Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về công khai minh bạch tài sản để phòng, chống tham nhũng trong quản lý kinh tế qua thực tế tại cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.44 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRỊNH QUỐC VƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG KHAI MINH BẠCH
TÀI SẢN ĐỂ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ
QUA THỰC TẾ TẠI CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRỊNH QUỐC VƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG KHAI MINH BẠCH
TÀI SẢN ĐỂ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ
QUA THỰC TẾ TẠI CÀ MAU

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. VÕ TRÍ HẢO

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Trịnh Quốc Vương - mã số học viên: 7701251138A, là học
viên lớp Cao học Luật K25-2, Chuyên ngành Luật Kinh tế, Khoa Luật,
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật
học với đề tài “Pháp luật về công khai minh bạch tài sản để phòng, chống
tham nhũng trong quản lý kinh tế qua thực tế tại Cà Mau” (Sau đây gọi
tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan, tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn
này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Võ Trí Hảo. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến,
quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn
nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử
dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Trịnh Quốc Vương

2


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................1

Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng, chống tham nhũng 5
1.1. Những vấn đề cơ bản về tham nhũng.........................................................5
1.1.1. Khái niệm về tham nhũng và PCTN........................................................5
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng................................................6
1.1.2.1. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn...........................6
1.1.2.2. Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao...............6
1.1.2.3. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi..........................................7
1.1.3. Các hành vi tham nhũng theo pháp luật hiện hành.......................................7
1.2. Một số hình thức tham nhũng chủ yếu trong cơ quan, tổ chức..........................11
1.2.1. Hình thức tham nhũng trực tiếp..................................................................11
1.2.2. Hình thức tham nhũng gián tiếp.................................................................12
1.3. Phân tích ROCCIPI của tham nhũng.................................................................13
1.3.1. Rule:............................................................................................................13
1.3.2.Oppotunity:..................................................................................................14
1.3.3.Capacity:......................................................................................................14
1.3.4.Communication: .........................................................................................15
1.3.5.Interest:........................................................................................................15
1.3.6. Process:.......................................................................................................17
1.3.7. Ideology:.....................................................................................................19
1.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về PCTN................................................20
1.5. Nguyên tắc, phương thức và các yếu tố ảnh hưởng PCTN................................23
1.5.1. Nguyên tắc..................................................................................................23
1.5.2. Phương thức................................................................................................24
1.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng.................................................................................27
1.6. Các giải pháp PCTN..........................................................................................28
1.6.1. Các giải pháp phòng ngừa..........................................................................28
1.6.1.1. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị 28



1.6.1.2. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn...................28
1.6.1.3. Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việcchuyển đổi vị trí
công tác của cán bộ, công chức, viên chức......................................................29
1.6.1.4.Vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.................30
1.6.1.5.Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi
để xảy ra tham nhũng.......................................................................................30
1.6.1.6. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức toán
nhằm phòng ngừa tham nhũng.........................................................................30
1.6.2. Các giải pháp phát hiện tham nhũng...........................................................31
1.6.3. Xử lý người có hành vi tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật khác và
tài sản tham nhũng................................................................................................32
1.6.4. Trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong PCTN.........33
1.6.5. Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong PCTN..........................................34

Chương 2: Thực trạng phòng, chống tham nhũng tại tỉnh Cà
Mau.................................................................................................35
2.1. Thực trạng về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập.......................................35
2.1.1. Quy định của Đảng và Nhà nước................................................................35
2.1.1.1. Quy định của Đảng..............................................................................35
2.1.1.2. Quy định của Nhà nước.......................................................................40
2.1.2. Thực tiễn về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập ở tỉnh Cà Mau.........52
2.1.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Cà Mau.............52
2.1.2.2. Thực tiễn thi hành các chủ trương, quy định của Đảng và Nhà nước về
công khai, minh bạch TSTN trong công tác PCTN, lãng phí trên địa bàn tỉnh
Cà Mau.............................................................................................................54
a./ Ban hành văn bản cụ thể hoá, chỉ đạo việc thực hiện............................56
b./ Lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn tổ chức và hoạt động các cơ quan, đơn vị có
chức năng chống tham nhũng, lãng phí; minh bạch TSTN của địa phương;
công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong phát hiện, xử lý tham

nhũng, lãng phí...................................................................................56
c./ Lãnh đạo, chỉ đạo việc phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng,
lãng phí, kinh tế xảy ra ở địa phương..........................................................57
d./ Lãnh đạo, chỉ đạo, xử lý cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu khi để
xảy ra tham nhũng, lãng phí và xử lý, kỷ luật cán bộ, đảng viên có liên quan


đến tham nhũng, lãng phí.............................................................................57
e./ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức trách
nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân về PCTN, lãng phí 58
f./ Đề cao vai trò, trách nhiệm tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên và
người đứng đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cam kết của
người đứng đầu về sự tu dưỡng, rèn luyện, liêm khiết không tham nhũng,
lãng phí........................................................................................................59
g./ Xây dựng các quy định về công tác cán bộ và thực hiện công khai, dân
chủ, minh bạch trong công tác cán bộ; việc chấp hành các quy định trong
công tác thi tuyển, tiếp nhận, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển
cán bộ, công chức; các biện pháp ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực trong
công tác cán bộ............................................................................................59
h./ Xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để
xảy ra tham nhũng........................................................................................60
i./ Thực hiện quyền tự chủ về tài chính, biên chế và giao khoán kinh phí
hoạt động cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị có đủ điều kiện; nâng cao thu
nhập cho cán bộ, công chức để PCTN, lãng phí..........................................60
k./ Minh bạch về TSTN của cán bộ, công chức: Kê khai tài sản, thu nhập;
công khai bản kê khai tài sản, thu nhập; kiểm tra, xác minh, xử lý sai phạm
trong việc kê khai TSTN; thực hiện trả lương qua tài khoản.......................61
l./ Xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp,
chuẩn mực đạo đức của đảng viên, cán bộ, công chức trong thực thi công
vụ và quan hệ xã hội; trong việc cưới, việc tang, mừng nhà mới, tổ chức

