Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Phòng chống tham nhũng trong quản lý công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.22 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu ............................................................................................................1
1. Khái quát những vấn đề tham nhũng ở nước ta ..................................................2
1.1 Khái niệm và các đặc trưng của tham nhũng ...............................................2
1.1.1 Khái niệm tham nhũng ..........................................................................2
1.1.2. Đặc trưng của tham nhũng ...................................................................2
1.2 Nguyên nhân của tội phạm tham nhũng .......................................................2
1.2.1 Các nguyên nhân về kinh tế ..................................................................3
1.2.2 Các nguyên nhân về xã hội ...................................................................3
1.2.3 Các nguyên nhân về cơ chế, chính sách................................................4
2. Thực trạng tham nhũng và xử lý tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua .....5
3. Hậu quả của nạn tham nhũng – Mối đe dọa đến sự tồn vong của chế độ ..........5
3.1 Tác hại của tham nhũng đối với chính trị .....................................................6
3.2 Tác hại của tham nhũng đối với nền kinh tế ................................................7
3.3 Tác hại của tham nhũng với văn hóa – xã hội ..............................................9
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng ở
nước ta hiện nay ....................................................................................................10
4.1 Tuyên truyền giáo dục, phổ biến, qn triệt chủ trương, chính sách, pháp
luật về phịng, chống tham nhũng. ............................................................................10
4.2 Đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong Đảng,
Nhà nước và hệ thống chính trị. ................................................................................10
4.3 Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu quả
công tác phịng, chống tham nhũng. .........................................................................11
4.4 Hồn thiện thể chế quản lý về kinh tế - xã hội để nâng cao hiệu quả cơng
tác phịng, chống tham nhũng. ..................................................................................11
4.5 Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình cải cách hành chính, cơng
khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước. ..................................11
4.6 Tiếp tục tập trung phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi tham
nhũng, coi trọng cơng tác “phịng”, “chống” và xử lý tham nhũng. .........................12
4.7 Hồn thiện chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, công chức.........12
Phần III: Kết luận ......................................................................................................13


TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................


1

Phần I: Mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết “Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ
thù của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy hiểm vì nó
khơng mang gươm mang súng mà nó nằm trong các tổ chức ta để làm hỏng công
việc của ta”. Từ những bài học thực tiễn sâu sắc trong quá trình xây dựng và bảo
về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và các nước trên thế giới, đã khẳng định
hậu quả nghiêm trọng của nạn tham nhũng, đặc biệt là trong quản lý công.
Trong chiến lược tăng trưởng nhanh và bền vững, Việt Nam xác định 3 trụ
cột quan trọng bao gồm kinh tế – xã hội và môi trường và luôn chủ trương lấy “
nước dân làm gốc”, “Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối
với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. Vậy nhưng,
tham nhũng đã và đang để lại những ảnh hưởng hết sức nặng nề, làm suy yếu sức
mạnh của Đảng, gây hại lên cả 3 trụ cột này, trở thành “căn bệnh” nghiêm trọng và
là “quốc nạn” đối với đất nước.
Chúng ta vẫn đang phải đấu tranh chống lại các thế lực thù địch khi các lực
lượng này cũng đã thay đổi mạnh mẽ phương thức tiến hành “diễn biến hịa bình”,
thay vì sử dụng các công cụ bạo lực, quyền lực cứng như trước đây, thì nay chúng
đã chuyển sang coi trọng các “cơng cụ mềm” và “quyền lực thông minh” nhằm vào
các lĩnh vực chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngoại giao, nhất là vấn đề
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tơn giáo để từng bước chuyển hóa trong nội bộ nước
ta, giành “chiến thắng mà không cần chiến tranh” với trọng tâm là tìm mọi cách
khoét sâu mâu thuẫn, phân hóa nội bộ, tạo ra những “khoảng trống” quyền lực, đẩy
nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đất nước ta. Cùng với
các vấn đề như ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, vệ sinh thực phẩm,… tham

nhũng đã trở thành một trong những vấn đề “nóng” của nước ta hiện nay, mà các
thế lực thù địch, chống phá lợi dụng. Tham nhũng khơng chỉ gây ra những hậu quả
nghiêm trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm suy yếu các nguồn nội lực
của đất nước, mà còn trở thành công cụ để các thế lực thù địch lợi dụng làm suy yếu
lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, bằng những hiểu biết của cá nhân, xin trình
bày một số nội dung liên quan để giải thích cho luận điểm “Tham nhũng là một
trong những mối đe dọa cho sự tồn vong của chế độ”. Đồng thời, đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm phòng, chống nạn tham nhũng ở nước ta hiện nay.


