Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN tính tất yếu khách quan của vấn đề đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý trên lĩnh vực văn hoá ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.03 KB, 23 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VẤN ĐỀ ĐẢNG
LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ TRÊN LĨNH VỰC VĂN HOÁ
Ở NƯỚC TA

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ QUẢN LÝ VĂN HĨA
I.
Văn hóa
1.1.
1.2.
II.

Quản lý văn hóa
THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỦA

2.1.
2.2.



NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
Những mặt tích cực
Những mặt hạn chế
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VẤN ĐỀ ĐẢNG

III.

LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ TRÊN LĨNH

VỰC VĂN HÓA Ở NƯỚC TA
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
4
6
6
8

12
20
21


MỞ ĐẦU
Văn hóa là tồn bộ giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo ra

nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình trong q trình lịch sử.
Văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng
vai trị điều tiết xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm
cao và chiều sâu về trình độ phát triển của nhân loại nói chung và của từng quốc
gia, dân tộc nói riêng; là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa
con người với con người, con người với xã hội và tự nhiên. Đó là trình độ nhân
bản đích thực của con người, được đo bằng giá trị phổ quát: chân, thiện, mỹ.
Quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã
xây nên một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc đân tộc, trong đó
chủ nghĩa yêu nước và ý chí độc lập dân tộc là nền tảng cốt lõi, được vun đắp
suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Sức mạnh bản sắc văn hóa đã góp
phần to lớn để dân tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập
dân tộc mà khơng bị đồng hóa.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa
ở nước ta: Sự phân hóa về cơ hội, điều kiện trong sáng tạo, sản xuất, truyền bá
các giá trị văn hóa thơng qua các phương tiện truyền tải ngày càng gia tăng; xuất
hiện nhiều sản phẩm và dịch vụ văn hóa chất lượng thấp tác động tiêu cực đến
đời sống tinh thần của xã hội; ảnh hưởng xấu đến thị hiếu thẩm mỹ của một bộ
phận công chúng; đe dọa việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, các giá trị
đạo đức truyền thống, thẩm mỹ, nghệ thuật của dân tộc... Từ đó, đã làm thay đổi
thang giá trị, tác động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người
Việt Nam. Do vậy, để phát triển văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc tất yếu
phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đó là lý do mà
em chọn đề tài “Tính tất yếu khách quan của vấn đề Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý trên lĩnh vực văn hóa ở nước ta” làm đề tài tiểu luận.

3


NỘI DUNG

I. KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ QUẢN LÝ VĂN HĨA
1.1. Văn hóa
Văn hóa ra đời cùng với lịch sử tồn tại của con người với nhiều hình thức
khác nhau. Cũng vì vậy, văn hóa có nhiều góc độ tiếp cận.
C.Mác và Ph.Ănghen đã nhìn nhận văn hóa như là một sản phẩm của lịch
sử, là sản phẩm của quá trình lao động cải tạo tự nhiên của các thế hệ người.
C.Mác còn đưa ra quan điểm duy vật về văn hóa và đi đến kết luận quan trọng
về vai trò cơ sở, nền tảng tinh thần của văn hóa đối với sự tồn tại, vận động và
phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại.
C.Mác coi ”văn hóa là tồn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động
lao động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra
đời sống hiện thực của con người” [2, tr.136]. Khi coi “giới tự nhiên thứ hai” với
tư cách là “tác phẩm”, “thực tại” của con người - giới tự nhiên được con người
cải biến, nhân hóa, mang ý nghĩa và nội dung con người là văn hóa, C.Mác đã
đồng nhất văn hóa với phương thức hoạt động sống đặc thù, phương thức hoạt
động sống riêng có của con người. Đó là phương thức mà con người sử dụng lao
động sáng tạo của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất
cố hữu của mình” để cải tạo hiện thực khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực
tại khách quan cho chính mình “theo các quy luật của cái đẹp” [2, tr.137].
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hóa khá rộng và bao quát, kế thừa quan
điểm của C.Mác về văn hóa, từ cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội. V.I.Lênin
cho rằng: Sự phát triển của văn hóa gắn liền với sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một nền văn hóa tinh thần
đặc trưng (như một giá trị lịch sử), khi hình thái kinh tế - xã hội thay đổi, thì nền
văn hóa tương ứng với nó cũng có sự thay đổi nhất định.
Theo V.I.Lênin, nền văn hóa vơ sản có khả năng phát triển tồn diện năng
lực bản chất của con người cho nên nó phải là sự kế thừa có phê phán các giá trị
văn hóa của dân tộc và nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới, mang đậm
chất liệu văn hóa bản chất người. V.I.Lênin viết: “Nền văn hóa vơ sản khơng
4



phải từ trên trời rơi xuống, nó khơng phải do những người tự cho mình là
chun gia về văn hóa vơ sản bịa đặt ra... văn hóa vơ sản phải là sự phát triển
hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới ách áp bức của xã
hội tư bản, địa chủ và của xã hội quan liêu” [9, tr.428].
Kế thừa những tư tưởng, quan niệm về văn hóa của nhân loại, đặc biệt là
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, trên nền tảng tư tưởng văn
hóa dân tộc và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tơn giáo, văn hóa, nghệ thuật những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi
hỏi của sự sinh tồn” [6, tr.458].
Tại Hội nghị Thế giới về Chính sách văn hóa của UNESCO tổ chức tại
Mêhicơ năm 1982 đã nêu ra định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa hơm nay có
thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, chính trị và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn
hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền căn bản
của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng” [8,
tr.23-24].
Kế thừa những quan điểm nêu trên, đến nay văn hóa được quan niệm như
sau: “Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người và
loài người sáng tạo ra nhờ lao động và hoạt động thực tiễn trong q trình lịch
sử của mình” [7, tr.477].
Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người, loài người sáng tạo ra trong q trình lịch sử của mình.
Cịn theo nghĩa hẹp được hiểu là sự thể hiện toàn bộ hoạt động sống của con

người, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, phản ánh kiểu lựa
chọn sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.
5


Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan
niệm: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để
khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc” [3, tr.40].
Tóm lại, văn hóa gắn với tồn bộ hoạt động sống của con người, là “thiên
nhiên thứ hai” với tư cách là sản phẩm mang tính tộc loại của con người. Văn
hóa, về bản chất thường hướng tới mục tiêu “nhân đạo hóa” con người, hướng
tới sự phát triển và giải phóng những năng lực bản chất của con người, nhằm
phát triển toàn diện con người, hoàn thiện xã hội loài người, hướng con người
đến với giá trị chân - thiện - mỹ. Cho nên, trong quá trình phát triển của lịch sử,
bên cạnh sự hội nhập, cố gắng phấn đấu để có thể ngang bằng nhau về kinh tế,
mức sống, kỹ thuật, văn minh… thì vấn đề giữ gìn, tơn vinh và phát huy những
tinh hoa văn hóa sẽ làm nên sự khác biệt, độc đáo giữa các dân tộc về lối sống,
phương thức sống và giá trị cuộc sống.
1.2. Quản lý văn hóa
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng thực chất của quản lý nhà nước
về văn hóa chính là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành của nhà
nước, mục đích là làm cho văn hóa phát triển theo hướng vì sự phát triển bền
vững của con người và xã hội. Vậy có thể hiểu: Quản lý nhà nước về văn hóa là
sự quản lý của nhà nước đối với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng
quyền lực của nhà nước thông qua hiến pháp, pháp luật và cơ chế chính sách
nhằm bảo đảm sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về văn hóa ở nước ta được thực hiện

thơng qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: Cơ quan lập pháp, cơ quan tư
pháp và cơ quan hành pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước về văn hóa được
thể hiện trong hoạt động quản lý có tính chất nhà nước nhằm điều hành các hoạt
động văn hóa, được thể hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành pháp.
6


Quản lý văn hóa là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương
pháp của chủ thể quản lý (các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu
dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối với khách thể
(là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu
mong muốn (bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nâng cao vị thế
quốc gia, cải thiện chất lượng sống của người dân.).
Theo sách “Lược sử quản lý văn hóa ở Việt Nam” của tác giả Hồng Sơn
Cường thì “Quản lý văn hóa là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành
cho văn hóa phát triển khơng ngừng theo hướng có ích cho con người, giúp cho
xã hội lồi người khơng ngừng đi lên” [1, tr.28].
Hoạt động văn hóa là một dạng hoạt động xã hội quan trọng, tất yếu phải
có sự quản lý của nhà nước, chính vì thế quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa
là tất yếu khách quan. Do hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng tạo, là hoạt
động tư tưởng và còn là hoạt động kinh tế, nên quản lý văn hóa là hoạt động xã
hội mang tính đặc thù. Bởi thứ nhất, hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng
tạo, có thể làm ra các sản phẩm văn hóa mang giá trị lưu truyền từ đời này sang
đời khác, làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống, con người. Thứ hai, hoạt động văn
hóa cịn là hoạtđộng tư tưởng, có khả năng gây “hiệu ứng” (tốt hoặc xấu) trong
xã hội. Thứ ba, hoạt động văn hóa cịn là hoạt động kinh tế vừa là động lực, vừa
là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Chính vì tính đa năng của hoạt
động văn hóa, nên quản lý trên lĩnh vực văn hóa mang tính đặc thù. Tính đặc thù
của quản lý văn hóa khơng những thể hiện trong từng lĩnh vực cụ thể của đời
sống văn hóa, mà nó cịn thể hiện ở công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở các

cấp, từ vĩ mơ đến các đơn vị cơ sở.
Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, là người hưởng thụ văn hóa. Hoạt
động văn hóa là một hoạt động phức tạp diễn ra trên bình diện rộng, trong tất cả
các hoạt động xã hội. Vì thế, quản lý nhà nước về văn hóa thực chất là quản lý
con người tham gia các hoạt động văn hóa để thực hiện chức năng và nhiệm vụ
đặt ra cho quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa.
7


II. THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỦA NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Những mặt tích cực
Trước tiên, có thể thấy văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy
nghìn năm lịch sử, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến cố thăng trầm nên
kết tinh và lắng đọng được nhiều giá trị tích cực, như truyền thống u nước và
lịng dũng cảm, khả năng thích ứng cao với sự thay đổi của hoàn cảnh, sự khoan
dung, tinh thần cộng đồng, sự nhân ái, lạc quan và hồn hậu, trọng nghĩa tình, sự
cần cù, siêng năng. Hiện nay, Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến như một
đất nước thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng động, một thành viên tích cực
trong các hoạt động hợp tác quốc tế cho hịa bình và phồn vinh chung trên tồn
cầu. Hơn nữa, bối cảnh chuyển đổi mang tính bước ngoặt của Việt Nam, sự “va
đập” giữa cái mới và cái cũ tạo nên một lực hấp dẫn đặc biệt của văn hóa Việt
Nam. Nền văn hóa hiện tại đang hướng đến việc kế thừa các giá trị văn hóa
truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị mới, hướng tới tương lai, như dân
chủ, hiện đại, nhân văn, khai phóng, khoan dung, rộng mở... Nhận diện được đặc
tính, phẩm chất cơ bản này của văn hóa Việt Nam trong truyền thống và hiện đại
sẽ có ý nghĩa tích cực, để chuyển hóa thành “sức mạnh mềm” của đất nước, tạo
sức thuyết phục đối với bạn bè quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam có nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc, được hình
thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dồi dào,