sinh nhật, việc nhận bằng cấp, học hàm, học vị, danh hiệu thi đua, khen
thưởng; trong việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng........................62
m./ Công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị
trên các lĩnh vực theo quy định của Luật PCTN, Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương
thức thanh toán được triển khai, thực hiện đồng bộ và mang lại kết quả tích
cực....................................................................................................................62
n./ Xây dựng và thực hiện các quy định về PCTN, lãng phí thuộc thẩm
quyền của tỉnh..............................................................................................63
o./ Tập trung xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định của
địa phương về quản lý kinh tế - xã hội để PCTN, lãng phí, nhất là trong các


lĩnh vực: Quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; thu chi ngân
sách; quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; kiểm soát hoạt động tín dụng, tái
cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước (cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
thoái vốn đầu tư ngoài ngành nghề chính, thể chế quản lý doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước…); đấu thầu mua sắm
công; các định mức, tiêu chuẩn…................................................................63
2.1.2.3. Thực trạng về quản lý và những vấn đề phát sinh tiêu cực tham nhũng
lĩnh vực kinh tế trên địa bàn tỉnh Cà Mau........................................................66
2.1.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của việc công khai, minh bạch tài
sản thu nhập..........................................................................................................68
2.1.3.1. Những hạn chế, bất cập.......................................................................68
2.1.3.2. Nguyên nhân........................................................................................73
2.1.4. Giải pháp.....................................................................................................75

KẾT LUẬN.....................................................................................79



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PCTN
TSTN

Phòng, chống tham nhũng
Tài sản, thu nhập

QSDĐ

Quyền sử dụng đất


1

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước
ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội, chính trị, ngoại giao...tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với
những nguy cơ, thách thức lớn, một trong những nguy cơ làm cản trở công cuộc đổi
mới chính là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với lãng phí diễn ra nghiêm trọng,
phức tạp gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một
bộ phận cán bộ, đảng viên; xâm hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội, làm suy
giảm lòng tin của Nhân dân và là nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ.
Trước sự nguy hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, biện pháp đấu tranh nhằm ngăn ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi tham
nhũng và đã có những kết quả bước đầu, theo đánh giá của ngành chức năng trên
một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí từng bước được kiềm chế. Tuy nhiên, tệ tham
nhũng vẫn còn diễn ra khá phổ biến, tinh vi, xảo quyệt ở nhiều cấp, nhiều ngành,

khu vực kể cả những ngành, lĩnh vực được xã hội tôn vinh, coi trọng về mặt đạo lý.
Trong đó, tham nhũng lớn trên các lĩnh vực quản lý đất đai, quản lý phân bổ ngân
sách, đấu thầu dự án, xây dựng cơ bản và ngân hàng đang báo động. Tham nhũng
thậm chí ăn sâu vào tư duy và tác phong làm việc của một số cán bộ, đảng viên làm
giảm hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước, gây bất bình trong Nhân dân. Hơn bao
giờ hết, chúng ta phải nhận thức đầy đủ tính chất, mức độ, những tác hại của tham
nhũng và biến quyết tâm chính trị thành những biện pháp cụ thể để ngăn chặn và
từng bước đẩy lùi tham nhũng.
Đối với tỉnh Cà Mau, cấp uỷ, chính quyền các cấp trong tỉnh đã cụ thể hoá,
triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện quyết liệt các chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN)
nhưng hiệu quả mang lại chưa được như kỳ vọng, mong muốn. Vấn đề mang tính
căn cơ, có tính quyết định trong công cuộc đấu tranh PCTN là công khai minh bạch
tài sản để phòng, chống tham nhũng trong quản lý kinh tế. Trong những năm gần
đây, tình hình tham nhũng ở Cà Mau có biểu hiện phức tạp, đã phát hiện những vụ
án có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng gây thiệt hại, thất thoát tài sản Nhà nước
hàng ngàn tỷ đồng; việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa hiệu quả chưa cao, vấn


2

đề về minh bạch tài sản thu nhập còn mang tính hình thức; mặc dù Luật PCTN và
các văn bản thi hành khá chi tiết; nhưng hiện nay, các quy định này vẫn còn nhiều
bất cập. Do đó, việc phát hiện hành vi tham nhũng, vi phạm thông qua quá trình kê
khai thu nhập, tài sản là rất khó khăn. Trên thực tế, mức lương của cán bộ, công
chức Nhà nước khó có thể đáp ứng được cuộc sống. Thế nhưng, vẫn có không ít
người sở hữu nhiều đất đai, nhà cửa, sắm được xe ô tô sang trọng... Vậy mà, trong
quá trình minh bạch, kê khai tài sản, thu nhập (TSTN) lại không thể phát hiện được
vi phạm của những đối tượng này. Theo quy định, người phải kê khai tài sản không
bắt buộc giải trình các tài sản đó. Luật PCTN sửa đổi năm 2012 có quy định về giải