2

Phần II: Nội dung
1. Khái quát những vấn đề tham nhũng ở nước ta
1.1 Khái niệm và các đặc trưng của tham nhũng
1.1.1 Khái niệm tham nhũng
Hiện nay, có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về “tham nhũng”.
Hiểu theo nghĩa rộng, tham nhũng là hành vi của bất kỳ người nào có chức
vụ, quyền hạn trong cả khu vực công và khu vực tư đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó vì vụ lợi.
Hiểu theo nghĩa hẹp, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
trong khu vực công đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Pháp luật Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về tham nhung tại Khoản 1 Điều 3
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 như sau: “Tham nhũng là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
1.1.2. Đặc trưng của tham nhũng
Theo quy định của pháp luật nước ta, tội tham nhũng có ba đặc trưng cơ bản,
đó là:

Thứ nhất, đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là
người có chức vụ, quyền hạn.
Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển
dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó.
Thứ hai, chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao.
Chủ thể tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như một
phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác.
Thứ ba, mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi.
Vụ lợi là là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn nhằm đạt được các lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất khơng chính đáng.
Đây là dấu hiệu bắt buộc phải có để phân biệt hành vi tham nhũng với những
hành vi vi phạm pháp luật khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
1.2 Nguyên nhân của tội phạm tham nhũng
Có nhiều nguyên dân dẫn đến tội tham nhũng. Khi xét về các nguyên nhân
dẫn đến hành vi tham nhũng, người ta thường đánh giá các nguyên nhân chủ quan
và nguyên nhân khách quan, các nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp.
Dưới đây xin trình bày các nhóm ngun nhân về kinh tế, xã hội, cơ chế chính sách,
pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.


3

1.2.1 Các nguyên nhân về kinh tế
Một là, Việt Nam là nước đang phát triển, đời sống kinh tế còn nhiều khó
khăn. Đặc biệt, dù Đảng và Nhà nước ta có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện chế độ
cải cách tiền lương, nâng cao đời sống vật chất của đội ngũ cá bộ, cơng chức, song
nhìn chung mức sống của cán bộ, công chức chưa được đảm bảo. Hệ thống lương
cơng vụ vẫn nặng tính bình qn, “cào bằng”, nặng tính bằng cấp, chưa phù hợp với

năng lực làm việc. Điều này khiến cho cán bộ, công chức không đủ sống, từ đó dẫn
đến việc hình thành hành vi tiêu cực
Hai là, quá trình chuyển đổi cơ chế chưa triệt để, còn tồn tại và đan xen giữa
cái mới và cái cũ, cơ chế xin – cho vẫn còn tồn tại trong khi cơ chế mới còn nhiều
bất cập, sơ hở, thiếu công khai. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ chế kiểm tra,
kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở, giao tài sản cho
nhân viên nhưng khơng có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ, gian lận trong
công tác để chiếm đoạt tài sản,... Các thủ tục, quy định của Nhà nước chưa được
công khai, rõ ràng nên nhân dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo
điều kiện cho cán bộ tham nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản
lý, trong công tác kê khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh bạch
trong các văn bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải trình của
các lãnh đạo cấp cao ở các cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu cơng khai,
minh bạch.
Ba là, những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và sự phân cực
giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị đảo
lộn. Khi đồng tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức, nhân
phẩm sẽ đứng trước bên bờ vực. Việc chạy theo sức mạnh của đồng tiền làm cho
một bộ phận không nhỏ cán bộ đi ngược lại truyền thống văn hóa của dân tộc. Có
khơng ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong cuộc cạnh tranh
khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng phổ biến
nhất. Hơn nữa, chính sách tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ các nhân viên cơng
quyền chưa thỏa đáng (chính sách tiền lương) là nguyên nhân góp phần thúc đẩy
mọi người cần phải kiếm thêm để bù đắp cho gia đình họ làm cho tình trạng tham
nhũng phát triển và lan rộng.
1.2.2 Các nguyên nhân về xã hội
Một là, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham của
con người cùng lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động, thích hưởng thụ của một bộ
phận, tầng lớp trong xã hội, trong đó có đội ngũ cán bộ, cơng chức. Chính lối sống



