Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – MỘT ĐỘNG LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.33 KB, 117 trang )

TIỂU LUẬN:

PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO –
MỘT ĐỘNG LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRI THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Đó là địi hỏi tất yếu, khách
quan của sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Trong kinh tế tri thức,
tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất, là lợi thế của cạnh tranh, là chất lượng của
nguồn nhân lực, là sức mạnh của nội lực và là sức hút chủ yếu của ngoại lực. Chất
lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải thông qua giáo dục và đào tạo mới có
được. Do vậy, nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người
Việt Nam trên cơ sở phát triển giáo dục và đào tạo là động lực của sự phát triển kinh
tế tri thức, là vấn đề có ý nghĩa sống cịn trước xu thế tồn cầu hố.

Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế
tri thức là xu thế tất yếu trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển kinh tế tri
thức tạo nên bước đột phá trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và đó cũng
chính là cách thức để chúng ta “rút ngắn” quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hóa.
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, để tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế tri thức, chúng ta nhất thiết phải quan tâm đến phát triển giáo dục và đào tạo.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức đã đánh dấu bước phát triển từ nền văn
minh cơng nghiệp sang nền văn minh trí tuệ; từ việc phát triển sản xuất chủ yếu dựa
vào lao động và cơ bắp với nguồn tài nguyên thiên nhiên sang chủ yếu dựavào tri
thức; từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. Điều đó địi hỏi sự phát triển cao
của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là do con người quyết
định. Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì con người là yếu tố năng
động nhất. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách chủ thể sử dụng


các yếu tố của lực luợng sản xuất và đóng vai trị là trung tâm của sự phát triển. Con
người có được tư cách và vai trị đó là do tri thức quyết định. Tri thức luôn thúc đẩy


sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất của con người.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, tri thức con người ngày càng chiếm vị trí quan
trọng, đặc biệt là trong nền kinh tế hiện đại - kinh tế tri thức. Nền sản xuất càng phát
triển thì yếu tố trí tuệ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với các yếu tố khác trong cơ
cấu giá trị của sản phẩm lao động. Ngày nay, hơn bao giờ hết, tri thức con người đã
trở thành yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh cũng như sự phát triển của mỗi quốc
gia; tri thức được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu chi phối các nguồn lực khác, là
động lực làm tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế bền vững. Phát triển
kinh tế nói chung và kinh tế tri thức nói riêng phải dựa chủ yếu vào tri thức và nguồn
nhân lực có trí tuệ chứ khơng thể khác được. Tri thức ngày càng đóng vai trị quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, cần phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tri thức con người khơng phải tự nhiên mà có; trái lại, phải thơng qua giáo dục và
đào tạo mới có được. Chức năng của giáo dục và đào tạo là biến những giá trị văn
hóa của xã hội thành tài sản của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Từ những tài sản
riêng đó, mỗi người lại góp phần nhân lên những tài sản văn hóa của xã hội, nâng
cao trình độ trí tuệ cho cả cộng đồng. Chính vì thế mà có thể nói rằng, giáo dục và
đào tạo là khn đúc con người, là nguyên nhân trực tiếp quyết định chất lượng
nguồn lực con người, là nguyên nhân sâu xa làm gia tăng hàm lượng chất xám trong
cơ cấu giá trị sản phẩm của lao động. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển
nguồn lực con người là yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố hố, hiện đại hoá phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đó là địi hỏi tất
yếu để chúng ta đi tắt, đón đầu và phát triển theo phương thức “rút ngắn”. Chúng ta
tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi mà nhiều nước trên thế giới đã

có nền kinh tế tri thức phát triển, vì thế khơng nhất thiết phải trải qua các bước tuần
tự từ kinh tế nông nghiệp lên công nghiệp, rồi từ kinh tế công nghiệp mới phát triển
kinh tế tri thức; mà trái lại, chúng ta có thể đi thẳng vào kinh tế tri thức. Trong điều
kiện hiện nay, chỉ có thể đi thẳng vào kinh tế tri thức khi giáo dục và đào tạo được
tiếp tục đổi mới, phát triển.


Phát triển kinh tế tri thức được thúc đẩy bởi giáo dục và đào tạo. Sở dĩ như vậy là vì,
giáo dục và đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động đến việc nâng cao trí tuệ, nâng
cao sự hiểu biết và vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất của con
người. Trong thời đại ngày nay, giáo dục và đào tạo là con đường tốt nhất để con
người luôn luôn tiếp cận kịp thời những thông tin mới nhất, cập nhật, làm giàu thêm
nguồn tri thức và năng lực sáng tạo của mình; chỉ có thơng qua giáo dục và đào tạo
mới tạo dựng, động viên và phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội, trước
hết là nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, muốn tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế tri thức phải chấn hưng giáo dục và đào tạo. Chấn hưng
giáo dục và đào tạo là bí quyết để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức
Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao động nâng cao trình độ học vấn, cách ứng
dụng và sáng tạo cơng nghệ tốt hơn. Chính vì vậy, giáo dục và đào tạo là yếu tố quan
trọng tạo nên sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đảm bảo sự phát triển kinh tế xã hội bền vững cũng chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức. Trong
kinh tế tri thức, tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất; sự tăng trưởng của kinh tế là
do tích lũy tri thức đem lại. So với các yếu tố khác của sản xuất, tri thức khi tham gia
vào q trình sản xuất, nó khơng những khơng bị hao mịn, cạn kiệt, mà cịn ln
được nâng cao. Khi chia sẻ và chuyển giao tri thức cho người khác, người sở hữu tri
thức vẫn giữ nguyên tri thức của mình. Theo đó, nguồn vốn tri thức - yếu tố chủ yếu
của sản xuất - được tăng gấp bội và sử dụng một cách hiệu quả nhất, tạo động lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tri thức được tăng gấp bội và sử dụng
một cách có hiệu quả là nhờ giáo dục và đào tạo. Chính trên ý nghĩa đó mà giáo dục
và đào tạo trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức.
Nguồn lực để tăng truởng kinh tế của mỗi quốc gia bao gồm nguồn lực con người,

nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học và cơng nghệ, nguồn lực tài nguyên, trong
đó, nguồn lực con người đóng vai trị quyết định. Trong kinh tế tri thức, nguồn lực
con người phải là nguồn lực có tri thức khoa học. Tri thức trở thành nguồn vốn quý
nhất, trở thành lợi thế cạnh tranh to lớn nhất trong kinh tế tri thức. Đây chính là điểm
khác biệt của nguồn lực con người trong kinh tế tri thức so với nguồn lực con người
trong các nền kinh tế khác. Nếu trong các nền kinh tế trước đây, quá trình cải tạo
cơng cụ lao động hiện có, sáng tạo ra những công cụ lao động mới nhằm đạt năng


suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao trong sản xuất chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm, thì giờ đây, q trình đó chủ yếu dựa vào tri thức.
Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, của
sự phát triển của mỗi quốc gia, thì giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết
định nguồn lực con người, là nền tảng của chiến lược con người. Suy đến cùng, chất
lượng của nguồn lực con người được quyết định bởi chất lượng của giáo dục và đào
tạo. Vì chất lượng của nguồn lực con người là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, nên
việc chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo là chăm lo cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Với tư cách là động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức, giáo dục và đào tạo chuẩn
bị con người phát triển cao về trí tuệ, về tay nghề, về kỹ năng và kỹ xảo.Hơn nữa,
giáo dục và đào tạo còn giúp chúng ta phát huy nội lực - trình độ trí tuệ dân tộc. Hàm
lượng trí tuệ trong lao động do giáo dục và đào tạo mang lại là cái làm cho con người
trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận để
phát triển kinh tế tri thức. Và, chính sự phát triển của kinh tế tri thức đã làm cho tri
thức trở thành nguồn lực duy nhất tạo ra lợi thế so sánh dài hạn, trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Tri thức là xương cốt của nền kinh tế hiện đại - nền kinh tế tri
thức. Song tri thức chỉ được thực hiện thông qua kỹ năng của cá nhân. Do vậy, giáo
dục và đào tạo là yếu tố “đầu vào” của sản xuất, “tầm nhìn xa” cho đất nước, cho dân
tộc là tầm nhìn ở giáo dục; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.
Chính trên những ý nghĩa đó mà giáo dục và đào tạo trở thành động lực cho sự phát