trình tài sản tăng thêm. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng cho người kê khai bổ
sung, còn người kê khai lần đầu nếu tài sản có giá trị lớn như thế nào cũng không
phải giải trình. Đây là “lỗ hổng” lớn trong công tác kê khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của từng cá nhân. Bên cạnh đó, đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
quá rộng dẫn đến khó quản lý, khó kiểm soát và khai thác, sử dụng các dữ liệu về
tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai cho công tác phòng, chống tham
nhũng. Hơn nữa, việc mở rộng các đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
cũng dẫn đến sức ép về năng lực tổ chức thực hiện cho cơ quan có thẩm quyền và
dẫn đến tính hình thức trong việc thực hiện các biện pháp này. Ngoài ra, ở thời điểm
hiện tại vẫn chưa có quy định về cơ chế kiểm soát thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn và rộng hơn là cơ chế kiểm soát thu nhập trong xã hội nói chung nên khó
phát hiện nguy cơ tham nhũng, nhất là nhóm có chức vụ, quyền hạn. Chính từ thực
tiễn nêu trên, người viết chọn đề tài "Pháp luật về công khai minh bạch tài sản để
phòng, chống tham nhũng trong quản lý kinh tế qua thực tế tại Cà Mau" làm đề
tài luận văn kết thúc khoá học. Tuy nhiên, vấn đề về PCTN khá rộng, trong khuôn
khổ nghiên cứu, trên cơ sở những vấn đề lý luận chung, người viết chỉ tập trung đề
cập, phân tích, đánh giá thực trạng và những bất cập hiện nay về vấn đề công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập ở tỉnh Cà Mau để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện.

Vấn đề cần nghiên cứu
Trọng tâm là phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật về công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập hiện nay có đảm bảo đầy đủ, đồng bộ và khả thi hay
chưa? Đối chiếu với thực trạng trên địa bàn tỉnh Cà Mau để thấy được những hạn
chế, bất cập; qua đó, đề xuất các giải pháp thực hiện trong thời gian sắp tới.


3

Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
trong các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Cà Mau.

Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, những vấn đề lý luận về PCTN.
Thứ hai, phân tích quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập và thực trạng tỉnh Cà Mau. Từ đó, đánh giá những hạn
chế, bất cập về quy định của pháp luật và việc thực thi của cán bộ, công chức trong
các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
trong thời gian tới.

Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận chung, quy định hiện hành của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập như: Nghị quyết số 04NQ/TW, ngày 21-8-2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí; Nghị quyết Trung ương 3 khoá
X, ngày 19 tháng 9 năm 2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
PCTN, lãng phí; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
PCTN, lãng phí; Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 03-01-2014 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản;
Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07-12-2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng...; Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 2007, 2012),
Bộ Luật hình sự 1999, sửa đổi 2009, Bộ Luật tố tụng hình sự 2003, Nghị quyết số
21/NQ-CP, ngày 12-5-2009 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng,
chống tham nhũng đến năm 2020; các nghị định, thông tư...và các văn bản khác có
liên quan.
- Thực trạng, những hạn chế, bất cập của các quy định Đảng, pháp luật của
Nhà nước và việc thực thi công khai, minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn tỉnh

Cà Mau.

Phương pháp nghiên cứu


4

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, thống kê trên cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chủ trương, quy định về công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn tỉnh Cà Mau trong thời gian qua.
Tình hình nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp về công khai minh bạch tài sản
để phòng, chống tham nhũng trong quản ký kinh tế hiện nay đang được mọi người
quan tâm.
Thời gian qua, có nhiều công trình nghiên cứu về tham nhũng của nhiều học
giả như Tổ chức minh bạch quốc tế, Ngân hàng Thế giới...Ở Việt Nam có nhiều học
giả, nhà chính trị rất quan tâm đến vấn đề này và có nhiều bài viết trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
Riêng đề tài: "Pháp luật về công khai minh bạch tài sản để phòng, chống
tham nhũng trong quản lý kinh tế qua thực tiễn tại Cà Mau" được nghiên cứu một
cách bài bản và hệ thống.

Ý nghĩa và khả năng ứng dụng
Gốc độ nghiên cứu không bao quát tất cả các nội dung về PCTN nói chung,
luận văn đi sâu phân tích các quy định xung quanh vấn đề cốt lõi là công khai, minh
bạch tài sản, thu nhập để phòng, chống tham nhũng trong quản lý kinh tế trên địa
bàn tỉnh Cà Mau. Cụ thể là các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước và
việc thực thi các chủ trương, chính sách đó trên địa bàn tỉnh Cà Mau, để thấy được
những ưu điểm, thuận lợi, những bất cập, hạn chế kể cả trong cơ chế chính sách và
quá trình tổ chức thực hiện.

Cách tiếp cận nêu trên, luận văn sẽ có những nhận định, đề xuất có ý nghĩa
thực tiễn, nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách và tính khả thi trong tổ chức
thực hiện, nâng cao hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng trong thời
gian tới.


