bộ, công chức
Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã nêu lên 8 nhiệm vụ, giải pháp về
xây dựng đội ngũ cán bộ.
Tăng cường xây dựng đạo đức công vụ
3. Thực tiễn yêu cầu đổi mới và quan điểm xây dựng mơ hình tổ
chức hệ thống chính trị ở Việt Nam trong điều kiện mới
Với 3 đặc trưng cơ bản là nhất nguyên, dân chủ và thống nhất, hệ thống
chính trị Việt Nam đã thể hiện tính ưu việt trong suốt q trình cách mạng,
được đơng đảo nhân dân đồng tình ủng hộ. Bên cạnh những ưu điểm, mơ hình
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam đã bộc lộ khơng ít
những hạn chế, bất cập: bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả; quan hệ
giữa các chủ thể chưa được xác định rõ ràng, chồng chéo, chưa phát huy hết
tiềm năng, tính năng động của các chủ thể... Do vậy, đổi mới hoạt động của hệ
thống chính trị đang là địi hỏi của cơng cuộc đổi mới hiện nay.
3.1. Yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định: “Xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh” là một trong những địi hỏi cấp thiết. Theo đó, đổi mới
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay cần tiến hành đồng thời hai nội dung
13
chính: đổi mới tổ chức, phương thức hoạt dộng của mỗi nhân tố cấu thành hệ
thống chính trị và đổi mới mối quan hệ giữa các thành tố đó.
* Yêu cầu đổi mới từng thành tố của hệ thống chính trị
Thứ nhất, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam: Trên bình diện chung,
trước những tác động của tình hình mới - thời cơ và thách thức, để hoàn thành
sứ mệnh của mình, Đảng phải “Đồn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới”.
Đảng cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt; có biện pháp nhân lên
sức mạnh nội sinh, phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc và thời đại; tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân làm chủ xã hội và
phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước ngay từ địa phương, cơ sở. Mặt
khác, với vai trị của nhân tố lãnh đạo cơng cuộc hội nhập, phát triển trong
điều kiện đối diện với nhiều thách thức hiện nay, Đảng phải đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống nguy cơ thoái hoá, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hố” trong nội bộ; chủ động, tích cực đấu tranh phịng, chống chiến lược
“diễn biến hồ bình” chống phá Việt Nam do các thế lực thù địch chủ mưu;
không để đất nước bị động, bất ngờ.
Bên cạnh công tác xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức,
Đảng cần đặc biệt nhấn mạnh vấn đề xây dựng đạo đức cho Đảng và của đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi lẽ, cán bộ là linh hồn của tổ chức, công việc tốt
hay kém đểu là do cán bộ. Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cùng
những nội dung đã được nêu từ những Đại hội trước, Đại hội XII nhấn mạnh:
“Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, khắc phục những thủ tục rườm
rà, bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp”. Khâu then chốt có ý
nghĩa quyết định làm tăng sức mạnh của hệ thống chính trị là Đảng phải thật
sự trong sạch, vững mạnh vể chính trị tư tưởng, tổ chức và đạo đức, gắn bó
máu thịt với nhân dân vì nhân dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là
cội nguồn sức mạnh, bí quyết của mọi thành cơng. Vì vậy, mọi biểu hiện xa
dân, coi thường dân, ức hiếp dân, gây phiền phức cho dân... đều làm cho
Đảng tự suy yếu, lỏng lẻo, phá vỡ tính đổng bộ của hệ thống chính trị.
14
Thứ hai, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là
yếu tố quyết định trực tiếp sự thành cơng, tính hiệu quả trong vận hành của hệ
thống chính trị - hình thức thể hiện và cơ chế vận hành của thể chế chính trị
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, Đại hội XII của Đảng xác định: “Tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” và chỉ ra 4 nội dung chủ
yếu:
- Hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật;
- Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận
hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
- Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước;
- Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Trong 4 nội dung nêu trên, Đại hội XII đặc biệt nhấn mạnh cần “Xác định rõ
cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước... Đồng thời, quy định rõ hơn cơ
chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm sốt các quyền ỡ các cấp chính
quyển” và “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và
ở cấp huyện”. Đây là một trong những giải pháp nhằm thực hiện quyền làm
chủ trực tiếp của nhân dân ngay tại địa phương, tăng cường mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng- Nhà nước- nhân dân.
Thứ ba, về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội. Đảng yêu
cầu các cấp ủy đảng và chính quyền “phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe,
học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính
đáng của nhân dân; tin dân, tơn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình
thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến,
nguyên vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thơng qua Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, nâng
15
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân”.
Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân,
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Mặt trận cần tăng
cường hoạt động “giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
* Yêu cầu đổi mới mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống
chính trị và cơ chế thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa
Điểm nhấn của Đại hội XII khi bàn về hệ thống chính trị được thể hiện rõ ở
nội dung, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp giải quyết mối quan hệ, sự
tác động biện chứng giữa các thành tố trong hệ thống chính trị nhằm phát huy
chức năng, hiệu quả của từng thành tố, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, chức năng phản
biện, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và vai trị làm chủ của nhân dân.
Từ đó, Đảng nêu ra các yêu cầu cụ thể sau:
Thứ nhất, nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới là “Xây dựng tổ chức bộ
máy của tồn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
Thứ hai, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, coi đó là một trong những phương
thức hữu hiệu dể thực thi dân chủ.
Thứ ba, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả
lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống
chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”. Tập trung vào “Hoàn thiện
thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Thứ tư, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. “Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và
16
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy
định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp
ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.
Nhân dân làm chủ là mục tiêu đặt ra trong sự vận hành của toàn bộ hệ thống
chính trị cũng như trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Tầm quan trọng đặc biệt của nội dung này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của
Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực do nhân dân ủy thác, trao quyền.
* Quan điểm xây dựng mô hình tổ chức hệ thống chính trị Việt
Nam trong điều kiện mới
Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và thách
thức, khó khăn tác động đan xen nhau đến sự phát triển đất nước, đến công
tác xây dựng Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó địi hỏi
Đảng phải đổi mới mạnh mẽ tổ chức, phương thức lãnh đạo để nắm bắt thời
cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc
đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Từ thực tiễn phát triển
và những nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt các quan điểm sau:
* Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
Chế độ xã hội mới mà nước ta xây dựng là chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, chế độ dân chủ cho “số đông”, cho quảng đại quần chúng nhân dân,
chế độ dân chủ cao nhất, rộng rãi nhất, triệt để nhất, “dân chủ hơn gấp triệu
lần” bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào. Trong chế độ đó, nhân dân là người
chủ chân chính. Để xây dựng chế độ như vậy, Đảng ta đã sớm nhận thức được
ba nhân tố đóng vai trị cơ bản là Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trong suốt
tiến trình cách mạng, Đảng đã rất quan tâm giải quyết, xử lý mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đã coi mối
quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là cơ chế vận
hành của thể chế chính trị - xã hội của đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (1986), lần đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định “Đảng lãnh đạo,
17
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý tồn
bộ xã hội”.
Kể từ đó đến nay, sự vận hành của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ ngày càng được cụ thể hoá và hoạt động hiệu quả,
trở thành nét đẹp văn hố chính trị, thể hiện rõ tính ưu việt của mối quan hệ
Đảng - Nhà nước - Nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nó là
kết quả của việc chung sức đồng lòng, sự thống nhất Ý Đảng - Lòng Dân,
Lòng Dân - Ý Đảng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, Nhân dân hết lòng ủng hộ; là bảo
đảm chắc chắn nhất để chúng ta mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về Nhân dân.
Trong cơ chế ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo của cả hệ
thống chính trị và Nhà nước, là trụ cột của hệ thống đó, là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua hơn 30 năm thực hiện đường lối
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về mặt nhận thức, chúng ta đã làm rõ
hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn cơ chế trên và về mặt thực tiễn, đã có những
nỗ lực giải quyết những vấn đề mới đặt ra nhằm hiện thực hố cơ chế đó trong
đời sống xã hội, nhờ đó cơng cuộc đổi mới đã giành được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, q trình phát huy vai trị của những nhân
tố đó đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu, giải quyết cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
* Đảm bảo tính cách mạng và khoa học
Lịch sử đã chứng minh chủ nghĩa Mác – Lênin là khoa học biện chứng,
hiện đại. Đây là khoa học nghiên cứu, luận giải về những quy luật phổ biến về
sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; về cách mạng của quần chúng bị
áp bức, bóc lột, về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Giá
trị bền vững tự nhiên của chủ nghĩa Mác – Lênin là sự chính xác về khoa học,
tính tồn diện, hệ thống và biện chứng, nhằm giải phóng người lao động, giải
phóng xã hội khỏi áp bức, bóc lột và mọi sự tha hóa, thực hiện một xã hội
công bằng, nhân đạo. Nhờ được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
18
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ với tinh hoa truyền thống văn hóa dân
tộc và nhân loại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân, đế
quốc thắng lợi, mang lại nền độc lập, tự do, hịa bình cho đất nước; khởi
xướng và lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.
Trên cơ sở định hướng mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác
lập được hệ thống lý luận về con đường và những giải pháp cơ bản nhằm hiện
thực hóa những mục tiêu đó. Tại Đại hội VI, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới,
trước hết là đổi mới về kinh tế. Từ đó đến nay, trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta
đã hình thành về cơ bản hệ thống các quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được kết tinh ở Cương lĩnh
1991 và Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như bản Hiến
pháp năm 2013 của Nhà nước.