triển kinh tế tri thức
Ngày nay, giáo dục và đào tạo đã trở thành bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã
hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính
trị, văn hố đến quốc phịng và an ninh. Do đó, để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
tri thức và tạo đà cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, giáo dục và
đào tạo nước ta khơng có con đường nào khác là phải có chiến lược phát triển đúng
đắn, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu trong quá trình sản xuất của xã hội, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta và xứng tầm thời đại.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là một
quá trình tất yếu, khách quan đối với nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội


trong điều kiện tồn cầu hố và hội nhập quốc tế. Q trình đó đang địi hỏi giáo dục
và đào tạo không chỉ cung cấp đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu nguồn nhân lực,
mà quan trọng hơn là chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu
tố đóng vai trị quyết định thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Chất lượng
nguồn nhân lực bao gồm thể lực, trí tuệ, nhân tố tinh thần, quan hệ xã hội, trong đó,
trí lực là yếu tố quan trọng nhất. Chỉ có sự phát triển của nguồn nhân lực có chất
lượng cao thì mới nâng cao được năng lực cạnh tranh, nâng cao được chất lượng và
hiệu quả của sản xuất, kinh doanh và đổi mới cơng nghệ… Từ đó, mới có thể rút
ngắn được q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Trong những năm qua, giáo dục và đào tạo ở nước ta đã có những chuyển biến tích
cực và góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó
vẫn cịn những tồn tại, bất cập. Sau nhiều năm đổi mới, “chất lượng giáo dục và đào
tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục”(1). Tính độc lập,
sáng tạo trong tư duy và kỹ năng thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu; giáo dục
chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế, chưa theo kịp xu thế tồn cầu hố
và xu thế cạnh tranh ngày càng quyết liệt, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống
kinh tế hiện đại. Xuất phát từ thực trạng này, để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế
một cách hợp lý và bền vững trong điều kiện hiện nay và cả trong những năm tới, tại

Hội nghị Trung ương 9, khoá X, Đảng ta đã xác định: “Tập trung nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo toàn diện, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(2).
Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược. Khâu trung gian để thực hiện vấn đề này chính là sự phát triển
của giáo dục và đào tạo. Phát triển giáo dục và đào tạo là tạo nền tảng vững chắc cho
sự tăng trưởng kinh tế. Phát triển giáo dục và đào tạo là nhằm phát triển nguồn lực
con người, giải phóng nguồn lực con người, là “quốc sách hàng đầu”, là chiến lược
được ưu tiên phát triển.
Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, sự bùng nổ của
cơng nghệ thơng tin, kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục và đào tạo ở nước ta phải
trở thành nền tảng, thành động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố,


hiện đại hoá đất nước và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực quyết định trong
việc sử dụng các nguồn lực khác, như nguồn tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên
và khoa học, kỹ thuật.
Mục tiêu mà chúng ta đề ra là vào năm 2010, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước
cơng nghiệp đạt trình độ trung bình trong khu vực và đến năm 2020, nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu này đang đòi hỏi chúng
ta vừa phải khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
vừa phải tranh thủ sự hợp tác và ủng hộ quốc tế, đặc biệt là của những nước có trình
độ phát triển cao về lực lượng sản xuất và trình độ khoa học tiên tiến để đi thẳng vào
công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức. Điều kiện để giải quyết đồng thời hai nhiện vụ
này là phát triển giáo dục và đào tạo.
Không có nguồn nhân lực chất lượng cao, chúng ta khơng thể đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Thực tế hiện nay cho thấy rằng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh
tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất có nhiều yếu tố, nhưng trong đó, khoa học
và cơng nghệ, trí tuệ và chất xám là yếu tố đóng vai trị quan trọng nhất. Vì thế, nâng

cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam vừa là một trong
những động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế tri thức, vừa là mục đích của sự
phát triển kinh tế tri thức. Phát triển nguồn nhân lực phải hướng đến phục vụ cho sự
phát triển của sản xuất. Còn phát triển kinh tế tri thức nhằm tạo điều kiện, phương
tiện cho giáo dục và đào tạo; nâng cao mức sống, mở rộng khả năng lựa chọn, làm
tăng năng lực trí tuệ, khả năng sáng tạo và tạo cơ hội học tập cho con người, giúp
cho con người biến ý tưởng của mình thành hiện thực. Như vậy, giáo dục - đào tạo
và kinh tế ln có quan hệ gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chỉ có
trên cơ sở gắn với nhu cầu phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tri thức nói riêng,
giáo dục mới có nội dung và sinh khí để phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, phát triển giáo dục và đào tạo được coi là bí quyết của
thành cơng, là con đường ngắn nhất để đi tắt, đón đầu trong cơng cuộc cơng nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Vấn đề đặt ra là phát triển giáo dục và đào tạo như thế
nào để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế tri thức. Phải chăng, phát triển giáo dục và
đào tạo phải vừa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, vừa phải chú
trọng đến xu hướng hiện đại, cập nhật với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đáp ứng


yêu cầu này, chúng ta cần phải “xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, dân tộc, độc lập
và chủ nghĩa xã hội”(3).
Bản chất của giáo dục là sáng tạo. Giáo dục phải vì cuộc sống và sáng tạo. Sáng tạo
là thành tố cốt lõi của tri thức. Con người được giáo dục và biết tự giáo dục sẽ có khả
năng giải quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả những vấn đề do sự phát triển của
kinh tế tri thức đặt ra. Năng lực sáng tạo của con người là vơ tận, nhưng năng lực đó
chỉ được khơi dậy và phát huy thông qua giáo dục và đào tạo.
Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế, giáo dục và đào tạo được
coi là lợi thế, là sự kiến lập nền tảng tốt nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh. Năng
lực cạnh tranh của một đất nước được xác định trước hết và chủ yếu là chất lượng
nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng trở thành một lợi thế so sánh
có giá trị ngày càng cao. Đó là một xu hướng tất yếu trong quá trình đẩy nhanh tốc

độ phát triển kinh tế. Do vậy, có thể nói, thực chất cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa
các quốc gia hiện nay là cạnh tranh trong giáo dục và đào tạo. Một dân tộc hiếu học
và biết học hỏi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, là một dân tộc mạnh, dân
tộc đó sẽ gặt hái thành cơng trên bước đường phát triển, sẽ bước tới đài vinh quang
để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Sáng tạo bao giờ cũng đi liền với cải cách, đổi mới, chủ động, tích cực và phù hợp
với thực tế khách quan. Mọi sự trì trệ, bảo thủ, lạc hậu, ỷ lại, rập khn máy móc bao
giờ cũng trái ngược với sáng tạo. Để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người
Việt Nam, tất yếu phải đổi mới và cải cách giáo dục; phải xây dựng một nền giáo dục
tiên tiến, dân tộc, độc lập tự chủ. Đó chẳng những là yêu cầu để phát huy nguồn lực
con người Việt Nam nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức, mà còn là yêu cầu nội
tại của giáo dục và đào tạo. Là động lực của sự phát triển kinh tế tri thức, giáo dục và
đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu đổi mới, sáng tạo và sự chuyển hoá linh hoạt của
quá trình phát triển sản xuất. Muốn vậy, giáo dục và đào tạo phải hướng vào việc
phát huy tính tích cực và năng lực sáng tạo của con người, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rập khn máy móc. Sáng tạo là cơ sở để phát triển kinh tế tri thức. Giáo
dục và đào tạo phải hướng đến việc tạo lập cơ sở đó.
Nguồn nhân lực dồi dào nhưng nếu chưa được giáo dục và đào tạo là nguồn nhân lực
chất luợng thấp. Chất lượng nguồn nhân lực thấp không chỉ dẫn đến năng suất lao