5

Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng, chống tham nhũng
1.1. Những vấn đề cơ bản về tham nhũng
1.1.1. Khái niệm về tham nhũng và PCTN
- Tham nhũng ra đời gắn liền với sự hình thành giai cấp và phát triển của bộ
máy nhà nước. Nó xảy ra ở mỗi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, nó len lỏi vào mọi
mặt của đời sống xã hội. Tham nhũng là một căn bệnh nguy hiểm, gây ra những hậu
quả tai hại về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; nó cản trở sự phát triển đi lên của
xã hội và có thể dẫn đến sự sụp đổ của một chế độ.
Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi
dụng quyền hành để nhũng nhiễu Nhân dân lấy của. Định nghĩa tham nhũng trong
phạm vi hẹp đó là việc lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng...
Nhìn từ gốc độ pháp luật, tại Điều 1, Pháp lệnh chống tham nhũng quy định:
"Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái với pháp luật vì động cơ vụ lợi,
gây thiệt hại cho tài sản của nhà nước và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn
của cơ quan, tổ chức".
Khái niệm tham nhũng theo Luật PCTN năm 2005, tham nhũng là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Từ các định nghĩa nêu trên, có thể thấy việc diễn giải có thể khác nhau về từ
ngữ, nhưng về mặt nội hàm không thay đổi. Tác giả luận văn cho rằng: Tham nhũng

là hành động của người có chức vụ, quyền hạn cố tình làm sai lệch các quy tắc
chuẩn mực công vụ để trục lợi bất hợp pháp. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới
hạn người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói
cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của
Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi
tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích
hợp với việc áp dụng các biện pháp PCTN như: Kê khai tài sản, công khai, minh
bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người
đứng đầu...
-Về PCTN, pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm nhưng từ các quy
định của Luật PCTN, có thể hiểu PCTN là các biện pháp mà Nhà nước áp dụng để


6

ngăn chặn (phòng) và xử lý (chống) các hành vi tham nhũng. Các biện pháp đó là
lập pháp (ban hành văn bản điều chỉnh hànhvi), hành pháp (thực hiện quy định về
phòng, chống tham nhũng), tư pháp (xử lý hành vi tham nhũng), hoặc các biện pháp
giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của chủ thể có
liên quan.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trưng cơ
bản như sau:
1.1.2.1. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần
vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công

vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (khoản 3, Điều 1, Luật
PCTN năm 2005).
Nhóm đối tượng này, họ thường là những người có quá trình công tác và
cống hiến nên có nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ thống, là những chuyên
gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau; là những người có quan hệ rộng và có uy tín xã
hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể
hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét
xử hành vi tham nhũng.
1.1.2.2. Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham
nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ,
quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia
đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham
nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền
hạn đó thì không thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là
hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội


7

phạm khác, do vậy cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi
phạm pháp luật khác.
1.1.2.3. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ
lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó không là hành vi tham
nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có
chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham
nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham
nhũng phải đạt được lợi ích. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá

tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác
định những lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được để từ đó quyết định mức độ
xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng
khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh
giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt được thì sẽ là không đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích
vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt; ví dụ như: Việc dùng tài sản của
Nhà nước để khuyếch trương thanh thế, gây dựng uy tín hay các mối quan hệ để thu
lợi bất chính. Trong trường hợp này, mục đích của hành vi vừa là lợi ích vật chất,
vừa là lợi ích tinh thần...
Đối với khu vực tư, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có những
sự điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người có chức vụ, quyền
hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực tư cấu kết, móc nối với những
người thoái hoá, biến chất trong khu vực công hoặc lợi dụng ảnh hưởng của những
người này để trục lợi. Trong trường hợp đó, họ trở thành đồng phạm khi người có
hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.1.3. Các hành vi tham nhũng theo pháp luật hiện hành
Bộ Luật hình sự, Luật PCTN năm 2005 đã liệt kê các hành vi tham nhũng.
Theo đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.


8

- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ
lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định trong
Bộ Luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung ngày năm 2009 và có hiệu lực
từ ngày 01-01-2010, bao gồm:
- Tham ô tài sản: Là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý.
- Nhận hối lộ: Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua
trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ
hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi: Là việc cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ,
quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
- Lạm quyền trong khi thi hành công vụ: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá
nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi
ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi:
Là việc cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận
hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây
hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng

ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm
một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm
một việc không được phép làm.


9

- Giả mạo trong công tác: Là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác
mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây:
+ Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
+ Làm, cấp giấy tờ giả;
+ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn1
Hành vi thứ 8 đến hành vi thứ 12 mới được bổ sung do đây là những hành vi
đã phát sinh và đang trở nên phổ biến trên thực tế, cần được quy định cụ thể làm cơ
sở pháp lý cho việc xử lý. So với những hành vi tham nhũng được quy định tại
Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và các tội phạm về tham nhũng trong Bộ
Luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Luật PCTN có bổ sung
5 hành vi tham nhũng mới. Đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ biến
trong thời gian gần đây. Việc quy định thêm 5 loại hành vi mới này là cần thiết và là
cơ sở pháp lý để đấu tranh với những biểu hiện ngày càng phức tạp của tham nhũng.
Tuy nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử lý về hình sự mà chỉ
những hành vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ Luật hình
sự thì mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự, (các hành
vi được quy định từ khoản 1 đến khoản 7, Điều 3 của Luật) còn những hành vi khác
(từ khoản 8 đến khoản 12, Điều 3 của Luật) được xác định là hành vi tham nhũng
nhưng chưa cấu thành tội phạm thì được xử lý bằng biện pháp kỷ luật hoặc hành
chính.
- Về hành vi “đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức
vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi”: Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Do vẫn còn tồn tại

cơ chế “xin - cho” trong nhiều lĩnh vực nên có nhiều cá nhân đại diện cho cơ quan,
tổ chức, đơn vị hoặc địa phương đã tìm cách hối lộ cho người có chức vụ, quyền
hạn phụ trách việc phê duyệt chương trình, dự án, cấp kinh phí, ngân sách để
đượclợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình và thông qua đó để đạt được
các lợi ích cá nhân. Hành vi này được coi là hànhvi tham nhũng. Điều cần lưu ý là
hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh được quy định trong Bộ Luật hình sự
không thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm các tội phạm về
chức vụ. Còn hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ được thực hiện bởi chủ thể có

. Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ xung năm 2009, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 247-254.

