HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
TIỂU LUẬN
(Điều kiện)
HỌC PHẦN: CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
TÊN ĐỀ TÀI:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, VAI
TRỊ CỦA CƠNG TÁC VĂN HĨA VĂN NGHỆ ĐỐI VỚI CƠNG TÁC
TƯ TƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CƠNG TÁC VĂN HĨA
VĂN NGHỆ TẠI TÍNH ST HIỆN NAY
Họ và tên học viên: VÕ ………….
Mã số học viên: MP22 …………….
Lớp: Cao học XDĐ&CQNN ………………..
ST – 202…
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài......................................................... 3
6. Kết cấu của tiểu luận.................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM…………...………………………….4
1.1 Khái niệm tư tưởng, hệ tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng........... 4
1.2 Các bộ phận cấu thành công tác tư tưởng của Đảng............................. 7
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA CƠNG TÁC VĂN HĨA VĂN NGHỆ ĐỐI
VỚI CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG.................................................. 9
2.1 Quan điểm của Đảng về công tác văn hóa văn nghệ từ khi thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...................................................................... 9
2.2 Quan điểm của Đảng về cơng tác văn hóa văn nghệ thời kỳ đổi mới......13
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CƠNG TÁC VĂN HĨA VĂN
NGHỆ TẠI TỈNH ST HIỆN NAY...............................................18
3.1 Khái quát về văn hóa tại tỉnh ST ............................................18
3.2 Những kết quả đạt được trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ ......................18
3.3. Hạn chế.....................................................................................................22
3.4 Giải pháp nâng cao cơng tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn tỉnh ST trong
thời gian tới..........................................................................25
KẾT LUẬN................................................................................................... 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 26
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Vai trò của văn hóa văn nghệ đối với cơng tác tư tưởng được Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Ngay từ khi chưa giành chính
quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được sự cần thiết phải gắn kết
phát triển văn hóa với xây dựng, phát triển kinh tế xã hội; phải xây dựng văn
hóa trong Đảng, trong hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo
đức lối sống và đời sống văn hóa trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, đồn thể
nhân dân, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trị của văn hố - văn nghệ đối
với cơng tác tư tưởng. Văn hố có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng con người;
hoạt động văn hoá - văn nghệ được xem là “binh chủng đặc biệt”, có sức
mạnh độc đáo với cách thức riêng (bằng các sản phẩm văn hoá - văn nghệ) có
khả năng tác động vào tâm hồn, tình cảm, cảm xúc con người, trực tiếp nuôi
dưỡng, đào tạo con người mới, nhân cách kiểu mới với những phẩm chất cao
đẹp, phát triển tồn diện về trí, đức, thể mỹ. Chính vì vậy, Người thường
xun quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân,
đưa văn hóa đi sâu vào quần chúng, tác động như một sức mạnh vật chất, biến
đổi phong hóa, cải tạo con người.
Quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước qua nhiều thời kỳ,
lĩnh vực văn hoá, văn học nghệ thuật có một vai trị quan trọng, được Đảng,
Nhà nước rất quan tâm, chú trọng, và đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị,
kết luận, chính sách pháp luật về lĩnh vực này. Theo tinh thần đó Đảng bộ tỉnh
ST luôn coi trọng, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các lĩnh vực khoa giáo - văn
hóa, văn nghệ đạt được nhiều kết quả quan trọng cho công tác tư tuởng, góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Từ lý do trên,
tôi chọn đề tài “Lý luận chung về công tác tư tuởng của Đảng, vai trị của
cơng tác văn hố văn nghệ đối với công tác tư tưởng và thực trạng quản
lý cơng tác văn hố văn nghệ tại tỉnh ST hiện nay” để nghiên cứu viết bài
4
tiểu luận kết thúc học phần môn công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn
hiện nay.
2. Mục đích của việc nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về cơng tác tư tưởng và vai trị
cơng tác văn hố văn nghệ . Từ đó liên hệ với thực tế tại tỉnh ST để thấy rõ
hơn những thành tựu và hạn chế sau quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng tại địa phương nơi công tác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các quan điểm lý luận chung công tác tư tưởng
của Đảng, vai trị của cơng tác văn hố - văn nghệ; phạm vi nghiên cứu về
những thành tựu, hạn chế và giải pháp nâng cao cơng tác văn hố văn nghệ
trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh ST.
4. Về cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác tư tưởng, những nội dung của công tác tư
tuởng.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
Việc nghiên cứu lý luận chung về cơng tác tư tưởng và vai trị cơng tác
văn hoá văn nghệ, liên hệ với thực tế về thành tựu, hạn chế, giải pháp về cơng
tác vưn hố văn nghệ tại tỉnh ST, là cơ sở quan trọng để chúng ta khẳng định
lập trường, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng,
bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
6. Về kết cấu nội dung của tiểu luận gồm 3 phần:
- Phần 1. Mở đầu
- Phần 2. Nội dung (gồm 3 chương)
+ Chương 1: Lý luận chung về công tác tư tuởng của Đảng
+ Chương 2: Vai trị của cơng tác văn hố văn nghệ đối với công tác tư
tưởng.