đa dạng về loại hình và có giá trị cao trên nhiều phương diện, được công nhận cả
ở tầm khu vực và quốc tế là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn
hóa và xã hội. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, cảnh quan kỳ vĩ và thơ mộng
là những tài sản vơ giá, có tiềm năng chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ
độc đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại cũng như tạo dựng
thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam.
Thứ ba, các văn bản pháp lý về quản lý văn hóa của nước ta từng bước
được hồn thiện. Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được
xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động
8


văn hóa phù hợp với tình hình mới. Nhiều luật quan trọng liên quan đến văn hóa
và các văn bản quy phạm pháp luật khác góp phần hồn thiện thể chế văn hóa
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Nhiều chiến lược ngành đã được phê duyệt,
làm căn cứ để triển khai các hoạt động văn hóa trong thực tiễn.
Thứ tư, chủ trương “xã hội hóa” hoạt động văn hóa đã thu được những kết
quả thiết thực, bước đầu huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Xã hội hóa
được coi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực xã
hội, các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ
biến sản phẩm văn hóa, xây dựng cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội vào sự
nghiệp phát triển văn hóa, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát triển
mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Sự đa
dạng hóa về các chủ thể văn hóa, sự chuyển đổi từ nguồn lực đơn tuyến của Nhà
nước cho văn hóa đến sự nhập cuộc, hiệp lực và phối hợp đa chiều, đa thành phần
từ nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội cho các hoạt động văn hóa; thúc đẩy sự
đa dạng trong loại hình, ý tưởng, xu hướng và phong cách của các biểu đạt văn
hóa, đem đến cho cơng chúng những món ăn tinh thần phong phú hơn.
Thứ năm, sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa
dạng; có sự thể nghiệm nhiều phương thức, hình thức biểu đạt mới làm phong

phú thể loại, phong cách sáng tác và sản phẩm nghệ thuật với các đề tài, chủ đề
được mở rộng bên cạnh những nỗ lực bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ
thuật truyền thống. Một số tác phẩm mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh đã nhận được
giải thưởng cao trong nước và quốc tế; việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ
hiện đại vào việc sản xuất sản phẩm văn hóa từng bước được thực hiện, nhiều
dự án văn hóa nghệ thuật đã khuyến khích được những sáng tạo mới của các cá
nhân nghệ sĩ, thu hút sự quan tâm của giới trẻ và đưa ra những cách nhìn mới về
những vấn đề của cuộc sống đương đại.
Thứ sáu, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện là tiền đề góp
phần thúc đẩy việc hình thành thị trường tiêu dùng văn hóa với nhu cầu ngày càng
lớn. Văn hóa, từ một lĩnh vực bị xem là chủ yếu mang nặng yếu tố tuyên truyền
đang dần trở thành một lĩnh vực có giá trị kinh tế, mang lại lợi nhuận cho xã hội.
9


Đặc biệt, hoạt động du lịch được đẩy mạnh, trong đó tiềm năng văn hóa được
khai thác và tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch Việt Nam, đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.
Thứ bảy, hợp tác quốc tế về văn hóa được đẩy mạnh, góp phần tăng cường
quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới, tạo nên
“sức mạnh mềm” cho đất nước. Giao lưu văn hóa với nước ngồi ngày càng
được mở rộng cùng với q trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ
quốc tế của Nhà nước ta, góp phần tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn
nhau, quảng bá cho hình ảnh đất nước, con người, văn hóa - nghệ thuật Việt
Nam đến với bạn bè thế giới.
Thứ tám, công nghệ thông tin, nhất là thơng tin đại chúng có bước phát
triển mạnh. Hạ tầng mạng lưới viễn thông, In-tơ-nét tiếp tục được đầu tư phát
triển mạnh mẽ. Hoạt động của các cơ quan thơng tấn báo chí cũng có nhiều đổi
mới, tích cực hội nhập, học hỏi kinh nghiệm truyền thông của thế giới, có những
bước phát triển vượt bậc, thơng tin đa chiều, nội dung phong phú, góp phần

nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ, giúp người dân tiếp cận nhanh với những tri
thức mới của nhân loại, nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống.
Thứ chín, nhiều phong trào, cuộc vận động văn hóa được thực hiện và có
những thành tựu nhất định, góp phần tạo mơi trường văn hóa, bảo vệ và phát
huy những giá trị nhân văn truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhiều giá trị văn
hóa, đạo đức truyền thống được tơn vinh, tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính
tích cực xã hội của người dân được phát huy, mở rộng.
2.2. Những mặt hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì văn hóa nước ta thời
gian qua còn tồn tại một số hạn chế.
Một là, tư duy quản lý văn hóa chưa theo kịp sự phát triển của xã hội. Dấu
ấn của tư duy bao cấp, “xin cho”, tư duy hành chính - mệnh lệnh, tác nghiệp vẫn
cịn nặng nề. Hiện nay các cơ quan quản lý vẫn cịn ơm đồm nhiều cơng việc
“làm văn hóa” hoặc bị sa đà vào các hoạt động văn hóa cụ thể, các công việc sự
vụ, phong trào mà chưa thực sự phát huy được đầy đủ trách nhiệm, vai trò của
10