1


10

chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi thì mới được coi là hành vi tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự
điều chỉnh của pháp luật hình sự với tội danh tương ứng (nếu hành vi đó cấu thành
tội phạm), vừa là hành vi tham nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham
nhũng.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản nhà
nước vì vụ lợi”: Đây là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của
nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì phục vụ
cho lợi ích công. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho thuê tài sản như:
Nhà xưởng, trụ sở, xe ôtô và các tài sản khác nhằm mục đích vụ lợi. Số lượng tài
sản cho thuê nhiều khi rất lớn.
- Về hành vi “nhũng nhiễu vì vụ lợi”: Nhũng nhiễu là hành vi đã được mô tả
trong phần thuật ngữ khái niệm. Cần nhấn mạnh thêm hành vi xuất hiện nhiều trong
hoạt động của một số cơ quan công quyền, nhất là các cơ quan hành chính, nơi trực

tiếp giải quyết công việc của công dân và doanh nghiệp.
Một số cán bộ, công chức không thực hiện trách nhiệm với thái độ công tâm
và tinh thần phục vụ mà ngược lại thường tìm cách lợi dụng những sơ hở hoặc
không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt ra các điều kiện gây thêm khó khăn
cho công dân và doanh nghiệp để buộc công dân và doanh nghiệp biếu xén cho
mình quà cáp. Thực chất của hành vi này là sự ép buộc đưa hối lộ được che đậy
dưới hình thức tinh vi rất khó có căn cứ để xử lý. Cũng có thể coi hành vi nhũng
nhiễu là hành vi “đòi hối lộ” một cách gián tiếp hoặc ở mức độ chưa thật nghiêm
trọng và có thể dùng biện pháp xử lý hành chính.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi
vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”. Hành vi tham nhũng
nhiều khi được che chắn thậm chí là có sự tiếp tay của những người có chức vụ,
quyền hạn ở cấp cao hơn. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý tham nhũng là hết sức khó
khăn. Việc bao che cho người có hành vi tham nhũng, việc cản trở quá trình phát
hiện tham nhũng có khi được che đậy dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: Thư
tay, điện thoại, nhắc nhở, tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái
độ, việc làm bất hợp tác với cơ quan có thẩm quyền…
- Hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là hành vi thường
được gọi là “bảo kê” của những người có trách nhiệm quản lý, đặc biệt là một số


11

người làm việc tại chính quyền địa phương cơ sở, đã “lờ” đi hoặc thậm chí tiếp tay
cho các hành vi vi phạm để từ đó nhận lợi ích từ những kẻ phạm pháp.

1.2. Một số hình thức tham nhũng chủ yếu trong cơ quan, tổ chức
1.2.1. Hình thức tham nhũng trực tiếp
Là loại tham nhũng mà công chức nhà nước thực hiện nhanh một quyền cụ

thể nhất định, giúp công dân hoặc tổ chức nào đó đạt được một quyền xác định mà
họ có quyền được hưởng nhằm thu lợi từ những người hưởng quyền đó. Hình thức
tham nhũng này đa dạng.
Thứ nhất, có thể là dạng cán bộ, công chức nhận tiền để giúp công dân có
được các loại giấy tờ chứng nhận của nhà nước nhanh hơn mà công dân đã có đủ
điều kiện được cấp phải chờ đợi một khoản thời gian lâu hơn. Đây là loại tham
nhũng trực tiếp phổ biến và ít nguy hiểm trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ hai, cán bộ, công chức được giao quyền thụ lý giải quyết các loại giấy tờ
(đăng ký kinh doanh, cấp phép xây dựng, hoàn công, các loại giấy tờ liên quan đến
ngành nghề nhạy cảm khác...) cố ý gây khó dễ, tạo khó khăn như phải thực hiện các
xác nhận, chỉnh sửa hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian trả hồ sơ, đưa qua nhiều bộ
phận gây phiền hà cho cá nhân, tổ chức. Tất cả với mục đích nhằm buộc đối tượng
phải "biết điều", nghĩa là kèm theo một bao thư hay một loại vật chất nào đó để "lót
tay" cho cán bộ, công chức. Đây là loại tham nhũng điển hình trong các cơ quan
hành chính nước ta. Xếp vào loại tham nhũng trực tiếp, thông thường loại tham
nhũng này được gọi là nhũng nhiễu, gây phiên hà để vòi tiền. Với cách thức tạo ra
các tiền lệ, loại lệ thoả thuận ngầm, không công khai về "mức phí" mà tổ chức, cá
nhân khi đến cơ quan hành chính phải tự hiểu hoặc có sự chỉ dẫn, truyền tai nhau.
Thứ ba, một loại cũng khá phổ biến trong cơ quan hành chính nữa đó là
thông qua thoả thuận giữa tổ chức, cá nhân với người trung gian (còn được gọi là cò
hành chính). Theo đó, tổ chức, cá nhân phải chi số tiền tuỳ theo sự thoả thuận với
"cò" để thực hiện các giao dịch hành chính một cách thuận lợi. Đây là tham nhũng
trực tiếp nhưng có sự tham gia của người trung gian.
Cũng có trường hợp cán bộ, công chức trực tiếp thoả thuận ngoài giờ làm
việc để kiếm thêm thu nhập mà lẽ ra trách nhiệm ấy phải thực hiện trong giờ hành
chính.
Thứ tư, loại tham nhũng đáng báo động trong các cơ quan hành chính hiện
nay đó là mua bán chức vụ, đây là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong



12

công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ cấp trên sẽ thông tin cho một vài cấp dưới biết
đang có nhu cầu bổ nhiệm một số chức danh lãnh đạo trong cơ quan để một số đối
tượng hám danh, mưu lợi sẽ tìm cách "chạy chọt", biếu xén cho cấp trên và như thế
bổng lộc của ai nhiều hơn sẽ là người chiến thắng. Một khi cán bộ ấy được bổ
nhiệm, thì chắc chắn anh ta sẽ tìm mọi cách đục khoét để thu lại những gì đã bỏ ra.
Đây là loại tham nhũng trực tiếp rất nguy hiểm, làm thoái hoá cán bộ.
Thứ năm, loại tham nhũng nguy hiểm nhất hiện nay là vi phạm các quy định
của pháp luật hoặc thực thi pháp luật mang tính thiên vị một cách có tổ chức, đây là
loại tham nhũng được nói nhiều trong các cơ quan hành chính. Loại tham nhũng có
sự phối hợp giữa cấp trên và cấp dưới vì hành vi tham nhũng phải do nhiều công
chức tham gia mới thực hiện được. Hậu quả là các chính sách, pháp luật được tổ
chức thực hiện không đúng, trái quy định.
Như vậy, tham nhũng trực tiếp là hành vi cán bộ, công chức nhận tiền, vật
chất của ngườ khác để thực hiện, hoàn thành công việc thuộc trách nhiệm phải làm,
bất kể đó là việc làm sai, trái quy định hay thực hiện công việc đó nhanh hơn thông
thường. Loại tham nhũng này là bằng chứng để đánh giá sự trì trệ về năng lực và
mức độ hiệu quả của cơ quan hành chính nhà nước. Tham nhũng trực tiếp chỉ ra
năng lực yếu kém hay chất lượng phục vụ tồi tệ trong cơ quan hành chính. Ở mức
độ khác, công chức có thể tạo ra sự khan hiếm, độc quyền dịch vụ hành chính giả
tạo nhằm có điều kiện thu lợi. Có thể khẳng định, tham nhũng trực tiếp là loại tham
nhũng thông qua thoả thuận để trục lợi trong các giao dịch giữa tổ chức, cá nhân với
cơ quan công quyền.
1.2.2. Hình thức tham nhũng gián tiếp
Dù không phổ biến như tham nhũng trực tiếp, những tham nhũng gián tiếp
gây thiệt hại lớn về tài sản công, tài nguyên thiên nhiên, giá trị tinh thần và niềm tin
của nhân dân đối với nhà nước, thậm chí có thể làm lung lai, sụp đổ cả thể chế và
chế độ chính trị.
Thứ nhất, loại tham nhũng "bẻ cong pháp luật" đây là hành vi cố tình thay

đổi các quy định của pháp luật có lợi cho những kẻ tham nhũng. Chẳng hạn như
một cán bộ lãnh đạo có thể bằng quy định của pháp luật để ưu tiên phân cấp, xây
dựng quy hoạch những nơi còn hoang sơ, thấp kém không thuận lợi thành những
nơi du lịch, nhà máy, khu công nghiệp sầm uất để nhằm tăng giá trị tài sản của
mình, thông thường là đất đai.


13

Thứ hai, tác động đến nội dung chính sách để có lợi cho nhóm người nào đó.
Thông thường, nhóm đối tượng này họ nhận tiền để lèo lái cơ quan nhà nước ban
hành các chính sách phục vụ nhóm có thế lực và tiền mà không phục vụ cho lợi ích
của nhân dân nói chung. Việc lợi dụng sự vận động để có được các chính sách gây
thiệt hại cho lợi ích xã hội, nhất là người được vận động nhận lại tiền, quà từ người
đi vận động thì đó là hành vi tham nhũng, cần phải phòng ngừa.
Tham nhũng trực tiếp và gián tiếp đều có tác hại rất lớn trong tiến trình phát
triển, vì vậy để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, bền vững cần phải tăng
cường hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng.

1.3. Phân tích ROCCIPI của tham nhũng
Mặc dù hiện nay có nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của tham
nhũng, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều thừa nhận: Tham nhũng là một hiện
tượng có tính chất phổ biến của mọi nhà nước, dưới mọi chế độ khác nhau, nó là
căn bệnh của quyền lực. Tham nhũng gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra
đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tham nhũng là nơi gặp gỡ của lòng tham và
quyền lực công, khi quyền lực công không được kiểm soát chặt chẽ.
Tham nhũng ở nước ta hiện nay diễn biến hết sức phức tạp, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để đấu tranh kiên quyết với vấn
nạn này, song tham nhũng chưa thuyên giảm. Để PCTN đạt được hiệu quả như
mong muốn thì phải tìm ra nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng, từ đó đề ra các