động thấp, mà cịn hạn chế khả năng tìm kiếm việc làm, khả năng chuyển dịch cơ cấu
nguồn nhân lực theo hướng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, làm cho lợi
thế về mặt số lượng trở thành bất lợi và thụ động trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chất
lượng nguồn nhân lực thấp sẽ là nguy cơ nghiêm trọng nhất đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Hạn chế này chỉ có thể khắc phục được bằng cách dành ưu tiên hàng
đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Do vậy, có thể nói, nâng cao chất
lượng dạy và học là một yếu tố quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
là điều kiện và động lực để phát triển kinh tế tri thức.
Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế

hợp lý, bền vững trong những năm tới đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng
toàn diện, tăng cường các nguồn lực cho giáo dục, khuyến khích mọi người học tập.
Trong thời đại kinh tế tri thức, học tập được coi là sự chuẩn bị tốt nhất cho sự phát
triển của tương lai, học chẳng những để biết, để làm, để thích nghi, để tự khẳng định
mình, mà còn được coi là của cải nội sinh của mỗi người. Hiện nay, xã hội nào càng
có nhiều người đi học thì xã hội đó phát triển càng nhanh. Vì thế, chúng ta cần phải
chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình xã hội học tập với hệ thống học
tập suốt đời, đào tạo liên tục.
Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm tăng sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngồi.
Để có cơng nghệ mới và hiện đại thì con đường ngắn nhất là hợp tác, liên doanh với
nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngồi ln có xu hướng áp dụng những cơng nghệ
có hàm lượng chất xám cao để tăng năng suất lao động. Do vậy, một đất nước có
nguồn nhân lực được đào tạo tốt, có năng lực phù hợp với xu hướng phát triển của
kinh tế trong điều kiện toàn cầu hố sẽ nhanh chóng nắm bắt và triển khai ứng dụng
những kỹ thuật mới nhất, tiên tiến nhất và hiện đại nhất. Nguồn nhân lực đó chẳng
những tận dụng được tiềm năng của đất nước, tranh thủ được cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra, mà còn tạo ra lợi thế để đi thẳng vào kinh tế tri thức, thu hút đầu
tư nước ngoài nhằm tăng thêm nguồn lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước
Trình độ của lực lượng sản xuất được đánh giá bởi trình độ nguồn nhân lực, trình độ
trang bị kỹ thuật cho sản xuất. So với nhiều nước trên thế giới, trình độ của lực lượng
sản xuất ở nước ta cịn thấp. Để đẩy nhanh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát


triển kinh tế tri thức, chúng ta phải thực hiện đồng thời phát triển giáo dục và đào tạo
với phát triển khoa học và cơng nghệ.
Như vậy, có thể nói, giáo dục và đào tạo không chỉ làm tăng hàm lượng chất xám và
nguồn vốn tri thức trong quá trình sản xuất, làm tăng chất lượng nguồn nhân lực, mà
còn tạo cơ sở để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao năng lực
cạnh tranh và hiệu quả của sản xuất, kinh doanh. Không chỉ thế, giáo dục và đào tạo

còn làm tăng hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực trong xã hội; gia tăng tính bền
vững trong q trình phát triển kinh tế; nâng cao tính tích cực và năng lực sáng tạo
của con người, tạo cơ sở để giải quyết việc làm, chuyển đổi ngành nghề, chuyển dịch
cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế; tăng tính thích nghi của nguồn lực con người và
tính linh hoạt của nền kinh tế trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt; tăng
sức hút đối với các nguồn lực bên ngoài; tăng sức mạnh nội lực và tính hiệu quả
trong việc chủ động hội nhập quốc tế. Tất cả những điều này đã tạo động lực cho sự
phát triển kinh tế tri thức. Do vậy, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, để đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức, chúng ta phải phát
triển giáo dục và đào tạo để giải phóng và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất và lấy đó làm khâu đột phá cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không chỉ
trong giai đoạn hiện nay, mà còn cho cả những năm tiếp theo./.

(*) Tiến sĩ, Giám đốc Trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.170.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương khố X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.180.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.181.

VẤN ĐỀ DÂN SINH TRONG ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ VÀ Ý NGHĨA
THỜI ĐẠI CỦA NÓ


TRẦN NGUYÊN VIỆT (*)
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử lớn của Việt Nam, ghi chép lại những sự kiện
lịch sử của gần 3000 năm (từ thời Hồng Bàng đến năm 1675). Đây cũng chính là kho
dẫn chứng dồi dào cho vấn đề dân sinh của bài viết này. Trong bài viết này, vấn đề
dân sinh được tác giả xem xét trong ba lĩnh vực: đời sống sản xuất vật chất xã hội,
chính trị - xã hội và đời sống tinh thần của xã hội. Theo tác giả, nhiều triều đại

phong kiến trong lịch sử Việt Nam đã ban hành và thực thi các chính sách dân sinh
và an sinh xã hội, thậm chí khái niệm dân sinh cũng đã xuất hiện trong bộ sử ký này.
Cuối cùng, tác giả chỉ ra bài học quý giá từ vấn đề dân sinh trong lịch sử đối với
giai đoạn phát triển hiện nay ở Việt Nam.

Vấn đề dân sinh trong lịch sử phát triển của nhân loại, về thực chất, là vấn đề chính
trị được đại đa số các quốc gia trên thế giới quan tâm. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn
đề này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trước hết là chủ trương và chính sách của giai
cấp thống trị, sau đó đến các tổ chức xã hội khác hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác
nhau tạo thành chỉnh thể của một quốc gia. Xét về lơgíc hình thái, khái niệm “dân
sinh” có nội hàm rộng hơn khái niệm “an sinh xã hội”; bởi khái niệm thứ hai mang
tính cấp thiết nhất thời, nó được dùng để chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những
thành viên của mình bằng một loạt những biện pháp cơng cộng, nhằm chống đỡ sự
hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, v.v.. Khái niệm dân sinh
bao hàm không chỉ những vấn đề của an sinh xã hội, mà còn cả vấn đề bảo vệ sự ổn
định đời sống lâu dài của nhân dân thông qua những chính sách, chủ trương được
luật pháp hóa.
Xuất phát từ tính cấp thiết mà Đảng và Chính phủ ta đặt ra hiện nay về vấn đề tam
nông (nông dân, nông nghiệp và nông thôn), chúng tôi muốn truy xét vấn đề dân sinh
theo dịng lịch sử, xem nó đã từng được các triều đại phong kiến Việt Nam nêu và
giải quyết như thế nào qua bộ sử quan trọng của nước ta là Đại Việt sử ký toàn
thư. Sở dĩ chúng tôi coi vấn đề dân sinh trong lịch sử ln gắn liền với nơng dân vì
nước ta là một nước nơng nghiệp. Ở đó, nơng dân là lực lượng dân cư luôn chiếm
gần 80% dân số cả nước, ln đóng vai trị quan trọng trong lịch sử xây dựng và bảo


vệ Tổ quốc. Thêm nữa, đến nay, nền kinh tế nước ta vẫn coi nơng nghiệp là chủ đạo
và vì vậy, có thể nói, vấn đề dân sinh trong Đại Việt sử ký toàn thư, về thực chất, là
vấn đề “tam nông” trong lịch sử đất nước cần được nghiên cứu.

Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử lớn, ghi chép lại các sự kiện từ thời Hồng Bàng
đến năm Ất Mão (năm 1675), tức là đến đời vua Gia Tông nhà Lê. Như vậy, xét về
sử biên niên, bộ sử này đã ghi chép lại những sự kiện của gần 3000 năm; trong đó,
đáng để chúng ta chú ý nhất là từ thời kỳ đất nước giành được độc lập năm 938 đến
thời Lê Trung Hưng (năm 1675). Trong thời kỳ đó, việc xây dựng Nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền Việt Nam (từ thời Lý, Trần đến thời Lê Trung Hưng) đã ít
nhiều gắn liền với việc củng cố mối quan hệ quân - dân mà ở đó, vấn đề dân sinh
ln được các triều đại phong kiến chú ý. Mặc dù thước đo thịnh trị của bất kỳ triều
đại phong kiến nào cũng lấy tiêu chuẩn lòng dân - ý trời làm cơ sở, song vấn đề dân
sinh lại phụ thuộc vào khâu trung gian thực hiện các tiêu chuẩn đó là “thiên tử”, còn
bộ máy thống trị quan liêu núp dưới chiêu bài “phụ mẫu của dân” có trách nhiệm
thay trời “giáo hóa dân và trị vì thiên hạ”. Chính vì vậy, như chúng tơi đã đề cập ở
trên, việc phân tích dựa trên các nguyên tắc của triết học xã hội để làm sáng tỏ vấn
đề dân sinh qua từng giai đoạn lịch sử được nêu trong Đại Việt sử ký toàn thư là cần
thiết, qua đó chỉ ra ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước “của dân,
do dân và vì dân” ở Việt Nam hiện nay.
Để làm rõ hơn khái niệm dân sinh từ góc độ triết học xã hội, chúng tôi cho rằng,
không thể bỏ qua việc phân tích các lĩnh vực đời sống xã hội. Thứ nhất, đó là lĩnh
vực đời sống sản xuất vật chất xã hội, mà mục đích cao nhất của nó là thỏa mãn các
nhu cầu vật chất với tư cách cơ sở phổ biến về tính tất yếu trong hoạt động lao động
của con người. Con người khác với động vật trong hoạt động nhằm thỏa mãn các nhu
cầu vật chất ở chỗ, nó khơng thể giản đơn sử dụng những cái có sẵn trong tự nhiên
như động vật, mà phải cải tạo, chế biến các sự vật tự nhiên, như C.Mác viết: “việc
tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự khẳng
định của con người với tư cách là một sinh vật có tính lồi có ý thức, nghĩa là một
sinh vật đối xử với loài như với bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân
mình như với một sinh vật có tính lồi”(1).
Tính chất của việc chế tác sự vật từ giới tự nhiên để đảm bảo cuộc sống của con



người cũng thay đổi theo quá trình lịch sử, tùy thuộc vào sự phát triển về nhiều mặt
trong đời sống xã hội. Khả năng cải tạo tự nhiên theo chiều hướng tích cực dần dần
làm cho con người ít bị lệ thuộc vào tự nhiên hơn, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp
đã đáp ứng đáng kể nguồn lương thực cho con người hiện nay. Tuy nhiên, nếu xét
lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất cách đây khoảng 2000 năm ở nước ta - một
nước nông nghiệp lúa nước vốn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, vấn đề dân sinh
lúc đó ln là vấn đề phức tạp, địi hỏi không chỉ sự cần cù, sáng tạo của người nơng
dân, mà cả chính sách cụ thể của Nhà nước về an sinh xã hội trong những trường hợp
rủi ro do thiên tai gây ra, cũng như những biện pháp liên quan đến sản xuất nơng
nghiệp. Các chính sách ấy đã được ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Trước hết, chúng tôi đề cập đến vấn đề an sinh xã hội. Đây là vấn đề quan trọng, bởi
có thể xem nó là thước đo tính đúng đắn trong đường lối trị nước của mỗi triều đại
phong kiến Việt Nam. Như ở trên chúng tơi đã nói, nền nơng nghiệp lúa nước của Việt
Nam trong lịch sử (thậm chí cả trong giai đoạn hiện nay) bị chi phối đáng kể bởi các yếu
tố tự nhiên. Đặc biệt, những vấn đề tự phát, tự nhiên luôn là mối đe dọa đến sinh mệnh
của người dân và điều đó hầu như xảy ra thường xuyên, buộc nhà nước phải có các biện
pháp cứu trợ, từ việc giảm thuế đến trợ cấp lương thực, thuốc men.
Ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) đã thực hiện việc xá thuế cho
nhân dân. Điều này ông làm không phải để cứu trợ cho dân trong hồn cảnh khó
khăn do thiên tai gây ra, mà thể hiện sự thông cảm với cuộc sống đang rất khó khăn
của nhân dân. Đại Việt sử ký tồn thư chép: “Mùa Đơng, tháng 12… đại xá thuế cho
thiên hạ 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thốn đã lâu, đều tha
cho cả”(2).
Sang thời Trần, sử chép: “Canh Dần năm thứ 6 (1290), đói to, 3 thăng gạo trị giá 1
quan tiền, nhân dân nhiều người phải bán ruộng đất và bán con trai con gái làm nô tỳ
cho người khác, một người trị giá 1 quan tiền. Xuống chiếu phát thóc công để chẩn
cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh”(3). Thậm chí, sự cứu trợ bằng thóc cơng
cũng khơng đủ, triều đình phải kêu gọi những nhà giàu đem thóc ra cứu dân. Thời
Trần Dụ Tơng hồng đế (Mậu Tuất), sử chép: “Đại Trị năm thứ 1 (1358). Từ tháng 3
cho đến mùa thu tháng 7, đại hạn và sâu ăn lúa; cá chết nhiều. Mùa thu, tháng 8,

xuống chiếu khuyên các nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo, quan


tư sở tại tính xem số thóc đã qun ra bao nhiêu trả lại bằng tiền”(4). Nhà nước cịn
khuyến khích việc đó bằng cách ban tước phẩm cho những người dâng thóc để phát
chẩn cho dân nghèo (năm 1361).
Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép nhiều sự kiện tương tự ở thời nhà Lê (từ Lê Sơ
đến Lê Trung Hưng), Nhà nước trợ cấp cho dân trong trường hợp thiên tai, mất mùa,
dẫn đến đói kém trong thiên hạ. Tuy nhiên, đó chỉ là những giải pháp cần kíp trước
mắt, cịn về lâu dài, các triều đại phong kiến Việt Nam chú ý tới lĩnh vực tổ chức sản
xuất vật chất của xã hội.
Trước hết, chúng tôi muốn nói đến tinh thần làm gương của các quân vương qua việc
cày ruộng tịch điền, tức là loại ruộng riêng của cung đình. Sử chép: “Đinh Hợi năm
thứ 8 (987) (Tống, Ung Hy năm thứ 4). Mùa xuân, vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở
núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải, được một chĩnh nhỏ bạc, vì
thế đặt tên là ruộng Kim Ngân”(5). Nhâm Thân năm thứ 5 (1032), Vua Lý Thái Tông
“đến Tín Hương ở Đỗ Động giang cày ruộng tịch điền; nơng dân dâng một cây lúa
chiêm có chín bơng thóc. Xuống chiếu đổi ruộng ấy làm ruộng ứng Thiên”(6). Năm
Bính Thìn (1316), vua Trần Minh Tơng cịn sai tể thần, tôn thất cùng các quan gặt
ruộng tịch điền(7). Như vậy, các ơng vua nói trên và những ơng vua khác trong lịch
sử Việt Nam đã nêu gương tốt qua việc cày ruộng tịch điền, một mặt, để khích lệ tinh
thần lao động của nhân dân, mặt khác, thể hiện tinh thần trọng nơng, trọng dân, phần
nào đó muốn xóa đi sự cách biệt giữa quân và dân. Điều đó chứng tỏ rằng, nhiều
quân vương trong lịch sử Việt Nam có quan niệm khác với mẫu người lý tưởng của
Nho gia theo tinh thần Khổng Mạnh (ở đó, các nhà sáng lập Nho gia thể hiện tư
tưởng về sự cách biệt giữa kẻ cầm quyền với người lao động, thậm chí cịn cho rằng,
người làm ruộng, làm vườn (lão nơng) là kẻ tiểu nhân, là kẻ lao lực (kẻ bị trị) phải
làm ra của cải để nuôi kẻ lao tâm (kẻ thống trị)).
Ngồi việc nêu gương nói trên, các qn vương trong lịch sử còn chú trọng đến việc
đẩy mạnh sản xuất nơng nghiệp, quyết khơng để xảy ra tình trạng dân đói khổ.