Sau hơn 30 năm đổi mới, sự phát triển đất nước đòi hỏi phải ở trình độ
mới về chất, muốn vậy Đảng phải nỗ lực có những đột phá mới, trước hết về
lý luận để có lời giải đúng cho những đột phá trong thực tiễn để phát triển
nhanh, bền vững và hiện đại hóa, sớm đưa nước ta trở thành nước cơng
nghiệp. Những điểm nêu trên đã được thể hiện tập trung và nổi bật trong chủ
đề xuyên suốt của các kỳ Đại hội, nó mang ý nghĩa một thơng điệp phát triển
mà Đảng ta gửi tới toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và bạn bè quốc tế trong
thời kỳ phát triển mới của đất nước. Với phương châm nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, khơng tơ hồng, khơng bơi đen; tồn diện
- khách quan chứ khơng phiến diện, siêu hình, cực đoan, Đảng ta đã tiến hành
nhiều đợt khảo sát thực tiễn ở địa phương và cơ sở, nhất là các vấn đề về kinh
tế, mơ hình phát triển và cơ chế quản lý, phát hiện ra những mâu thuẫn, bất
cập giữa lý luận với thực tiễn, giữa thể chế và chính sách để kịp thời điều
chỉnh, xây dựng và ban hành nghị quyết phù hợp với thực tế phát triển.
Tuy nhiên, để xây dựng hệ thống chính trị ta theo nguyên tắc bảo đảm
sự thống nhất hữu cơ giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân dân và
tính dân tộc, bảo đảm tính cách mạng và tính khoa học, chúng ta cần: Đổi mới
phải dựa trên nền tảng tính khoa học, cách mạng và biện chứng của chủ nghĩa
19
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước. Đây là định hướng quan trọng nhất
nhằm củng cố, nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta; đồng
thời, làm cho Nhà nước thực sự là công cụ pháp lý để giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Nhận thức khoa học và sâu sắc về tính
quy luật của mối quan hệ biện chứng giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân
và tính dân tộc, tính cách mạng và tính khoa học trong q trình hình thành,
phát triển nhà nước Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây
dựng và hoàn thiện nhà nước, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới tồn
diện đất nước hiện nay. Đó chính là "chìa khố" để xây dựng, củng cố, hoàn
thiện các tổ chức xã hội nhằm mở rộng cơ sở xã hội của nhà nước; xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì
dân.
Trong bối cảnh mới của đất nước, để đảm bảo tính cách mạng và tính
khoa học, địi hỏi phải có sự phân cơng, phối hợp quyền lực nhà nước và kiểm
sốt quyền lực nhà nước giữa Đảng - chủ thể lãnh đạo với nhà nước chủ thể
quản lý, sao cho vừa đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa đảm bảo vai trò
quản lý của nhà nước, hạn chế được bao biện, làm thay từ phía Đảng và dựa
dẫm ỷ lại của nhà nước, làm cho trên thực tế cả hai chủ thể đều yếu, khơng
phát huy đúng vị trí và vai trị của mình. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục phân
định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước;
xác định nội dung, phương thức, cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước phù hợp với
sự phát triển của tình hình mới; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ
chức Đảng và đảng viên trong cơ quan Nhà nước. Vấn đề có tính nguyên tắc
là “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược các định hướng về
chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục,
vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
20
* Đảm bảo tính tổng thể, đồng bộ, liên thơng, hài hòa giữa kế thừa,
ổn định, đổi mới và phát triển
Đây là quan điểm bao trùm và quán xuyến suốt lộ trình đổi mới hệ thống
chính trị nói riêng, đổi mới chính trị nói chung, bảo đảm đồng bộ với tất cả
các phương diện đổi mới. Nghĩa là, phải xuất phát từ mục tiêu của cơng cuộc
đổi mới tồn diện, đồng bộ được thể hiện trên từng lĩnh vực hợp thành, để đổi
mới hệ thống chính trị một cách tương dung. Đó chính là sự thống nhất một
cách hữu cơ của các mục tiêu cụ thể (kinh tế, chính trị, xã hội,...) hợp thành
mục tiêu tổng thể với tư cách là một chỉnh thể của công cuộc đổi mới hiện
nay. Đến lượt nó, mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị trở nên tất yếu và là
nhân tố cấu thành làm cho việc đổi mới chính trị trở nên hồn bị, cùng với đổi
mới kinh tế, đối ngoại... hợp thành mục tiêu tổng thể của cơng cuộc đổi mới
tồn diện và đồng bộ. Làm trái quan điểm, quy luật trên, sẽ kìm hãm phát
triển hoặc dẫn tới thất bại.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là cơ chế bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân. Bởi vậy, việc đổi mới hệ thống chính trị lấy việc từng bước
hình thành và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cơ bản.