4

vụ lợi, vật chất của bộ phận cán bộ, công chức đã dẫn đến các hành vi tham nhũng
trong quản lý cơng.
Hai là, ảnh hưởng của tập qn văn hóa tiêu cực. Tâm lý, “truyền thống văn
hóa” như “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”, “dầu bôi trơn bánh xe”, “đầu xuôi
đuôi lọt”,… là nguyên nhân thúc đẩy tham nhũng. Chính hành vi tâm lý và trình độ
nhận thức này đã vơ tình làm cho khơng ít cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ
động. Tình trạng này kéo dài làm xuất hiện tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, cơng
chức để nhận “phong bì” từ dân mới giải quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là
một thủ tục tất yếu trong q trình xử lý cơng việc, dần hình thành nên “văn hóa
phong bì”. Ngồi ra, tư tưởng, văn hóa Á Đơng như “việc ai người ấy lo, bè ai
người ấy chống”, “Dĩ hòa vi quý”, “im lặng là vàng” hay “cha chung khơng ai
khóc”, … cũng làm cản trở tính chiến đấu của một bộ phận cán bộ, công chức và
người dân trong cuộc chiến chống tham nhũng.
Ba là, do những hạn chế về giáo dục, cơ chế và do chính bản thân mà đạo
đức con người ngày càng bị suy thối, tha hóa. Đặc biệt là những hạn chế trong
công tác quản lý, giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức đã làm cho một bộ phận cán
bộ, cơng chức chưa có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính
trị. Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy thối về đạo đức không thể tránh khỏi của các
công chức, viên chức nhà nước, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham nhũng.
1.2.3 Các nguyên nhân về cơ chế, chính sách
Một là, do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa hoàn
thiện; cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; trong xử lý, chế tài chưa
nghiêm minh, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém. Pháp
luật là công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham nhũng nhưng pháp
luật lại chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho tham nhũng phát triển.
Hai là, cơ chế kiểm soát quyền lực trong quản lý công cong lỏng lẻo, nhất là
hoạt động quản lý, thanh tra, kiểm tra cịn mang tính hình thức, cả nể, chưa thực sự

mang tính răn đe. Điều này thể hiện rõ ở một thực tế là rất ít các vụ việc tham
nhũng bị phát hiện từ hoạt động thanh tra nội bộ.
Ba là, hoạt động cải cách hành chính cịn chậm và chưa hiệu quả. Điều này
thể hiện ở việc hiện nay các thủ tục hành chính hay giấy tờ còn nhiều tầng nấc,
phiền hà, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai đều chưa minh bạch, rườm rà, cơ chế
quản lý bất động sản chưa hiệu quả và chặt chẽ tạo kẽ hở cho các cán bộ, viên chức
tham nhũng.
Bốn là, việc thực hiện chính sách phịng, chống tham nhũng của nước ta
chưa hiệu quả, đồng bộ, chưa đáp ứng được thực trạng tham nhũng hiện nay. Chúng
ta thiếu một chương trình phịng, chống lâu dài, tổng thể mà chỉ chủ yếu tập trung