Chẳng hạn, vua Lê Thánh Tơng năm Tân Tỵ, Quang Thuận năm thứ 2 (1461), tháng
3, đã chỉ huy cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xã rằng: “Từ nay về sau, về việc làm
ruộng thì nên khuyên bảo quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn mặc,
không nên bỏ nghề gốc theo nghề ngọn, cùng là giả thác buôn bán, kỹ thuật, chơi bời


dơng dài, người nào có ruộng đất mà khơng chăm cấy trồng thì quan tư cai quản bắt
trình trị tội”(8). Cũng vào thời Lê Thánh Tông, sử chép rằng: “Mùa thu tháng 8, ngày
mồng 4 (Giáp Thìn 1484), định lệnh đắp bờ ruộng để chứa nước. Có sắc chỉ cho hai
ty Thừa Hiến các xứ và các quan phủ huyện châu rằng: Từ nay trở đi, trong hạt xứ
nào có đê vỡ ngập mất lúa mùa, mà thế có thể chứa nước để cấy chiêm, thì hai ty
Thừa Hiến truyền cho các quan phủ huyện châu hà đê và khuyến nông, nên vào lúc
nước lụt hơi rút, dự làm kế cứu đói cho dân, xem ngắm địa thế, tùy theo tiện nghi,
đốc thúc dân làng bồi đắp bờ ruộng, cần chứa lấy nước, làm mùa chiêm, không nên
bỏ phứa chức trách của mình, coi thường đau khổ của dân, ngồi nhìn mà khơng có kế
gì, để dân phải đói”(9).
Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị - xã hội, các vương triều đều chú trọng đến sự phát
triển bền vững của đất nước, lấy dân sinh làm mục tiêu, lấy hiệu quả thực hiện dân
sinh no ấm là sự thể hiện lịng nhân của triều đình. Có thể nói, Chiếu dời đơ (Thiên
đơ chiếu) của Lý Cơng Uẩn là thí dụ điển hình, bởi nó mở ra một triển vọng mới cho
sự phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam thời Trung đại.
Với mục đích chọn nơi định đơ để làm kế lâu dài cho con cháu muôn đời, Lý Công
Uẩn đã quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, đó là nơi “ở giữa
khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam - Bắc - Đơng - Tây, tiện hình
thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, cư dân không
khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là
hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư mn
đời”(10). Có thể nói, đây là vấn đề địa - chính trị đầu tiên được đặt ra trong lịch sử
nước ta. Trên thực tế, địa - chính trị là bộ mơn thuộc chính trị học ra đời vào nửa đầu
thế kỷ XX, song những quan điểm về ổn định và phát triển đất nước của Lý Cơng

Uẩn là hồn tồn phù hợp với chức năng của bộ mơn này, đó là nghiên cứu không
gian địa lý và xã hội để đề ra chủ trương chính trị đúng đắn. Có thể nói, với năng lực
tư duy chính trị siêu việt, Lý Cơng Uẩn đã thể hiện tầm nhìn xa, trơng rộng trong
việc tìm kiếm địa thế cho sự định đơ, mà tiêu chí quan trọng của nó là trung tâm của
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Chúng tôi cho rằng, vị vua anh minh
này muốn thông qua những tiêu chí địa - chính trị đó để xây dựng nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền.


Các vị vua thời sau, trong sự nghiệp trị vì thiên hạ của mình, đã chú trọng đến những
vấn đề dân sinh cụ thể hơn, đó là vấn đề an dân trên phương diện tình cảm và lý trí.
Về phương diện tình cảm, họ đưa ra quan điểm “u ni nhân dân”, coi dân như
những “thần dân”, “con dân”, v.v., từ đó họ đưa ra những điều chỉnh về mặt pháp lý
để trị dân theo tinh thần “thuận ý trời, hợp lòng dân”. Sử chép: Tháng 10, năm 1042,
vua Lý Thái Tơng đã “Ban sách Hình thư. Trước kia, trong nước việc kiện tụng
phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cất làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan
uổng. Vua lấy làm thương xót, sai Trung thư sửa định luật lệnh, châm chước cho
thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách Hình
luật của một triều đại để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban
hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử hình thản nhiên rõ ràng, cho nên có lệnh
đổi niên hiệu làm Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo”(11).
Mặc dù nhà Lý chưa đưa ra được bộ luật thành văn hồn chỉnh, song Hình luậtcũng
đã góp phần bảo vệ an ninh cho dân. Sử chép: “Quí Mùi, năm Minh Đạo thứ 3, tháng
12, vua đến hành dinh Cổ Lãm, xuống chiếu rằng kẻ nào ăn cướp lúa mạ và tài vật
của nhân dân, nếu đã lấy rồi thì xử 100 trượng, nếu chưa lấy được mà làm cho người
bị thương thì xử tội lưu”(12). Khơng những vậy, Lý Thái Tơng cịn xem sự an vui
của dân cũng chính là của mình, cụ thể vào năm Giáp Thân (1044), “mùa đông,
tháng 11, vua xuống chiếu rằng: “Đánh dẹp phương xa, tổn hại việc làm nông, ngờ
đâu mùa đông năm nay lại được mùa lớn! Nếu nhân dân đã no đủ thì trẫm cịn thiếu
với ai? Vậy xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay, để yên ủi sự khó nhọc lặn

lội””(13). Điều này làm chúng ta liên tưởng tới chuyện vua nước Lỗ là Lỗ Ai Công
đang lo không biết tăng thuế như thế nào để có đủ cho nhà nước chi dùng thì học trị
của Khổng Tử là Hữu Nhược nhân đó đã phát biểu ý kiến của mình như sau: “Nếu
trăm họ no đủ thì vua thiếu thốn với ai? Nếu trăm họ thiếu thốn thì vua no đủ với ai”
(Luận ngữ, Nhan Uyên, 9). Như vậy, cùng một ý, nhưng lại được phát biểu trong hai
văn cảnh đối lập nhau.
Vấn đề dân sinh từ thời Lý đã mang nội dung nhân văn rất cao, đó là quan tâm đến
con người như một sinh thể cao quý nhất. Chẳng hạn, “Ất Mùi, Long Thụy Thái
Bình năm thứ 2 (1055), mùa đơng, tháng 10 rét lắm, vua bảo các quan tả hữu rằng:
“Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu cịn rét như thế này, nghĩ đến


người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn không
no bụng, áo khơng kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết khơng đáng tội, trẫm
rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát
cơm””(14).
Tư tưởng nhân văn này cịn có thể tìm thấy trong các chiếu chỉ và lệnh dụ của các
vua khác. Chẳng hạn, vua Thần Tông nhà Lý năm Kỷ Dậu (1129) đã “Xuống chiếu
rằng, nô tỳ của vương hầu và các quan không được cậy thế đánh quan quân và nhân
dân, kẻ nào phạm thì gia chủ phải tội đồ, kẻ nô sung làm quan nô”(15). Cũng như
vậy, vào thời Trần, vua Trần Nhân Tông đã răn các vệ sĩ khơng được thét đuổi, ức
hiếp nơ tì, bởi ơng nhận thức rất rõ vai trò của người dân và cho rằng: “ngày thường
thì có thị vệ hai bên, đến khi nhà nước hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy đi theo thôi”(16).
Hay, nhà Lê Sơ đã nhiều lần ra lệnh cho các quan lại cùng người nhà của họ không
được cậy quyền thế mà ức hiếp nhân dân, cấm chiếm đoạt của cải, ruộng đất hoặc
mua rẻ hàng hóa của dân. Đến thời nhà Mạc, để bảo đảm an ninh cho dân khi đi lại
và làm ăn sinh sống, triều đình đã cố gắng thiết lập trật tự xã hội như sau: “Nhâm
Thìn (1532, Mạc Đại Chính thứ 3), Mạc có lệnh cấm các xứ trong ngồi người ta
khơng được cầm giáo mác và binh khí hồnh hành ở đường sá, ai trái thì cho pháp ty
bắt. Từ đấy người buôn bán và người đi đường đều đi tay khơng, ban đêm khơng có

trộm cướp, trâu bị thì thả chăn khơng phải đem về, chỉ mỗi tháng điểm sốt một lần,
hoặc có khi sinh đẻ cũng khơng thể biết là vật của nhà mình. Trong khoảng vài năm,
đường sá khơng nhặt của rơi, cổng ngồi khơng đóng, thường được mùa to, trong cõi
tạm yên”(17). Về phương diện chính trị - xã hội, vua Mạc là Mạc Mậu Hợp, năm
Quý Dậu (1573), đã ban chiếu mệnh gồm sáu việc, trong đó có hai việc liên quan đến
dân sinh như sau: 1. Người dân nào bị nạn binh lửa mà không có hằng sản đều tha
tạp dịch; 2. Dân nghèo xiêu giạt cho về bản quán, tha cho thuế dịch(18).
Từ tình cảm mang nặng tính nhân văn của các quân vương qua một số dẫn chứng nêu
trên, đường lối trị nước của các vương triều đã được phát triển lên một tầm mức mới,
đó là sự thể chế hóa, luật pháp hóa vấn đề dân sinh. Nhờ đó, các lĩnh vực sản xuất
vật chất, chính trị - xã hội, dù trong hoàn cảnh nào, Phật giáo là quốc giáo hay Nho
giáo được độc tôn, cũng luôn được kết hợp với nhau để việc trị quốc và trì quốc có
hiệu quả tốt nhất.