Trong cơ chế đó, sự yếu kém của bất kỳ khâu nào cũng có tác động tiêu cực
tới việc thực hiện mục tiêu vừa nêu. Trong đổi mới hệ thống chính trị khơng
đơn giản chỉ là sắp xếp lại, thêm bớt một cách cơ học mà là công việc tái cấu
trúc cả một hệ thống quyền lực, trong đó, nguyên tắc là phải đảm bảo tính
tổng thể, đồng bộ, liên thơng, hài hịa giữa kế thừa, ổn định, đổi mới và phát
triển. Bởi lẽ: Được thực hiện bằng những phương thức lãnh đạo đúng đắn,
khoa học, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng sẽ không biến thành Đảng
bao biện, làm thay các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, mà trở thành
điều kiện để các tổ chức thành viên này hoàn thiện cấu trúc bộ máy, xác định
đúng chức năng - nhiệm vụ, có phương thức thích hợp như là kết quả của
những tìm tịi chủ động, sáng tạo để phát huy sự nỗ lực của các thành viên
trong tổ chức mình tham gia vào các q trình kinh tế, chính trị, xã hội của
21
đất nước, bảo vệ những quyền lợi và thực thi những trách nhiệm pháp lý của
mọi công dân - những nội dung cơ bản của dân chủ xãhội chủ nghĩa .
Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các thành của hệ thống
chính trị càng mạnh lên bao nhiêu, tính tích cực chính trị - xã hội của các tổ
chức đó càng cao bao nhiêu thì vai trị của các tổ chức đó trong việc tác động
trở lại đối với sự đổi mới của Đảng nói chung, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng nói riêng càng có hiệu quả thiết thực bấy nhiêu. Điều đó được lý
giải không phải chỉ do sự lớn mạnh của các tổ chức này sẽ tạo điều kiện để
các thành viên của các tổ chức đó tham gia một cách tích cực hơn, có hiệu quả
hơn vào việc đổi mới Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, mà cịn
do chính sự trưởng thành của các tổ chức đó cũng đặt ra những đòi hỏi ngày
càng cao đối với Đảng, đối với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đổi mới bộ máy đồng bộ cũng là yêu cầu tự nhiên giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị nước ta. Đổi mới bộ máy đảng, nhà nước cũng sẽ liên
quan một cách tất yếu đến đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt
động của các đồn thể chính trị - xã hội khác. Đồng bộ còn bao hàm và liên
quan tới việc đổi mới tổ chức bộ máy với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức, hồn thiện hệ thống pháp
luật, thể chế quản lý nhà nước với tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo cảu Đảng. Trong khi hành động, người ta vẫn chấp nhận các thao tác
thử nghiệm, đột phá nhưng không bao giờ được quên tính hệ thống, đồng bộ,
kế thừa và phải đảm bảo mục tiêu tối thượng là ổn định và phát triển (xét
trong dài hạn).
Nhờ sự tác động qua lại nêu trên, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước sẽ góp phần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, nhờ vậy, những quan điểm, chủ trương của Đảng vì sự phát triển ổn định
của đất nước sẽ được thực hiện bằng cả hệ thống chính trị với hiệu quả cao.
Điều đó cũng có nghĩa là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng
bộ với đổi mới hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân,
22
nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, qua đó mà nâng cao
vai trị và hiệu quả lãnh đạo đối với toàn xã hội.
23
KẾT LUẬN
Qua 35 năm đổi mới, "đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới. Quy
mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, là
nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt
qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới
toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước".
Nhìn lại những nét chính yếu của hành trình đổi mới chúng ta thấy rõ
nhận định của Đại hội XIII là hoàn toàn chuẩn xác. Đổi mới tư duy đã khắc
phục được những nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý
chí, từng bước hình thành những quan niệm mới về mục tiêu, bước đi và cách
thức phát triển đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế, quản lý xã hội. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất,
củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng của một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân được cải thiện đáng
kể, ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm, định hướng xã hội chủ nghĩa
được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường, an ninh quốc
phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được đẩy
mạnh thêm. Tuy nhiên, trong tiến trình đi lên, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới, chúng ta khơng qn rằng đất nước mình vẫn cịn nghèo, sự phát triển
của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, còn
nhiều yếu tố chưa bảo đảm tăng trưởng cao và lâu bền, còn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định, mà những nhân tố đó cịn có phần tăng thêm. Rõ
ràng là phía trước của chúng ta khơng chỉ có thuận lợi và thời cơ mà cịn có
những khó khăn và nguy cơ không thể xem thường. Càng như vậy, càng phải
tiếp tục đổi mới, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để đất nước tiếp tục
phát triển bền vững.