5

và việc giải quyết những vụ “tham nhũng vặt”, nhỏ lẻ. Mặt khác, chưa có các chính
sách khuyến khích tồn dân và cả hệ thống chính trị cùng phịng, chống tham
nhũng. Bên cạnh đó, chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những người phát
hiện và dám tố cáo tham nhũng. Chế tài xử lý cũng còn nhiều bất cập, chưa mang
tính răn đe.
2. Thực trạng tham nhũng và xử lý tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua
Trong báo cáo tổng kết về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong
nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng cho thấy, có đến hơn 87 nghìn đảng viên bị kỷ luật,
trong đó vi phạm chủ yếu là nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc,
những điều đảng viên không được làm, tham nhũng, tiêu cực, buông lỏng lãnh đạo,
cố ý làm trái. Kết quả cũng cho thấy, có đến 113 cán bộ cao cấp diện Trung ương
quản lý bị kỷ luật (tăng hơn 10 lần so với nhiệm kỳ Đại hội XI - chỉ xử lý 11 trường
hợp cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý). Thanh tra Chính phủ và thanh tra
chuyên ngành đã chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý gần 450 vụ, hơn 600 đối
tượng. Kiểm toán nhà nước đã chuyển gần 20 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ
quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật. Từ năm 2013-2020, các cơ quan

tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương đã khởi tố, điều tra 14.300 vụ/24.410
bị can, xét xử sơ thẩm hơn 11.700 vụ/22.600 bị cáo về tham nhũng, kinh tế, chức
vụ. Riêng Ban Chỉ đạo đã đưa hơn 800 vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm
trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo.
Số liệu cụ thể trong năm 2019 cho thấy, thụ lý điều tra 423 vụ án, 1.073 bị
can phạm tội về tham nhũng; khởi tố mới 220 vụ với 515 bị can; truy tố 300 vụ với
672 bị can. Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố mới 12 vụ với
16 bị can về tội tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp; xét xử sơ thẩm 279 vụ, 614 bị
cáo; có 10 bị cáo bị tuyên phạt mức án tử hình, tù chung thân…
Từ những số liệu trên cho thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng
ở nước ta trong thời gian qua có nhiều kết quả tích cực, góp phần củng cố sự trong
sạch của bộ máy Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
Dẫu vậy, đánh giá một cách khách quan, nạn tham nhũng ở nước ta còn nặng nề.
Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn cịn hạn chế. Tham nhũng trên một
số ngành, lĩnh vực, địa bàn vẫn còn rất nghiêm trọng.
3. Hậu quả của nạn tham nhũng – Mối đe dọa đến sự tồn vong của chế độ
Tham nhũng gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Có thể hình dung tham
nhũng như là ổ sâu ký sinh trong thân cây. Dù cây có to lớn thế nào, nhưng nếu bị


6

sâu mọt tấn cơng, tàn phá từ trong thân thì sớm muộn gì cái cây đó cũng trở thành
một thân cây mục ruỗng, chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng bị đổ gãy.
Tham nhũng một mặt làm suy kiệt nguồn nội lực của quốc gia, bào mòn kinh
tế và làm suy thối đạo đức của đội ngũ cán bộ, cơng chức, mặt khác làm khoét sâu
mâu thuẫn dân tộc, làm lung lay niềm tin và ý chí cách mạng của nhân dân vào
Đảng và Nhà nước, vào chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.1 Tác hại của tham nhũng đối với chính trị

Trong suốt 90 năm lãnh đạo Cách mạng Việt Nam dành nhiều thắng lợi,
Đảng ta đã khẳng định được vai trò là “đội tiên phong”, tiếp tục là lực lượng lãnh
đạo đất nước trong thời kỳ mới - thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta cũng đang phải đấu tranh với các thế lực
thù địch, chống lại các luận điệu chống phá và các hành vi chia rẽ nội bộ, làm mất
uy tín và thanh danh của Đảng. Trong đó, tham nhũng đã trở thành trở lực lớn đối
với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mịn lịng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng (CPI) 2020 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế
(TI) vừa được công bố cho thấy, năm 2020, Việt Nam đạt 36/100 điểm, giảm 1
điểm so với năm 2019, đứng thứ 104/180 trên bảng xếp hạng toàn cầu. Điểm CPI
của Việt Nam thấp hơn điểm trung bình của khu vực ASEAN (42/100). Như vậy,
hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo động.
Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự án lớn
mà cịn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - cơ quan tiếp xúc với nhân
dân hằng ngày, giải quyết những cơng việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân
dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX chỉ rõ: “...
Điều làm cho nhân dân cịn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thối về tư tưởng, chính trị và phẩm chất
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng...”.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm vụ
quản lý nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nhân dân
chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng. Để nhân dân mất niềm tin, tức
là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vô cùng to lớn, thậm chí có tính chất quyết
định đối với sự nghiệp cách mạng.