biện pháp, giải pháp thực hiện. Cần khẳng định hệ thống pháp luật và cơ chế áp
dụng có ảnh hưởng rất lớn đến tham nhũng. Tình trạng tham nhũng ở một quốc gia
tại một thời điểm xác định phản ánh mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật và
thực trạng áp dụng pháp luật. Nhiều kết quả nghiên cứu đã phân tích, chỉ ra được
một số nguyên nhân dẫn đến tham nhũng trên khía cạnh sau:
1.3.1. Rule: Ở mỗi một quốc gia, mỗi một đất nước đều có một quy tắc, luật chơi
riêng, luật chơi nó sẽ phản ánh năng lực, trình độ quản lý, kiểm soát tham nhũng
của quốc gia đó. Hạn chế hơn các quốc gia hiện đại, Việt Nam chúng ta do tư duy
chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn phảng phất tư duy “truyền thống”,
phong kiến, manh mún, chắp vá, thiếu tính hệ thống dẫn đến thiếu mạnh dạn và
quyết tâm trong việc thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy chính
trị. Giữa đổi mới tư duy chính trị và đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta chưa có sự
đồng bộ, thống nhất cần thiết nên làm tầm thường hóa hệ thống pháp luật.Việc xây


14

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt để, không theo kịp được
trình độ phát triển của hoạt động thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước, để xây dựng, phát triển và bình ổn trật tự xã hội còn nghiêng
về “đức trị”, “nhân trị” mà chưa nghiêng về “pháp trị”. Chính sách thưởng phạt
chưa đủ sức răn đe người phạm tội và khuyến khích người lập công, tố giác tội
phạm.
1.3.2. Oppotunity: Hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa
thỏa đáng, nhất quán và sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế
“xin - cho” còn tồn tạilà nguyên nhân quan trọng, dễ dẫn đến tham nhũng. Đây là
nguyên nhân thường xuyên được đề cập và lặp đi lặp lại nhiều lần trong các phiên
họp của Quốc hội. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: Cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc
sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở, giao tài sản cho nhân viên
nhưng không có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ, gian lận trong công tác để

chiếm đoạt tài sản,... Các thủ tục, quy định của Nhà nước chưa được công khai, rõ
ràng nên Nhân dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo điều kiện cho
cán bộ tham nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản lý, trong công
tác kê khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản và thiếu minh bạch trong các văn
bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải trình của các lãnh
đạocấp cao ở các cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu công khai, minh
bạch mặc dù việc báo cáo vẫn tốt nhưng không thực tế. Hay trong xử lý, chế tài
chưa nghiêm minh, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém.
Pháp luật là công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham nhũng nhưng
pháp luật lại chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho tham nhũng phát triển.
1.3.3. Capacity: Nhìn chung, trình độ dân trí, kể cả quan trí của chúng ta chưa cao
nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia làm chủ, quản lý nhà nước, kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức.
Chưa hình thành được một triết lý giáo dục đủ tầm cỡ, làm trụ cột lâu dài, xuyên
suốt và bền vững trong quá trình phát triển, kể cả giáo dục pháp luật nói riêng.Giáo
dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường chưa
được chú trọng đúng mức. Chúng ta chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ, dân chủ
phải gắn liền với dân trí. Mặc dù chúng ta đã có bước tiến đáng kể về việc ban hành
quy chế dân chủ, song nhìn chung việc thực hiện đưa quy chế vào cuộc sống còn
nhiều hạn chế, khó khăn. Hơn nữa, việc đưa những người thiếu năng lực và thiếu
phẩm chất đạo đức vào các cơ quan nhà nước làm suy thoái hệ thống chính trị và


15

làm cho tình trạng tham nhũng ngày càng phát triển.Chủ thể thực hiện hành vi tham
nhũng là người có chức vụ, quyền hạn và chủ thể chống tham nhũng vẫn là những
người ấy vì vậy hiệu quả và sự chuyển biến sẽ không cao.
1.3.4. Communication: Hiểu biết về các quy tắc, chuẩn mực cũng là nguyên nhân
quan trọng hằng đầu. Do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của

một bộ phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm muốn giải quyết công việc giải
quyết một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất là “thủ tục đầu tiên”, đây là nguyên nhân
thúc đẩy tham nhũng. Ngoài ra, còn dùng hối lộ, quà cáp như một hình thức để tạo
thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản thân lẫn người
thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vô tình làm cho không ít
cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng này kéo dài làm xuất hiện tư
tưởng gây khó dễ ở cán bộ, công chức để nhận “phong bì” từ dân mới giải quyết
công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ tục tất yếu trong quá trình xử lý công
việc. Bởi vậy, một số cán bộ, đảng viên khi có quyền lực đã đem địa vị, quyền hành
ra để “mặc cả” và cho rằng “muốn ăn chân giò phải thò chai rượu”. Vô hình trung
điều này tạo nên một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán bộ công chức
và cả những người muốn dùng tiền để giải quyết công việc, dần dần hình thành nên
“văn hóa phong bì”.
1.3.5. Interest: Nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham của
con người. Lợi ích cá nhân trong nền kinh tế thị trường được coi trọng và động lực
tìm kiếm lợi nhuận tối đa của giới kinh doanh luôn được ủng hộ. Một số nhà kinh
doanh muốn có cơ hội tốt từ nhà nước nên tìm mọi cách hối hộ, mua chuộc cán bộ,
công chức. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước tham gia giữ vai trò điều tiết,
quản lý nền kinh tế. Tạo được mối quan hệ thân thiện với các cơ quan nhà nước, các
doanh nghiệp sẽ có được lợi thế trong vận động chính sách cũng như trong chiếm
lĩnh thị trường nhà nước. Đây còn là cơ hội để cán bộ, công chức có thể sử dụng
quyền lực ban hành chính sách hay quyết định những vấn đề có lợi hay không có lợi
cho một nhóm lợi ích nào đó. Để đảm bảo việc có lợi cho mình, doanh nghiệp
thường dùng tiền vận động hành lang, cán bộ, công chức lợi dụng tác động của
chính sách trục lợi doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố cạnh tranh khóc liệt luôn hiện hữu, giá
trị của đồng tiền làm cho người sản xuất loá mắt dẫn đến bất chấp tiêu chuẩn đạo
đức, họ luôn tìm mọi cách để tối đa hoá lợi nhuận vì vậy gia tăng áp lực hối lộ đối
với cán bộ, công chức là lẽ đương nhiên. Sự phân hoá giàu nghèo cũng rõ rệt, các