xã hội, của cộng đồng, doanh nghiệp và các hiệp hội nghề nghiệp. Cơ chế quản
lý vẫn chủ yếu mang tính tập quyền; tính chất phân quyền, phi tập trung hóa
chưa cao. Các chủ trương, đường lối, kế hoạch phát triển văn hóa phần lớn
được xác định và xây dựng từ cấp vĩ mô tỏa xuống các cấp vi mô, không được
đề xuất và xây dựng từ dưới lên, từ thực tiễn cơ sở. Pháp luật chưa trở thành
công cụ tối thượng để điều tiết, kiểm soát, điều chỉnh đời sống văn hóa. Nhận
thức về văn hóa của các ngành, các cấp có lúc cịn cứng nhắc, áp đặt, giáo điều.
Trên thực tế, vị thế của văn hóa cịn thấp, chưa thực sự được đặt ngang hàng
với các lĩnh vực khác.
Hai là, Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi tiếp diễn, nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đang trong q trình hồn thiện,
điều kiện khoa học, kỹ thuật của đất nước, nguồn nhân lực... còn nhiều hạn chế.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, có những ảnh hưởng đến sự phát triển các mặt
của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Thể chế văn hóa cịn chậm
đổi mới, thiếu đồng bộ. Việc ban hành luật vẫn còn những yếu kém. Một số văn
bản quản lý vừa được ban hành đã có những bất cập, địi hỏi phải điều chỉnh, bổ
sung. Việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa cịn
yếu nên nhiều quy phạm pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống. Việc thực thi
nhiều quy định của pháp luật liên quan đến văn hóa cịn lúng túng.
Ba là, nguồn nhân lực cho sự phát triển văn hóa cịn yếu và thiếu các kỹ
năng chuyên môn và quản lý, đặc biệt là năng lực đổi mới sáng tạo, các kỹ năng
quản trị kinh doanh. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý về văn hóa ở các cấp
khơng theo kịp sự phát triển phong phú, đa dạng, và phức tạp của hoạt động văn
hóa, dẫn tới lúng túng trong hoạch định chính sách, trong hướng dẫn tổ chức thực
hiện, trong xử lý các vụ, việc vi phạm pháp luật và các chính sách về văn hóa.
Bốn là, đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trị, vị trí của văn hóa
trong phát triển. Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách
tương đối thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với thực tiễn, chưa
đồng đều. Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa nhìn
chung cịn kém phát triển và trong tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ,
11


hiệu quả sử dụng cịn thấp. Cơng tác quy hoạch, đầu tư phát triển thiết chế văn
hóa trọng điểm cịn chậm. Hệ thống thiết chế văn hóa vùng nơng thơn, nhất là
vùng sâu, vùng xa còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự phù hợp với đặc
điểm vùng, miền, với nhu cầu và nguyện vọng của người dân; nội dung hoạt
động còn nghèo nàn, chưa thiết thực.
Năm là, chất lượng dịch vụ, sản phẩm văn hóa chưa cao; cịn thiếu các
thương hiệu văn hóa ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế, thiếu những sản
phẩm văn hóa có chất lượng cao, góp phần bồi bổ tâm hồn, xây dựng nhân cách,
giáo dục đạo đức. Tình trạng nhập khẩu, nhập siêu sản phẩm văn hóa nước ngồi

vào Việt Nam vượt trội so với xuất khẩu văn hóa, việc tiếp thu sản phẩm văn
hóa nước ngồi cịn thiếu chọn lọc. Các sản phẩm văn hóa Việt Nam vẫn chưa
thực sự sáng tạo, phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng, năng
lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế còn thấp.
Sáu là, bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị phai nhạt. Nhiều dân tộc
thiểu số đã và đang mất dần những nét văn hóa đặc sắc trong tiến trình phát
triển, hội nhập, đời sống văn hóa nghệ thuật nghèo nàn. Nhiều loại hình di sản
văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được chú trọng kiểm
kê và lập hồ sơ bảo vệ. Nhiều loại hình văn hóa - nghệ thuật chưa được quan
tâm phát triển, trong đó có nhiều ngành nghệ thuật đỉnh cao và nghệ thuật truyền
thống, nghệ thuật công cộng, nghệ thuật mới.
Bảy là, mơi trường văn hóa cịn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại
lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, tội phạm có chiều
hướng gia tăng. Văn hóa ứng xử nơi cơng cộng, ở cơng sở, trong gia đình, nhà
trường có nhiều bất cập. Sự suy thóai về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, tha
hóa về lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gây bức xúc
trong xã hội, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và
chế độ. Nạn tham nhũng, hối lộ, làm ăn phi pháp, lối sống bng thả, sống gấp,
thói cơ hội trong chính trị, gian lận trong học hành, bằng cấp,... diễn ra ngày
càng phổ biến. Đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực được
xã hội tôn vinh, như y tế, giáo dục, bảo vệ luật pháp, báo chí... Văn hóa gia đình
12


chưa được chăm lo, củng cố. Văn hóa học đường có những biểu hiện đáng báo
động. Các hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa, sự xuống cấp về
đạo đức, suy thóai về lối sống, sự băng hoại các giá trị văn hóa đang có chiều
hướng gia tăng. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng
xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn.
Tám là, hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật cịn hạn chế, chưa