7

Tại các kỳ đại hội của Đảng đều đã nêu lên các tác hại nghiêm trọng của tệ
tham nhũng đối với chế độ chính trị của nước ta. Trong đó khẳng định, tham nhũng
thực sự là nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ.
Chiến lược quốc gia phịng, chống tham nhũng đến năm 2020 khẳng định:
“tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong
quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm
ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu
nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới,
cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đánh giá “Việc phát hiện,
xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và
xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị cịn yếu; tình trạng nhũng
nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ cơng chưa được đẩy lùi. Tham
nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với
những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là
một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.
3.2 Tác hại của tham nhũng đối với nền kinh tế
Đối với nều kinh tế, tham nhũng gây ra những tác hại nghiêm trọng như sau:
Một là, tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong xây dựng cơ
bản.
Hàng năm, Nhà nước phải chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh
tra, kiểm toán và hàng loạt các chi phí khác. Mặt khác do tham nhũng mà một số
lượng lớn tài sản của Nhà nước bị thất thốt do các hành vi tham ơ, lạm dụng chức
vụ quyền hạn chiếm đoạt. Bên cạnh đó, một số cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt
động đầu tư bằng vốn ngân sách không dựa trên yêu cầu mang lại lợi ích cho Nhà
nước, cho xã hội mà chỉ nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân.

Trong thời gian qua, đã có rất nhiều vụ án tham nhũng lớn được đưa ra xét
xử. Điển hình như vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài
sản” xảy ra tại Tập đồn Dầu khí Việt Nam và vụ án Vụ án Trịnh Xuân Thanh và
đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Cổ phần Xây
lắp dầu khí Việt Nam – PVC và Cơng ty Cổ phần Bất động sản Điện lực dầu khí
Việt Nam – PVP Land với hậu quả gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền hàng trăm tỉ


8

đồng. Năm 2021, nhiều “đại án” liên quan đến tham nhũng và tội phạm kinh tế gây
thiệt hại kinh tế nặng nề như vụ án "Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản
Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”,
xảy ra tại Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO) với thiệt hại hơn 830 tỉ
đồng. Gần đây nhất là vụ án “thổi giá” Kit xét nghiệm Covid-19 của công ty Việt Á
và các vi phạm về đấu thầu thiết bị y tế tại Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Tim Hà
Nội,…
Báo cáo của Chính phủ về cơng tác phòng, chống tham nhũng năm 2021 gửi
Quốc hội nêu: số việc thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế phải thi hành là 4.799
việc; số có điều kiện đang được tổ chức thi hành là 3.691 việc; đã thi hành xong
2.697 việc. Tổng số tiền phải thi hành trên 72 nghìn tỷ đồng; đang tổ chức thi hành
trên 34 nghìn tỷ đồng; đã thu được trên 4 nghìn tỷ đồng. Qua số liệu báo cáo có thể
thấy, số tiền thiệt hại từ các vụ án tham nhũng, kinh tế là 72 nghìn tỉ đồng nhưng
hiện chỉ mới thu được 4 nghìn tỉ đồng để thấy tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng thấp
so với tài sản bị chiếm đoạt rất nhiều.
Hai là, tham nhũng gây tổn thất lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước
thông qua thuế.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên do tệ tham