Nhà nước phong kiến nào trong lịch sử cũng đều giương cao ngọn cờ nhân nghĩa an
dân, lấy đó làm thước đo sự thịnh trị của đất nước và tính đúng đắn trong đường lối
trị nước của triều đại mình. Cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của nhà Minh
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã lấy mục đích an dân làm đầu. Để
thực hiện được mục đích ấy, ngay từ đầu, Lê Lợi đã ra lệnh cho qn đội của mình
khơng được xâm phạm bất kỳ thứ gì của dân, phải làm cho dân tin và theo về với đội
quân chính nghĩa ấy. Đến khi giành được thắng lợi, Lê Lợi đã quyết định áp dụng
luật pháp vào đường lối trị nước, nhưng đó khơng phải là đường lối pháp trị thuần
túy như thời nhà Tần ở Trung Quốc, mà là sự kết hợp đức trị với pháp trị nhằm mục
đích trị quốc, an dân theo tinh thần khuyến thiện, phòng ác. Đại Việt sử ký toàn
thư chép rằng: “Mậu Thân, Thuận Thiên năm thứ nhất (1428). Hạ lệnh cho các quan
Tư không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy Hành khiển bàn định luật lệnh trị quân và dân,
cho người làm tướng biết mà trị quân, người làm quan ở lộ biết mà trị dân, để răn
dạy quân dân đều biết là có phép, phàm các cơng việc đều có phụ trách, dâng lên vua
xem”… Hạ lệnh cho các tướng hiệu và các quan rằng: “Từ xưa đến nay, trị nước

phải có pháp luật, người mà khơng có phép để trị thì loạn. Cho nên bắt chước đời
xưa đặt ra pháp luật, để dạy các quan, dưới đến nhân dân, cho biết thế nào là thiện
ác, điều thiện thì làm, điều ác thì lánh, chớ có phạm pháp”(19).
Thời vua Lê Thánh Tơng, năm Tân Mão, Hồng Đức năm thứ 2 (1471), tháng 11, có
sắc dụ cho các quan Thừa tuyên phủ, huyện ở Sơn Nam rằng: “Bọn các ngươi là hạng
phương diện chức to, thân dân trách trọng, khơng biết thể theo lịng nhân của triều
đình u ni nhân dân, chỉ chăm làm những việc nhỏ mọn như roi vọt sổ sách. Nay
sứ ty và các phủ huyện các người nên phải mau mau đi xét trong hạt, những nơi núi
chằm bờ biển, chỗ nào có thể làm ruộng được, các đê đập ngịi cừ, chỗ nào có thể đắp
đào được, cùng là chỗ nào có hổ lang làm hại, có kẻ cường hào xui giục kiện tụng,
phong tục điêu bạc, nhân dân đau khổ, hết thảy các việc tiện lợi nên làm, những mối tệ
hại nên bỏ, trong hạn trăm ngày phải tâu rõ ràng lên, nếu để chậm quá hạn, sai vệ sĩ
Cấm y đi xét hỏi ra cịn có việc tiện lợi nên làm và mối tệ hại nên bỏ mà các ngươi
khơng tâu đến, thì phủ huyện phải bãi chức sung quân ở Quảng Nam, thừa ty phải
giáng chức”(20).


Những trường hợp tương tự có thể tìm thấy khá nhiều trong Đại Việt sử ký toàn thư,
tất cả đều phản ánh sự nỗ lực của các triều đại phong kiến Việt Nam trong việc thực
hiện đường lối nhân nghĩa an dân, mà về thực chất là sự quan tâm lớn đến vấn đề dân
sinh.
Bên cạnh đó, cịn một lĩnh vực khác nữa cần được đề cập tới, đó là lĩnh vực đời sống
tinh thần của xã hội. Nói đến lĩnh vực này, trước hết, chúng ta cần đề cập đến một số
phương diện cơ bản của nó trên cơ sở nhận thức luận và xã hội học. Lĩnh vực nhận
thức luận có các yếu tố cơ bản như: phản ánh lý tưởng, thế giới khách quan và tồn tại
xã hội. Cốt lõi của phương diện này là vấn đề chân lý. Do ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội, thế giới khách quan và sự phản ánh đó có mức độ nơng, sâu khác nhau, cho
nên từ vấn đề chân lý, cần phải làm rõ hai đầu mối của ý thức xã hội là khoa học và
tôn giáo. Cịn lĩnh vực xã hội học khơng chỉ dựa vào các yếu tố nói trên, mà cịn phải
xuất phát từ quan điểm đánh giá vai trò và ý nghĩa của chúng đối với hoạt động của

chủ thể xã hội.
Như chúng ta đều biết, mối liên hệ giữa khoa học và triết học ở phương Đông thường
không mạnh như ở phương Tây, đó là chưa nói đến truyền thống khoa học kém phát
triển trong lịch sử của nước ta. Vì vậy, xét về lưỡng cực “khoa học - tôn giáo”, ý thức
xã hội của nước ta trong lịch sử thường thiên về cực thứ hai hơn; ở đó, thế giới khách
quan, tồn tại xã hội và lý tưởng xã hội được phản ánh chủ yếu dựa trên kinh nghiệm
của ý thức thường nhật và tôn giáo. Về phương diện xã hội, xét trong tiến trình lịch sử
mà Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại, chủ thể xã hội, về cơ bản, được chia một cách ước
lệ thành hai đẳng cấp: thống trị và bị trị. Chính vì vậy, theo văn cảnh của vấn đề dân
sinh trong bộ sử ký này, chúng tôi chú ý đến lĩnh vực đời sống tâm linh có ảnh hưởng
lớn đến hoạt động của chủ thể xã hội, mà về cơ bản là thái độ của các vương triều đối
với con dân của mình, tức là đẳng cấp bị trị.
Điều dễ hiểu là, trong bối cảnh xã hội với nền kinh tế truyền thống chủ yếu là nông
nghiệp, khi mọi sự may rủi đều phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên vốn không được
giải thích một cách khoa học, mà phần lớn chỉ dựa vào thuyết mệnh trời, thuyết “thiên
nhân tương dữ” của Hán Nho, vai trò trung gian của thiên tử trong mối liên hệ trời người trở nên cực kỳ quan trọng. Nhận sứ mệnh nuôi dạy dân, thiên tử dường như gần
gũi với dân hơn, tức là thể hiện tinh thần thế tục cao hơn. Có những ơng vua (như Lý