đáp ứng được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác. Khoảng
cách của nhiều vấn đề lý luận với cuộc sống hiện thực không những chưa được
thu hẹp mà có xu hướng mở rộng thêm. Các cơng trình nghiên cứu chun sâu
về lý luận văn học, nghệ thuật cịn ít và chất lượng chưa cao; chưa giải đáp được
nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra. Hiện nay đang tồn tại hai thực tế trái ngược
nhau: Một mặt, lý luận văn hóa bị lạc hậu, đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ
bản và cấp bách do thực tiễn đặt ra mà công tác lý luận chưa trả lời được, hoặc
trả lời chưa thuyết phục; mặt khác, do thiếu sự dẫn dắt, chỉ đường, định hướng
của lý luận đúng đắn, nên nhiều hiện tượng văn hóa diễn ra một cách tự phát,
khiến cho chỉ đạo thực tiễn bị lúng túng, thụ động đối phó, khơng có đối sách rõ
ràng, kịp thời và hiệu quả. Hoạt động phê bình văn nghệ chưa góp phần định
hướng kịp thời, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng
hành với sáng tác, nhiều khi còn dễ dãi, né tránh, cảm tính trong phê bình và
ngược lại, cũng xuất hiện kiểu phê bình áp đặt, triệt tiêu bản chất khoa học của
phê bình văn nghệ; chưa phân tích phê phán đầy đủ những khuynh hướng sai
trái, lệch lạc.
Tóm lại, những hạn chế trên đặt ra tính tất yêu khách quan phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
III. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VẤN ĐỀ ĐẢNG LÃNH
ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA Ở NƯỚC TA
Ngay từ khi xã hội loài người chưa phân chia giai cấp, chưa biết đến đảng
phái chính trị thì đã có văn hóa. Văn hóa tồn tại như một phương thức để con
người nhận thức, duy trì và phát triển cuộc sống của mình. Văn hóa phát triển do
con người, vì con người. Văn hóa trường tồn cùng nhân loại.
13


Lịch sử cho thấy rằng, bất cứ lực lượng xã hội - chính trị nào muốn tác
động tích cực vào q trình phát triển đều phải nắm lấy văn hóa. Khi xã hội có
những chuyển biến lớn lao thì lực lượng tiên phong lại càng coi trọng vai trò của

văn hóa. Các chính đảng có sứ mệnh lãnh đạo xã hội xưa nay đều sử dụng văn
hóa văn nghệ như là một vũ khí lợi hại trong cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt
trận tư tưởng. Dù công khai hay che giấu việc sử dụng văn hóa văn nghệ như là
lợi khí đều được các lực lượng chính trị sử dụng một cách có ý thức, có tổ chức.
Điều này có căn rễ sâu xa từ bản chất và chức năng của văn hóa văn nghệ:
trong xã hội có giai cấp, văn hóa văn nghệ tất có tính giai cấp. Văn hóa văn nghệ
khơng phụ thuộc vào chính trị của giai cấp này sẽ phụ thuộc vào chính trị của
giai cấp khác.
Lịch sử cũng cho ta kinh nghiệm: giao lưu văn hóa giữa các nước là con
đường tốt nhất để tăng cường hiểu biết, tăng cường tình đồn kết và hữu nghị
giữa các dân tộc, làm phong phú lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Ngược lại, kẻ
xâm lược cũng có thể thực hiện các cuộc xâm lăng bắt đầu từ văn hóa.
Trong suốt nghìn năm đơ hộ nước ta, phong kiến phương Bắc một mặt tìm
cách tiêu huỷ văn hóa Việt Nam (bằng cách đốt sách, đục bia, phá hoại các định
hướng xã hội chủ nghĩa tích lịch sử, nghệ thuật...), mặt khác tìm cách áp đặt văn
hóa Trung Hoa vào nước ta trên nhiều lĩnh vực (tổ chức xã hội, phong tục tập
quán..), nhằm “đem thi thư để biến tục nước, lấy lễ nhạc để sửa lòng người”;
nhằm đồng hóa cả con người và nền văn hóa Việt Nam.
Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã truyền bá văn hóa Pháp sang Việt
Nam nhằm gây ảnh hưởng về tinh thần, nắm lấy trí thức và thanh niên; lợi dụng
phong tục, tập quán lạc hậu ở nước ta để áp bức, bóc lột, kìm hãm bước tiến của
nhân dân ta.
Nhảy vào Đơng Dương, phát xít Nhật cũng lợi dụng văn hóa để tun
truyền chủ nghĩa Đại Đơng Á, lơi kéo trí thức, văn nghệ sĩ nước ta phục Nhật,
theo Nhật, sử dụng mọi phương tiện văn hóa để phục vụ cho chế độ thống trị
của chúng.
14


Xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ sử dụng mọi hình thức văn hóa để tơ vẽ

cho bộ mặt quốc gia giả hiệu và bè lũ tay sai, ru ngủ và nơ dịch nhân dân, phá
hoại tâm hồn, tình cảm của thanh niên, hướng thanh niên vào con đường sống
không đạo đức, khơng lý tưởng, khơng Tổ quốc, vì cuộc sống hưởng lạc mà có
thể bán lại đồng bào.
Những hoạt động phản văn hóa của bọn thực dân, phát xít, đế quốc xâm
lược đã để lại những hạu quả nặng nề trong đời sống văn hóa của một bộ phận
nhân dân và thanh niên ta.
Và ngày nay, trong khi có lý thuyết cho rằng nền văn hóa nhân loại đang
giải hệ tư tưởng thì cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng Mác - Lênin và hệ tư
tưởng tư sản trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ lại quyết liệt hơn bao giờ hết. Tiến
hành diễn biến hồ bình, chủ nghĩa đế quốc luôn lấy tư tưởng, ý thức làm khâu
đột phá, bên ngồi tun truyền khơng có đối đầu tư tưởng nhưng bên trong thì
vấn đề “đối đầu hệ ý thức và hệ tư tưởng, tăng cường tuyên truyền để ngăn chắn
sự thâm nhập của các quan niệm thuộc hệ tư tưởng và ý thức cộng sản” [5,
tr.171]. Lại là một nội dung kết cấu nên chiến lược toàn cầu của Mỹ. Bên ngồi
tun truyền khơng có đối đầu tư tưởng nhưng bên trong lại ngầm đưa lực lượng
chống chủ nghĩa cộng sản vào trong lòng cộng sản, biến những nơi này thành
trận địa chống cộng với sự phối hợp từ bên ngoài, tăng cường tuyên truyền cả
bên trong và bên ngồi nước cộng sản để chuyển hóa lực lượng “từ đỏ sang
xanh” là phương sách khơng có xa lạ gì của lực lượng chống chủ nghĩa xã hội.
Điều đó góp phần cắt nghĩa về lao “diễn biến hồ bình” từ một tư tưởng chỉ đạo
trong chính sách đối ngoại của Mỹ đã trở thành một chiến lược của chủ nghĩa đế
quốc nhằm thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong cuốn “1990 - chiến thắng không cần chiến tranh”, một cuốn sách
được suy nghĩ và viết trong 40 năm, cựu tổng thống Mỹ Ních Xơn đã khơng hề
giấu diếm mục đích chống chủ nghĩa xã hội: “biện pháp của chúng ta để tiến
hành cạnh tranh hồ bình ngay trên đất Liên Xơ là bằng những chương trình
phát thanh và trao đổi văn hóa. Tuy các chương trình phát thanh của ta (Mỹ)
15