nhũng, hối lộ mà một số doanh nghiệp chỉ phải nộp khoản thuế ít hơn nhiều so với
khoản thuế thực tế phải nộp.
Trong một số cơ quan, tổ chức đã hình thành các đường dây tham ơ hàng tỷ,
thậm chí hàng ngàn tỷ đồng của Nhà nước. Người ta đã tính tốn rằng tỉ lệ thất thốt
trong một lĩnh vực kinh tế giữa tiền thu vào và tiền tham nhũng thì tỉ lệ cứ mười
đồng thu vào lại có ít nhiều vài đồng bị chiếm hữu bất hợp pháp do tham nhũng,
hoặc có lĩnh vực khác tỉ lệ tham nhũng cao hơn rất nhiều so với tiền thu vào ngân
sách. Nó gây hậu quả lãng phí lớn cho kinh tế nhà nước và thiệt hại toàn dân.
Ba là, tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh, làm giảm
đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế.
Do tệ nạn tham nhũng mà nhiều doanh nghiệp tuy khơng có đủ thực lực và
uy tín nhưng nhờ “hối lộ” mà vẫn giành được những hợp đồng kinh tế lớn. Điều này
vừa làm mất long tin của doanh nghiệp, là vừa làm suy thối một bộ phận cơng
chức, cán bộ. Hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, địi hối lộ của một bộ phận cán bộ,
công chức, viên chức còn gây thiệt hại đến tài sản của người dân do họ phải đưa hối
lộ khi liên quan đến các thủ tục hành chính. Mặt khác, nó có thể gây nhũng nhiễu,
trì trệ trong sản xuất của người dân.


9

Bốn là, tham nhũng cản trở phát triển kinh tế, giảm sức hút đầu tư nước
ngồi và tàn phá mơi trường tự nhiên.
Tham nhũng được coi là một tác nhân làm suy yếu thị trường. Với những tác
động tiêu cực đến mơi trường cạnh tranh, cơ chế chính sách, tham nhũng trở thành
một loại hoạt động kinh tế ngầm, khó kiểm soát, bất ổn, cản trở đầu tư, đặc biệt là
đầu tư nước ngồi.
Tham nhũng hình thành một lại “thuế” khiến cho các nhà đầu tư nước ngồi
khơng muốn tham gia vào thị trường nước ta. Các doanh nghiệp nước ngồi cảm

thấy khơng đủ an tồn và mất niềm tin vào môi trường đầu tư trong nước, dẫn đến
nền kinh tế bị hạn chế các điều kiện phát triển.
3.3 Tác hại của tham nhũng với văn hóa – xã hội
Một trong những trụ cột chính của sự phát triển bền vững đất nước là văn
hóa – xã hội cũng đã và đang phải chịu những tác động tiêu cực từ vấn nạn tham
nhũng.
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực
đạo đức xã hội, tha hố đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham
nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người
cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân mà hướng tới các lợi ích bất chính, bất
chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp.
Vì vậy, tham nhũng khơng chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân
hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà cịn có xu hướng lan sang các
lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo
dục, thể dục, thể thao... Thậm chí, cả những lĩnh vực lẽ ra khơng thể có tham nhũng,
cả dưới góc độ đạo đức và pháp luật, như lĩnh vực phúc lợi xã hội hay bảo vệ pháp
luật. Hành vi tham nhũng xảy ra không ít trong các chương trình trợ cấp cho thương
binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; tham nhũng tiền, hàng hố cứu trợ xã hội,
trong cả xét duyệt cơng nhận di tích lịch sử, văn hố, thi đua khen thưởng. Thậm chí
tham nhũng cịn xảy ra trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình thường
trong quan niệm của một số cán bộ, cơng chức. Đó chính là biểu hiện của sự suy
thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham nhũng còn xâm
phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khi người thực hiện hành vi
tham nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người xây dựng đời sống, nền tảng tinh thần cho
xã hội.