Thái Tông) biết chia sẻ niềm vui với dân, cho rằng, “nếu nhân dân đã no đủ thì trẫm
cịn thiếu với ai?”. Song, như chúng ta thấy, đa phần các sự kiện liên quan tới dân sinh
được ghi trong bộ sử mà chúng tôi đang đề cập tới đều chú ý đến những vấn đề an
sinh như mất mùa, thiên tai, sâu bệnh, v.v.. Khi đó, người đứng đầu một triều đại nào
đó trong lịch sử ln thể hiện tâm trạng lo âu, muốn đi tìm nguyên nhân của vấn đề ở
chính bản thân mình và rồi chính họ hoặc những trung thần đã chỉ ra nguyên nhân dẫn
đến sự trừng phạt của trời. Một số dẫn chứng dưới đây sẽ góp phần làm rõ điều đó.
Thời Lê Sơ, Ất Sửu, Thái Hịa năm thứ 3 (1445), Mùa đơng, tháng 10, vì có tai dị,
Nhân Tơng Tun hồng đế đã xuống chiếu rằng: “Trẫm là người đứng đầu mà chưa
biết việc đời, cho nên liền mấy năm nay tai dị luôn luôn, sấm sét thường phát, mưa
dầm quá độ, nước to tràn ngập, đê phòng vỡ lở, nhà cửa của dân đổ nát, sâu bọ sinh

nhiều, cắn hại lúa má chốn đồng ruộng, đầm và hồ sụt lấp, dâu và rau ngập khơ. Hoặc
là vì chính sự có thiếu sót mà hại đến hịa khí của trời đất, ngục tụng khơng cơng bằng
mà khí vận âm dương biến đổi chăng? Muốn tiêu sự trách phạt của trời cao, phải ban
rộng ơn huệ cho kẻ dưới. Các điều bớt thuế giảm tội đều có thứ bậc khác nhau”(21).
Nguyên nhân dẫn đến tai họa nói trên được Lê Nhân Tơng tìm thấy ở sự biến đổi theo
chiều hướng bất lợi của khí âm dương, nhưng suy đến cùng, nguyên nhân ấy lại bắt
nguồn từ “chính sự” của triều đình. Việc lý giải như vậy rõ ràng là theo quan điểm của
Tống Nho. Cịn đoạn trích dưới đây lại thiên về quan niệm tơn giáo thần bí của Hán
Nho.
Thời Lê Trung Hưng, “Đinh Tỵ năm thứ 18 (1617), mùa đông tháng 10 ngày mồng 4,
Tả thị lang lại bộ là Phú Xuân Hầu Ngơ Trí Hịa, Tả thị lang bộ Hộ là Diễn Gia hầu Lê
Bật Tứ cùng với bọn Phạm Trân dâng khải lên Bình An vương rằng: “Trộm thấy năm
nay về hạ tuần tháng 9 có sao lạ, đến giờ dần mọc ra ở phương Đơng dài hơn 1
trượng, lại có tiếng sấm trái thì; tháng trước lại mưa ra gạo đen, mưa ra cát vàng, các
việc ấy đều là quái dị, chắc có quan hệ với chính sự hiện nay. Những việc trái lẽ hại đạo,
khó mà kể hết, kính xin trình bày 6 việc: 1. Xin sửa đức để cầu mệnh trời. 2. Ngăn quyền
hào để nuôi sức dân. 3. Cấm phiền hà để dân sống khá. 4. Cấm xa xỉ để của dân phong túc.
5. Dẹp trộm cướp để dân ở yên. 6. Sửa quân chính để bảo hộ dân sinh”.
Hữu Thị Lang lại bộ là Nhân Lĩnh hầu Lưu Đình Chất dâng khải lên Bình An vương
rằng: “Trộm nghĩ trời xuống tai dị hay điềm lành là do ở sự có đức hay khơng, làm


thiện thì hiện ra điềm lành, làm ác thì răn bằng tai dị… Nay chính sự thi hành khơng
bằng năm trước, mệnh lệnh ban bố đều không thể theo ý khoan hồng của người trên,
chỉ chăm làm hà khắc tàn ngược, vét hết tài sản của dân. Những tiếng than sầu khổ
cũng đủ cảm động đến trời, mà trời răn bảo bằng điềm quái lạ, người làm chúa trông
thấy thế nên phải tự xét. Kính xin sự răn bảo của trời, thương ni dân mọn; phàm
một tí gì tiện lợi cho dân thì đều làm, một tệ gì có hại cho dân thì đều bỏ. Lại càng
phải thi nhân chính cho dân… Như thế thì người dần đội ơn mà vui lòng, người xa
nghe tiếng mà kéo đến. Thế là được lịng dân. Lịng dân vui ở dưới thì đạo trời ứng ở

trên, sẽ thấy sao tai dị chuyển làm sao sáng lành, mưa tai dị chuyển làm mưa hòa
thuận, các thứ phúc đều đến cả mà vương đạo đại thành vậy””(22).
Có thể nói, khái niệm “dân sinh” lần đầu tiên đã được sử dụng trong Đại Việt sử ký
toàn thư theo đúng nghĩa của từ. Trong 6 điều cần sửa, nhà cầm quyền đặt lên hàng
đầu là “sửa đức để cầu mệnh trời”, “kính xin sự răn bảo của trời” để “bảo hộ dân
sinh”, làm cho “khắp thôn cùng xóm vắng khơng có tiếng ốn sầu” (Nguyễn Trãi).
Nếu ơng vua nào biết nghe những lời can gián, biết đi tìm ngun nhân tự phát, tự
nhiên ở chính sự và chính bản thân mình, biết chia sẻ niềm vui và nỗi lo với dân, lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, thì triều đại của ơng ta sẽ dần được ổn định và được
lòng dân, nghĩa là giữ được nước. Ngược lại, những ông vua (theo quan điểm của
Mạnh Tử), không ra vua, chỉ là những kẻ tàn tặc, không quan tâm đến dân, đưa ra
những chính sách trị dân hà khắc, sớm muộn sẽ bị trời trừng phạt và bị thay thế bởi
những ơng vua khác, thậm chí thay cả triều đại.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không đề cập đến mặt trái của vấn đề dân
sinh trong Đại Việt sử ký toàn thư. Song, rõ ràng là, mặc dù bộ sử này do sử thần nhà
Lê là Ngơ Sĩ Liên soạn, nhưng tính chính thống của Nho giáo và sự biện hộ cho
những tiêu cực xảy ra trong lịch sử tồn tại của nhà Lê vẫn khơng thể che đậy được
những sự kiện có ảnh hưởng tiêu cực đến dân sinh. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, giải
quyết vấn đề an sinh xã hội chỉ là những giải pháp tạm thời, mang tính cấp bách do
các sự kiện bất khả kháng gây ra làm cho đời sống nhân dân bị cơ nhỡ, thậm chí ảnh
hưởng đến cả sinh mạng. Còn vấn đề dân sinh cần được xem xét rộng hơn, ở đó bao
hàm cả lĩnh vực chính trị, pháp luật, liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của
xã hội. Chính vì vậy, dù các triều đại phong kiến Việt Nam có sự trường tồn khác


nhau, có sự suy bại khác nhau, song ở mức độ nhất định, đều tỏ ra quan tâm đến đời
sống của nhân dân, ln lo lắng tới vấn đề có được lịng dân hay khơng để từ đó đưa
ra những quyết sách phù hợp. Đó chính là bài học lịch sử quý giá nhất cho muôn đời,
đặc biệt là ở những giai đoạn khó khăn trong q trình phát triển kinh tế - xã hội như
hiện nay ở nước ta. Vấn đề lòng tin của nhân dân và sự đồng thuận xã hội từ các cấp

lãnh đạo cho đến nhân dân chỉ được thể hiện trong đời sống thực tiễn của xã hội nếu
vấn đề dân sinh được xem là quốc sách quan trọng, thậm chí là quốc sách hàng đầu.
Chúng tôi cho rằng, vấn đề dân sinh là tiền đề quan trọng để thực hiện việc xây dựng
xã hội phát triển hài hịa. Đó khơng chỉ là sự hài hịa về lợi ích vật chất và tinh thần,
về thực thi dân chủ, mà còn là cả mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên như
điều kiện tất yếu để đất nước phát triển bền vững.
Chắc chắn rằng, việc nghiên cứu những vấn đề dân sinh trong Đại Việt sử ký toàn
thư sẽ phải được tiếp tục, bởi tính thời sự cấp bách của nó hiện đang được thể hiện
ngày càng rõ nét do chính sách tam nông của Đảng và Nhà nước ta không thể thiếu
các luận chứng lịch sử của đất nước. Chúng tôi cho rằng, nếu như nhà nơng ln đi
tìm hạt giống tốt để đạt hiệu quả cao trong sản xuất cả về lượng lẫn chất, thì chính
sách của Nhà nước cũng cần phải theo con đường chọn giống đó để thực hiện đường
lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó tam nơng chiếm tỷ trọng áp đảo
về nhiều mặt. Một nhà nước không thể gọi là mạnh khi đời sống của nhân dân cịn
nghèo đói, một thể chế khơng thể gọi là thích hợp khi những vấn đề dân sinh bị lãng
qn.
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phịng Triết học Việt Nam, Viện Triết học, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam.