không thúc giục nổi loạn bạo động, song ta phải làm sao cho nó chú ý tới vấn đề
chủng tộc và động viên họ đấu tranh đòi quyền dân tộc”.
Sau khi Tây và Đông Đức sát nhập “sách của Cộng hòa dân chủ Đức bị
nghiền nát hàng tấn vứt vào đống rác... Các quảng trường và đường phố mang
tên chiến sĩ chống phát xít hay những người cộng sản có công lao đều bị đổi
tên...”.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã cho
chúng ta những bài học sâu sắc về nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
thực, và cảnh giác cách mạng trước những thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.
Còn chủ nghĩa đế quốc, đương nhiên đã có thể bổ sung những kinh nghiệm
chiến lược “diễn biến hồ bình”, tiếp tục tấn cơng vào các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại.
Các trung tâm phá hoại tư tưởng từ các đế quốc vẫn sử dụng hàng trăm tờ
báo, tạp chí, đưa vào nước ta hàng chục ngàn ấn phẩm có nội dung chống cộng,
chống chủ nghĩa xã hội lại việc truyền bá những sản phẩm văn hóa để bảo vệ
những gì là nhân bản, nhân văn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của mình . Ở
Xy Ry, Bộ văn hóa đã cấm quảng cáo khơng mang tính văn hóa, tun truyền
cho bạo lực, tình dục. Ở Xrilanca, bộ văn hóa cấm sản xuất hoặc nhập các phim
ảnh, băng hình có nội dung kích động tình dục, bạo lực. Trên đất nước này,
người ta đã hiểu rằng nhiều vụ án hình sử xảy ra mà ngun nhân chính là do
những sản phẩm phi văn hóa.
Ở Philipin, thị trưởng thành phố Maiia (A.Lin) cùng cựu tổng thống
Philoppin (C.Aquinô) và tổng giám mục nhà thời Thiên Chúa giáo (J.Sin) đã
châm lửa đốt hàng nghìn cuốn sách tạp chí, băng nhạc, băng hình có nội dung
phản văn hóa.
Trong đời sống xã hội nếu khơng có lý tưởng, khơng có những giá trị tinh
thần cao cả sẽ dẫn đến suy sụp về đạo đức dẫn đến chủ nghĩa thực dụng, phát
sinh những tiêu cực trong lối sống của con người. Bởi vậy mà giữ gìn những gì
là chân - thiện - mỹ trong thời đại của giao lưu văn hóa, giữ gìn và phát triển

thuần phong mỹ tục của mỗi dân tộc sẽ là một cuộc phấn đấu lâu dài, phức tạp,
16


địi hỏi phải có định hướng. Định hướng đó sẽ là điều kiện cho phát triển tự do
mỗi con người và của tất cả mọi người, cho mọi người đều được hưởng “hạnh
phúc văn hóa”.
Đời sống xã hội phức tạp và mang đầy tính chính trị. Văn nghệ trong khi
phản ánh đời sống khơng thể xa rời chính trị. Nói tới cuộc sống, không thể
không động chạm đến lý tưởng sống thái độ sống, thái độ thẩm mỹ đối với thực
tại; với đời sống với các mối quan hệ xã hội và với các tác phẩm văn hóa văn
nghệ, cũng khơng bao giờ tách rời thái độ chính trị của giai cấp.
Tuy có những đặc thù về phương thức nhận thức và phản ánh nhưng văn
nghệ không tách khỏi những mối quan tâm có tính chất chính trị trong đời sống
xã hội. Những gì có liên quan đến con người đều là mối quan tâm của cả chính
trị và văn nghệ. Trên ý nghĩa ấy văn nghệ và chính trị cùng chung mục đích vì
hạnh phúc con người.
Ở nước ta từ ngày có Đảng, văn nghệ đã thực sự trở thành một bộ phận
khăng khí của cách mạng, trở thành vũ khí đắc lực trong sự nghiệp đấu tranh vì
độc lập, tự do, dân chủ. Gắn bó với cách mạng, văn hóa văn nghệ Việt Nam, ở
mọi thời kỳ đều đạt được thành tựu.
Lịch sử cũng cho ta bài học về tiếng nói nghệ thuật phải được bảo đảm
bằng bản lĩnh chính trị. Trong một nền văn nghệ của chúng ta đã từng có những
tên tuổi tài năng mà trong một lúc nào đó khơng tỉnh táo và khơng đủ sức nhận
đường đã vấp váp và có những sai lầm lệch lạc.
Khi đưa ra “Đề cương văn hóa” 1943 Đảng ta đã chủ trương giải phóng văn
nghệ khỏi sự kiểm chế của hệ tư tưởng thống trị của chủ nghĩa thực, đưa văn
nghệ trở về bản chất và lẽ sống của nó. Bởi “dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng
mất tự do. văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”.
Khi chưa biết cách mạng, chưa hiểu cách mạng, nhiều nghệ sĩ có tài, yêu