10

Từ việc chỉ ra những hậu quả của tham nhũng đối với chính trị, kinh tế, văn
hóa – xã hội, có thể khẳng định rằng, ở thời điểm hiện tại “Tham nhũng vẫn là một
trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” (Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XIII, tập 1).
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng ở
nước ta hiện nay
Bằng quyết tâm của cả hệ thống chính trị và nhân dân, cơng tác phòng,
chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực. Đại
hội XIII của Đảng đã nhận định: “Cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng
được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết
tâm chính trị rất cao, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ và đạt được nhiều kết
quả rất quan trọng, rõ rệt, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ,
đánh giá cao và quốc tế ghi nhận. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn
chặn, có chiều hướng thuyên giảm”. Mặc dù vậy, để tham nhũng khơng cịn là một
trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ, Đảng và Nhà nước ta
triển khai thực hiện quyết liệt một số giải pháp sau:
4.1 Tuyên truyền giáo dục, phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách,
pháp luật về phịng, chống tham nhũng.
Cần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, thống nhất có hiệu quả từ nhận
thức đến hành động của cán bộ, công chức, viên chức, cộng đồng doanh nghiệp và
nhân dân trong việc phòng, chống tham nhũng.
Cùng với các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, cần kiên quyết, kiên trì
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ các cơ quan Đảng, bộ
máy Nhà nước. Thường xuyên giáo dục, đẩy mạnh nâng cao nhận thức cho cấp ủy,
tổ chức đảng các cấp và đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức nhất là người đứng
đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị về vai trò, tác dụng to lớn của cơng tác
phịng, chống tham nhũng, tiêu cực. Phải đẩy mạnh giáo dục liêm chính, hình thành

“văn hóa nêu gương”, “nói đi đơi với làm”; văn hóa “trọng liêm sỉ, danh dự” trong
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và văn hóa “căm ghét tham nhũng” trong
đại bộ phận quần chúng nhân dân. Có như vậy, mới phát huy được sức mạnh tổng
hợp to lớn chống nạn tham nhũng.
4.2 Đẩy mạnh hồn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ quyền lực trong
Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước theo hướng thật đầy đủ,
đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, khắc phục bằng được sự lạm quyền, lộng quyền và lợi


11

dụng quyền lực của cán bộ, đảng viên có chức vụ theo nguyên tắc mọi quyền lực
đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc với
trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách
nhiệm càng lớn. Đặc biệt, phải chú trọng quy định thật cụ thể chế tài xử lý vi phạm
đối với cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực ở nhiều lĩnh vực. Xây
dựng được cơ chế kiểm soát bên trong thật hiệu quả để việc tự kiểm tra, phát hiện
và xử lý vi phạm, tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị khơng
cịn “là khâu yếu”. Không để xảy ra sai phạm, tiêu cực trong việc bổ nhiệm, quy
hoạch, luân chuyển, điều động cán bộ; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi,
chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh
hiệu, chạy tội. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội
để kiểm sốt quyền lực.
4.3 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu
quả cơng tác phịng, chống tham nhũng.
Huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị vào cuộc chiến chống tham
nhũng, theo đó, tăng cường công tác giám sát của các cơ quan tư pháp, cơ quan dân
cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân.
4.4 Hoàn thiện thể chế quản lý về kinh tế - xã hội để nâng cao hiệu quả

cơng tác phịng, chống tham nhũng.
Cần rà sốt, sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các quy định pháp luật về kinh tế xã hội, trách nhiệm giải trình, cơng khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng ngân
sách, tài sản công, đất đai, tài ngun, khống sản, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước để kiểm sốt có hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ của người có chức vụ,
quyền hạn, tăng cường và nâng cao hiệu quả phịng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Hồn thiện cơ chế kiểm soát, giám sát nội bộ trong hoạt động nghiệp vụ, lãnh đạo,
quản lý ở các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà nước về tài chính, tài
sản cơng để phịng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ; bịt kín các “kẽ hở” để
“không thể tham nhũng”, ngăn ngừa việc chuyển dịch tài sản bất hợp pháp có được
từ tham nhũng, tiêu cực.
4.5 Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình cải cách hành chính,
cơng khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Cần đẩy nhanh cải cách hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hiện đại
và hiệu quả. Đặc biệt là cải cách về hồ sơ, thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh vực
đất đai. Thực hiện thực chất hoạt động công khai, minh bạch, đặc biệt là các lĩnh
vực đầu tư, đấu thầu, xây dựng,… là những lĩnh vực nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều nguy
cơ tham nhũng.