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.42. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.136-137.
(2) Đại Việt sử ký tồn thư, t.1. Nxb Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội, 2006, tr.243.
(3) Sđd., t.1, tr.485.
(4) Sđd., t.1, tr.585.


(5) Sđd., t.1, tr.214.
(6) Sđd., t.1, tr.266.
(7) Sđd., t.1, tr.534 -535.
(8) Sđd., t.2, tr.228.

(9) Sđd., t.2, tr.360.
(10) Sđd., t.1, tr.241.
(11) Sđd., t.1, tr.280.
(12) Sđd., t.1, tr.283.
(13) Sđd., t.1, tr.287.
(14) Sđd., t.1, tr.294.
(15) Sđd., t.1, tr.338.
(16) Đại Việt sử ký toàn thư, t.1, chép rằng: “Nhâm Thìn năm thứ 8 (1292). Vua từng
ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ tên mà
hỏi: “Chủ mày ở đâu” và răn các vệ sĩ không được thét đuổi. Đến khi về cung, bảo các
quan hầu cận rằng: “Ngày thường thì có thị vệ hai bên, đến khi nhà nước hoạn nạn thì
chỉ có bọn ấy đi theo thôi”.
(17) Sđd., t.1, tr.558.
(18) Sđd., t.1, tr.609.
(19) Sđd., t.2, tr.82-83.
(20) Sđd., t.2, tr.310-311.
(21) Sđd., t.2, tr.176.
(22) Sđd., t.2, tr.702-703.

TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VỀ DÂN SINH VÀ XÂY DỰNG XÃ
HỘI HÀI HOÀ

LÊ THỊ LAN (*)
Trong bài viết này, tác giả đã góp phần làm rõ thêm những nội dung cơ bản trong


các tư tưởng quan trọng của Nguyễn Trường Tộ về dân sinh và xây dựng xã hội hài
hoà. Điều đáng quý ở Nguyễn Trường Tộ là, ông không những đưa ra những nội
dung cụ thể, rõ ràng về dân sinh, mà cịn ln trăn trở tìm kiếm các phương thức
mưu sinh cho dân chúng. Đồng thời, ơng cịn đưa ra những tư tưởng sâu sắc về xã

hội hài hoà cũng như các phương pháp để thực hiện xã hội lý tưởng. Theo tác giả, tư
tưởng về dân sính và xã hội hài hoà của Nguyễn Trường Tộ đầy sức sống, có giá trị
gợi mở đối với việc xây dựng một đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với
điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay.
Dân sinh, xây dựng và quản lý xã hội là những chủ đề nền tảng của các học thuyết tư
tưởng phương Đông, đặc biệt là Nho giáo. Coi nông nghiệp là gốc của dân sinh, coi
xã hội dựa trên nền tảng sản xuất nông nghiệp, coi sự phân chia bốn giai tầng xã hội
“sĩ, nơng, cơng, thương” có lợi ích và vai trị khơng đối kháng mà nương tựa lẫn
nhau với mơ hình xã hội có sự hồ hợp giữa các giá trị đạo đức nhân sinh: vua sáng
tôi hiền, trên dưới hồ mục, dân chúng n nghiệp nơng tang… là chuẩn mực của
một xã hội lý tưởng theo quan điểm Nho giáo. Với sự du nhập của Nho giáo, những
chuẩn mực tư duy này ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài tới tư tưởng chính trị xã hội Việt
Nam.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, khi Việt Nam đứng trước nguy cơ mất độc lập dân tộc, có
rất nhiều trí thức nhận thấy sự yếu kém về nội lực kinh tế, quân sự của đất nước và
đã gửi lên triều đình rất nhiều kiến nghị cải cách các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, qn
sự, xã hội, chính trị. Các kiến nghị này khơng chỉ nhằm mục đích trước mắt là tự lực
tự cường, nâng cao sức mạnh vật chất, cả về quân sự và kinh tế để chống lại cuộc
xâm lược của thực dân Pháp, mà còn nhằm mục tiêu xa hơn và lâu dài, đó là xây
dựng đất nước phát triển về mọi mặt sánh ngang, thậm chí vượt các cường quốc
đương thời. Điển hình cho các nhà tư tưởng cải cách thời kỳ này là Nguyễn Trường
Tộ, một người Cơng giáo đã có những tư tưởng vượt trước thời đại. Sau khoảng thời
gian hơn 140 năm nhìn lại, chúng ta thấy các tư tưởng cải cách xã hội của ông, đặc
biệt là về dân sinh và xây dựng một xã hội hài hồ, vẫn đầy tính gợi mở.
1. Tư tưởng về dân sinh
Dân sinh là vấn đề nền tảng trong học thuyết Nho giáo nhưng lại bị chìm khuất sau
những vấn đề khác và được coi là một vấn đề mặc định được giải quyết trên phương


diện tư tưởng với quan điểm trọng nông. Sự tồn tại sớm và lâu dài của phương thức

sản xuất châu Á trong xã hội phương Đông càng củng cố tư tưởng coi nông nghiệp là
lĩnh vực chủ đạo để duy trì đời sống xã hội. Sự phân biệt đẳng cấp xã hội theo mức
độ trọng thị từ cao xuống thấp: sĩ, nông, công, thương cho thấy định hướng xã hội đã
được cố định hố thành cơng thức khó thay đổi trong đời sống tinh thần xã hội. Học
thuyết chính trị của Mạnh Tử có đặt ra ba giai đoạn cho việc thi hành chính sự: phú,
thứ, giáo; coi việc làm cho dân giàu là việc cần làm trước hết của nhà cầm quyền,
nhưng phạm vi làm cho dân giàu này mới chỉ được hiểu trong văn cảnh khuyến
khích người dân chăm nghề nông tang sao cho đạt được lý tưởng; trẻ nhỏ thì được
học hành, người già thì có lụa mặc…
Tư tưởng xây dựng một xã hội dân sinh trọng nông của Nho giáo càng được củng cố
với tư tưởng đạo đức trọng nghĩa hơn lợi. Những tư tưởng đức trị này được triều
Nguyễn tiếp thu một cách cực đoan thành tư tưởng trọng nông ức thương, trọng
nghĩa hơn lợi và cụ thể hố vào các chính sách cai trị, điều hành đất nước. Tuy nhiên,
triều Nguyễn nói riêng, thế giới Nho giáo nói chung đã thất bại trong những nỗ lực
xây dựng một nền dân sinh trù phú chỉ dựa trên nơng nghiệp. Mất mùa, đói kém liên
miên là tình trạng phổ biến dưới mọi triều đại phong kiến.
Quan niệm về dân sinh của Nguyễn Trường Tộ hết sức cụ thể, rõ ràng: “Tôi nghĩ,
trong ngũ phúc, phú đứng đầu, triệu dân trước tiên lo ăn”, “Nếu bị cái nghèo đói thúc
bách thì lo kế sống cũng khơng xong, cịn hơi đâu mà bàn lễ nghĩa”(1). Ơng đả kích
quan niệm lễ nghĩa suông của các hủ nho đương thời và khẳng định nền tảng của
cuộc sống nhân sinh là kinh tế. Là người nhận thức sâu sắc tình trạng kinh tế nghèo
nàn của đất nước, ông chỉ rõ: “Ngày nay, cái mà ta thiếu thốn nhất là tiền của. Vì
khơng có tiền của cho nên trăm việc, việc gì cũng khơng làm được”(2). Từ đó,
Nguyễn Trường Tộ ln trăn trở tìm các phương thức mưu sinh cho dân chúng, đề
xuất tư tưởng kinh tế khuyến khích người dân làm giàu bằng nhiều con đường: khai
thông nội và ngoại thương, khai thác tài nguyên khoáng sản, phát triển sản xuất hàng
hố, tăng cường sản xuất nơng nghiệp… theo phương châm: “Nếu lợi cho dân thì
khơng cứ phải theo xưa, nếu thích hợp thì khơng cứ phải theo cũ, nếu học điều khơn
thì khơng cứ là của địch hay của ta”(3). Ông nhấn mạnh sự khác biệt mới về chất
trong tư tưởng dân sinh khi kiến nghị nhà nước tích cực tổ chức nền kinh tế sản xuất



×