16

giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người bị sức ép của việc kiếm thật nhiều tiền, dẫn đến
tâm lý chung tất cả mọi vấn đề đều có thể mua bán, từ đó rất dễ đẩy cán bộ, công
chức vào con đường tham nhũng để có cuộc sống vật chất tốt hơn.
Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái; công tác
quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Trước tác động của mặt trái của
cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã
có những hành vi phạm pháp, không giữ được đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm,
chính”. Có thể thấy rõ sự đi xuống về đạo đức, phẩm chất chính trị của một bộ phận
cán bộ, đảng viên qua đánh giá trong các văn kiện của Đảng. Tháng 6-1996, Đại hội
Đảng lần thứ VIII chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu
dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm ý chí, kém ý thức tổ chức
kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống”2. Tháng 6-1997, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII nhận định: “một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến
chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu
bất chính, lãng phí của công, quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng, độc đoán”, “đáng
chú ý là những biểu hiện tiêu cực này có chiều hướng phát triển làm xói mòn bản
chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng, làm
suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ”3.Tháng 1-1999, Hội nghị lần thứ
sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII nhận định: “Sự suy thoái
về tư tưởng, chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận
cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn"4. Ngày 21-8-2006,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X nhận
định: “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công
chức nói riêng còn nhiều yếu kém. Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công
chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu
gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh

chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”.

2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.137.

3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 1997, tr.68.
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Khoá VIII, Nxb. Chính

trị quốc gia, 1999, tr.24.


17

1.3.6. Process: Theo tác giả luận văn, những hạn chế, yếu kém, bất cập trong các
quy trình sau sẽ là nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tham nhũng: Quy trình lập
pháp (ban hành văn bản điều chỉnh hành vi), hành pháp (thực hiện quy định về
phòng, chống tham nhũng), tư pháp (xử lý hành vi tham nhũng), hoặc các biện pháp
giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của chủ thể có
liên quan.
Thực tế, quy trình lập pháp của chúng ta còn những hạn chế đáng kể.Thứ
nhất, do quan điểm, nhận thức thiếu tính toàn diện, văn bản pháp luật khi được ban
hành thiếu đồng bộ, chặt chẽ, phạm vi, đối tượng điều chỉnh chưa bao quát. Ví dụ
như quy định về minh bạch tài sản trong pháp luật về PCTN chỉ một số đối tượng,

không bao hàm tất cả cán bộ, công chức, viên chức, như vậy quá trình thực thi khó
kiểm soát. Thứ hai, cơ quan được phân công soạn thảo thường thiếu ý thức khách
quan, mang đậm nét tư duy cục bộ, lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân, nghiêng về lợi ích
ngành, lĩnh vực quản lý mình, chưa có cái nhìn tổng thể của vấn đề. Thứ ba, quy
trình soạn thảo, thẩm định, trình bàn hành còn nhiều khâu, nhiều nấc, có những đạo
luật để kéo dài nhiều tháng, nhiều năm mới được thông qua; việc sai sót trong văn
bản pháp luật khi được thông qua vẫn còn xảy ra. Thứ tư, các luật khi ban hành cần
phải có văn bản dưới luật để hướng dẫn việc thực hiện.
Quy trình thực hiện quy định về PCTN còn có sự chồng chéo, thiếu tính
đồng bộ, khả thi. Chẳng hạn như Nghị định 158/2007/NĐ-CP, ngày 27-10-2007 của
Chính phủ quy định danh mục vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí
công tác đối với cán bộ công, chức, viên chức và Nghị định số 150/2013/NĐ-CP,
ngày 01-11-2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
158/2007/NĐ-CP trên thực tế tính khả thi không cao. Chức năng, nhiệm vụ của
nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham nhũng chưa rõ ràng, thậm chí
chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu. Hay thực hiện quy định về
khen thưởng người tố giác tham nhũng mỗi nơi thực hiện một kiểu. Ở lĩnh vực này,
nguyên nhân, điều kiện của tham nhũng rõ nét nhất đó là chủ thể chỉ đạo và tổ chức
thực hiện PCTNcũng là người có điều kiện nhất để tham nhũng, họ là những người
có chức vụ quyền hạn, vì vậy việc phát hiện tham nhũng qua tự kiểm tra, giám sát
trong nội bộ cơ quan rất ít; bởi nếu tích cực kiểm tra, phát hiện tham nhũng trong
nội bộ, thì có thể phải đối mặt với việc bị xử lý trách nhiệm hoặc ảnh hưởng đến uy
tín, thành tích của bản thân và đơn vị.Liên quan đến vấn đề người đứng đầu, báo
cáo của Chính phủ cho biết: Số người đứng đầu bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra


×