12

4.6 Tiếp tục tập trung phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành
vi tham nhũng, coi trọng công tác “phòng”, “chống” và xử lý tham nhũng.
Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, công bằng, công khai mọi hành vi
tham nhũng, thu hồi triệt để tài sản tham nhũng, tạo dư luận xã hội mạnh mẽ lên án
tham nhũng, tạo sức răn đe để không dám tham nhũng.
Tập trung đẩy nhanh tiến độ, xử lý dứt điểm các vụ án, vụ việc tham nhũng,
sai phạm kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với quan điểm: Tích cực, khẩn trương, rõ
đến đâu xử lý đến đó, khơng phân biệt người có hành vi phạm tội là ai, đã có dấu
hiệu phạm tội phải khởi tố điều tra và đã kết lụân có tội thì phải truy tố, xét xử, đảm

bảo “khơng có vùng cấm” trong phịng, chống tham nhũng. Đồng thời, phải kịp thời
phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu, khơng để vi phạm nhỏ tích tụ thành
sai phạm lớn. Phải kiểm tra, giám sát tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu
cực, tham nhũng, những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội.
4.7 Hồn thiện chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, công chức.
Để làm được điều này, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp như: Tinh giảm
biên chế để tăng quỹ lương; đẩy mạnh thực hiện quy chế tự chủ về tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp cơng lập; hồn thiện bảng mơ tả cơng việc; bố trí sắp xếp việc
làm và trả lương theo đúng chun mơn, năng lực, phù hợp với vị trí việc làm; quy
định chế độ “dưỡng liêm”.


13

Phần III: Kết luận
Mọi quốc gia trên thế giới đều khẳng định tham nhũng là tệ bệnh nguy
hiểm, nó đục khoét ngân sách nhà nước, làm suy yếu tiềm lực quốc gia. Trong
nhiều văn kiện của Đảng ta đều xem tham nhũng là “quốc nạn” và là một trong
những yếu tố đe dọa đến sự tồn vong của chế độ.
Nói tham nhũng là yếu tố đe doạn đến sự tồn vong của chế độ là bởi, tham
nhũng gây những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống chính
trị, kinh tế, xã hội của quốc gia – những giá trị trụ cột để một đất nước tồn tại và
phát triển. Bề ngồi, tham nhũng làm suy thối sức mạnh vật chất của nền kinh tế.
Nhưng nguy hiểm hơn là nó làm suy thối chế độ chính trị, xã hội, làm gia tăng
mâu thuẫn và làm lung lay ý chí, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước;
đồng thời nó cịn để lại hậu họa lâu dài khi làm biến dạng nhân cách con người,
nhân cách cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo. Vì những nguồn lợi lớn, nhiều kẻ tham
nhũng đã bất chấp đạo lý, chà đạp chuẩn mực xã hội, sẵn sàng vi phạm pháp luật,
kỷ cương, phép nước.
Tham nhũng cũng chính là nguồn gốc của sự phát sinh những mâu thuẫn,

mất đoàn kết, tranh giành địa vị, quyền hạn trong nội bộ một số cơ quan đảng và
nhà nước; làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; sự
ngưỡng mộ của bạn bè quốc tế đối với dân tộc. Nó làm suy yếu Đảng, Chính phủ bộ tham mưu và lực lượng nòng cốt thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và của chế độ ta. Đặc biệt, trong
“diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, tham nhũng trở thành một địa hạt
mà chúng tấn công mạnh mẽ, để khơi dậy mẫu thuẫn dân tộc, làm nhân dân mất
niềm tin và rời xa chế độ.
Do đó, phịng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp,
nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao
vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân. Đấu tranh phòng,
chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững
ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới. Đấu tranh phòng, chống tham
nhũng phải là cuộc chiến dài hơi, bền bỉ vì “Người dân mong Đảng chống tham
nhũng phải quyết tâm, không bỏ dở giữa chừng” theo tinh thần chỉ đạo của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Huyên, Tham nhũng và giải pháp phịng, chống từ góc nhìn
văn hóa, Tạp chí Cộng sản.
2. Thách thức và giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện
nay – Trang Thông tin điện tử tổng hợp- Ban Nội chính Trung ương).
3. Vũ Khuê, Tham nhũng trong khu vực công qua đánh giá của Tổ chức
Minh bạch Quốc tế.
4. Tài liệu bồi dưỡng về phịng, chống tham nhũng (dành có giáo viên các
trường trung học phổ thông), NXB Quốc gia – Sự thật.
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tập 1.




×