nước mà vẫn khơng biết làm gì hơn là giấu mình trong những dịng thơ buồn
khổ, với nỗi đau siêu hình. Chỉ sau quá trình đi theo cách mạng, sống cuộc sống
chiến đấu của nhân dân, những nhà thơ, nhà văn ấy mới đi từ “chân trời của một
17


người đến chân trời tất cả”, tìm lại được niềm vui chân chính trong sáng tạo; tìm
thấy sự thống nhất giữa trách nhiệm trước cuộc đời với mong ước của bản thân.
Trước Cách mạng 1945, Chế Lan Viên đã bỏ không làm thơ văn, chán,
nhà thơ lần lượt yêu Kinh Thánh, Phật nhưng vẫn khơng tìm ra lối thốt. Có
cách mạng, anh tham gia vào cuộc sống dân tộc, anh vui lại và làm thơ lại.
“Chính nhờ chính trị mà làm thơ lại. Và khi đã làm thơ thì khơng phải chỉ làm
thơ chính trị mà cả thơ tình”. Chính Cách mạng, chính Bác Hồ - người chủ
trương đưa chính trị vào văn nghệ - đã thay đổi đời anh, thay đổi thơ anh.
Ngày nay xã hội vận động theo hướng dân chủ hóa, thực tiễn cuộc sống
vơ cùng đa dạng và phức tạp; bối cảnh quốc tế diễn biến đan xen hợp tác và đấu
tranh, cái đúng - cái sai, cái tốt - cái xấu, cái thật - cái giả dễ lẫn lộn thì một sự
tỉnh táo chính trị là hết sức cần thiết.
Nghệ sĩ sáng tác theo quy luật riêng của tình cảm. Tình cảm đó được hình
thành từ một trạng thái xúc động trước cuộc đời. Tình cảm ấy mang rõ dấu ấn cá
nhân, sắc thái cá nhân đồng thời mang nội dung xã hội cụ thể. Nó cần được định
hướng về tư tưởng. “Viết văn là sự giải thoát nỗi thắc mắc, ấp ủ bên trong. Hoặc
ghi nhận, lý giải những gì mình đã cảm nhận ở ngồi. Lại có khi diễn tả ra bằng
lời tất cả những hình ảnh mà ý thức đã ghi lại. Cũng có khi khối óc bị kích thích
đến tột cùng hoặc những xúc động sâu xa bỗng nhiên bắt buộc cầm bút - cây bút
hóa thành vật có linh hồn... Người viết văn phải hiểu biết chính trị. Nếu khơng
hiểu chính trị, bản thân người viết cũng lầm lạc. Song ngược lại, người làm
chính trị có văn hóa, phải hiểu biết văn chương”.
Cũng có ý kiến, quan điểm cho rằng văn nghệ khơng cần có sự lãnh đạo
hoặc phủ nhận mối quan hệ tất yếu giữa chính trị và văn nghệ. Quan niệm này

khơng có chỗ đứng trong thực tế hiện nay. Về điều này, một nhà thơ đã viết:
“Bản thân văn nghệ nhìn từ bất cứ góc độ nào cũng khơng nằm ngồi ảnh hưởng
chi phối của chính trị. Có những nhà văn, nhất là các nhà thơ, hiểu một cách đơn
giản tính đặc trưng của nghệ thuật, cứ n trí rằng mình chỉ viết về cái đẹp, cái
tốt, vượt lên trên mọi thể chế, mọi đường lối chính trị. Nhưng nếu hiểu chính trị
theo ghĩa rộng, thì có thể thấy các nghệ sĩ ấy vẫn cứ được xếp chỗ trong từng
18


“cơng năng” chính trị. Thực tế những bước phát triển trong mấy năm đổi mới
vừa qua đã cho thấy, có những người chủ trương phi chính trị hóa văn nghệ lại
dùng nghệ thuật làm chính trị rồi”.
Theo M,C.Kagan, “trong bài diễn văn khi nhận giải thưởng Nôben, một
trong những người đứng đầu Chủ nghĩa hiện sinh Ph.an-be Kamuy tuyên bố
rằng trong q khứ nhà văn “đã ln ln có thể tránh khỏi việc tham gia vào
lịch sử. Người nào không ủng hộ họ thường im lặng hoặc nói về một cái khác.
Ngày nay, tất cả đã thay đổi và thậm chí bản thân sự im lặng cũng mang ý nghĩa
tượng trưng ghê sợ. Ngày nay, bản thân việc chạy trốn khỏi chính trị bắt đầu
được xem xét như một sự lựa chọn: muốn hay không muốn, người nghệ sĩ cũng
bị lơi vào cuộc”.
Những thành tựu văn hóa mang tính tồn nhân loại vốn có từ trước khi xã
hội phân chia thành giai cấp vẫn in dấu ấn trong nền văn hóa của thời đại ngày
nay. Khi xã hội hết phân chia giai cấp, văn hóa vẫn phát triển. Nhưng trong bối
cảnh quốc tế hiện nay, trong tính phức tạp và đa dạng của các lực lượng xã hội
trong mỗi nước và trong từng khu vực, vấn đề giai cấp, vấn đề hệ tư tưởng vẫn
đang nóng bỏng. Điều đó biểu hiện rất rõ trong văn nghệ, một bộ phận cấu thành
quan trọng, một thành tố có tính đặc thù và có tính tiêu biểu của văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ văn hóa nói riêng cũng như tất cả
các cán bộ ta nói chung phải rèn luyện tư tưởng, chính trị, ý chí phấn đấu và tinh
thần trách nhiệm… Tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa

bài, người phát hành…) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải
làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì việc khác mới đúng được” [4, tr.190].
Sự nhận thức, hay nói đúng hơn, sự tự ý thức về tính tất yếu của mối quan
hệ giữa chính trị và văn nghệ với tính chất là một phạm trù lịch sử sẽ giúp văn
nghệ sĩ thấy tự do trong sáng tạo, sẽ là tác nhân quan trọng tăng cường hiệu lực
lãnh đạo của Đảng với văn hóa văn nghệ.
Mỗi xã hội đều có nền văn hóa của mình. Mỗi nền văn hóa được hiểu và
đánh giá bằng những quan niệm và thước đo của chính nó. Lãnh đạo, định
hướng cho sự phát triển và tiếp nhận văn hóa chính là để đảm bảo cho văn hóa,
19


cho mọi thành tố cấu thành của nó, trong đó có bộ phận đặc biệt nhạy cảm là
văn hóa nghệ thuật phát triển phù hợp với truyền thống dân tộc, phát huy được
bản sắc dân tộc, Nếu bản sắc dân tộc là một quá trình thường xuyên tự ý thức, tự
khám phá và tái tạo; nếu truyền thống của một dân tộc luôn luôn là sự bảo tồn
và chắt lọc, kế thừa và phát triển, giữ gìn và tiếp biên thơng qua hiện tại, thì sự
lãnh đạo, định hướng là cần thiết để qua đó bản sắc truyền thống khơng chỉ là sự
vận động theo qn tính mà cịn là sự vận động được con người nhận thức và
thúc đẩy.
Ngày nay, trong quá trình cơ cấu kinh tế - xã hội các nước đều xem xét lại
để điều chỉnh những ngun tắc chỉ đạo trong các chính sách văn hóa nhằm tìm
ra cơ chế quản lý hiệu quả nhất.
Ở Việt Nam, văn hóa ngày càng có vai trị quan trọng góp phần vào việc
định hình nội dung sống của con người và xã hội. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương lần thứ IV khóa VII (14/1/1993) khẳng định: “Nhiệm vụ trọng
tâm của văn hóa văn nghệ nước ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam về
trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh
vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu nước mạnh, xã hội văn
minh. Đảng đang đổi mới và văn hóa văn nghệ cũng đang và cần tiếp tục đổi

mới theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, Là bộ phận không thể tách rời của cuộc sống và nhận thức văn
hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sản xuất, hoạt động sáng tạo của
con người, nó “có liên lạc với chính trị rất là mật thiết”. Điều đó làm cho cuộc
cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đảng giữ độc
lập quyền lãnh đạo cách mạng, Đảng phải độc quyền lãnh đạo sự nghiệp văn hóa
cách mạng. Kinh nghiệm lịch sử của cách mạng nước ta và thực tế ở nhiều nước
cho thấy: khơng có giai cấp nào nắm được chính quyền lại muốn chia sẻ nó cho
các giai cấp khác. Đảng phải chiếm lĩnh mặt trận văn hóa. Nếu Đảng khơng nắm
lấy mặt trận này thì ý thức tư sản sẽ chiếm lĩnh. Sự lãnh đạo của Đảng là điều
đảm bảo cho định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
20


tộc. Điều này địi hỏi Đảng có đường lối chính trị đúng và trong toàn bộ hoạt
động lãnh đạo (cũng như quản lý) văn hóa văn nghệ tránh cái nhìn đồng nhất và
vấn đề văn nghệ với các vấn đề chính trị.

21


KẾT LUẬN
Việt Nam có nền văn hóa lâu đời và đậm đà bản sắc dân tộc, giàu tinh hoa
và giá trị cổ truyền. Quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra nhiều thuận lợi thúc đẩy
sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, sự hội nhập cũng
chứa đựng những nguy cơ làm mất dần bản sắc văn hóa, phá vỡ những giá trị
truyền thống của dân tộc. Khơng ít những sản phẩm văn hóa, những tư tưởng,
lối sống ngoại lai đang có nguy cơ làm băng hoại những gì làm nên tinh hoa, cốt
cách và bản lĩnh con người Việt Nam.

Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, từng bước Đảng và Nhà nước nhận thức rõ hơn vị trí, vai trị của văn hóa và
phát huy bản sắc văn hóa trong tiến trình phát triển. Đảng và nhà nước chủ
trương tiếp tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy
giá trị truyền thống tốt đẹp, đồng thời bổ sung những thiếu hụt trong hệ giá trị
của mình. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về văn
hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần khắc phục những nhận thức
sai lệch về vai trị, vị trí của bản sắc văn hóa trong sự phát triển của đất nước,
bảo đảm nền văn hóa Việt Nam “hịa nhập” mà khơng “hịa tan” theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Sơn Cường (1998), Lược sử Quản lý văn hóa ở Việt Nam, Nxb
Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ănghen (Trích trong tác phẩm “Cách mạng và phản cách
mạng ở Đức”, từ trang 9 đến 138), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Sự
Thật, Hà Nội, 1995.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ 5, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Khoa Điềm (2002), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Phạm Văn Đồng, (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (Trích trong Mục đọc sách), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
7. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia các
mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình chủ nghĩa

xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Uỷ ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1992), Thập kỷ
thế giới phát triển văn hóa, Nxb Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
9. V.I.Lênin, (Trích trong những bức thư và bài viết cuối cùng của Lênin
“Về cuộc cách mạng của chúng ta” từ trang 421 đến 433), Toàn tập, tập 45, Nxb
Tiến bộ Mátxcơva, 1978.

23



×