5
+ Chương 3: Thực trạng quản lý công tác văn hoá văn nghệ tại tỉnh ST
hiện nay
- Phần 3. Kết luận: Tổng kết lại những vấn đề đã nghiên cứu
6
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1 Khái niệm tư tưởng, hệ tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng
1.1.1 Khái niệm tư tưởng
Tư tưởng là một bộ phận của ý thức xã hội, phản ảnh tồn tại xã hội; ỉà
sự phản ánh của hiện thực khách quan, được hình thành bởi ý nghĩ, suy nghĩ
và chỉ đạo hành động của con người.
Nguồn gốc của tư tưởng là tồn tại xã hội, song sự phản ánh của ý thức
lại là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có khả năng cải tạo tồn tại xã hội; tư
tưởng có nguồn gốc từ sự lan truyền giữa thế hệ này với thế hệ khác và sự tác
động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội; tư tưởng còn chịu ảnh hưởng
bởi bộ óc người là khí quan vật chất đặc biệt hình thành nên nó.
1.1.2 Khái niệm hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng là hệ thống lý luận, quan điểm tư tưởng của một giai cấp
nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp đó, được biểu hiện thành các quan điểm
chính trị, nhà nước, triết học, văn học nghệ thuật, đạo đức tơn giáo...
Trong xã hội có giai cấp thì tư tưởng và hệ tư tưởng mang tính giai cấp
và chỉ khi lồi người có nhu cầu sản xuất ra hệ tư tưởng, bảo vệ những nhu
cầu, lợi ích cùa giai cấp nhất định thì cơng tác tư tưởng mới xuất hiện nhằm
truyền bá những hệ tư tưởng nhất định, đấu tranh hạn ché và xóa bỏ những hệ
tư tưởng đối lập để duy trì sự thống trị của mình.
Có thể hiểu, tư tưởng là nhận thức của con người, nhưng công tác tư
tưởng lại khơng chỉ là q trình hình thành nhận thức mà cịn bao gồm cả q
ừình hình thành niềm tin và thúc đẩy hành động có định hướng của con người
và xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành cơng, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
7
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ
thực dân, phong kiến, hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu
thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cưong lĩnh chính trị, đường lối
cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam chỉnh là tư tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nên tảng tư tưởng.
1.1.3 Khái niệm công tác tư tưởng của Đảng
Công tác tư tưởng của Đảng là nội dung và phương thức lãnh đạo quan
trọng của Đảng trong việc định hướng giá trị, xác lập niềm tin, phát huy tính
tích cực chính trị-xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm từng bước
hiện thực hóa lý tưởng và mục tiêu của Đảng.
Công tác tư tưởng của Đảng là hoạt động đặc biệt quan trọng trong việc
xác lập, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng; đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, nhằm tạo sự thống nhất tư tưởng trong
Đảng, sự đồng thuận xã hội; cổ vũ, động viên tinh thần sáng tạo cách mạng
của nhân dân; đấu tranh chống các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, góp
phần xây dựng nền văn hóa và con người mới xã hội chủ nghĩa; quảng bá
hình ảnh tươi đẹp của đất nước, con người Việt Nam ra cộng đồng quốc tế.
Khái niệm trên chỉ rõ tính chất, chủ thể, đổi tượng, mục tiêu cơng tác tư
tưởng của Đảng.
- Về tính chất của công tác tư tưởng: Công tác tư tưởng thuộc về hoạt
8
động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng đối với nội bộ Đảng, Nhà nước
và xã hội. Đây là hoạt động lãnh đạo, không phải chỉ là hoạt động nghiệp vụ
đơn thuần. Nhưng, Đảng khơng chỉ lãnh đạo nói chung đối với hoạt động tư
tưởng, mà Đảng còn chỉ đạo và tổ chức các hoạt động tư tưởng, nghĩa là Đảng
chỉ đạo và tổ chức các hoạt động: nghiên cứu, phát triển lý luận; truyền bá,
giáo dục tư tưởng; hiện thực hóa lý luận thành đường lối, chính sách... để chỉ
đạo thực hiện trong thực tiễn.
- Chủ thể công tác tư tưởng của Đảng là Đại hội đảng các cấp, Ban
Chấp hành Trung ương - thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư;
cấp ủy đảng các cấp; đảng đoàn, ban cán sự và các chi bộ đảng. Dưới sự lãnh
đạo của các chủ thể nói trên, tồn bộ hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên,
quần chúng tích cực..., trong đó các cơ quan tham mưu của Đảng về cơng tác
tư tưởng là lực lượng nịng cốt, có trách nhiệm tham gia làm cơng tác tư
tưởng.
- Đối tượng của công tác tư tưởng là cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Đối với các cơ quan lãnh đạo của Đảng, trong mối quan hệ này là chủ thể,
trong mối quan hệ khác lại là đối tượng của công tác tư tưởng.
- Nhiệm vụ của công tác tư tưởng: phát triển hệ tư tưởng; nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn; cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ việc hoạch
định đường lối, chính sách; truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cổ vũ, động viên
tính sáng tạo của quần chúng; đấu thanh chống các thế lực thù địch trên mặt
trận tư tưởng; góp phần xây dựng con người mới, xã hội mới, nền văn hóa
mới; quảng bá hình ảnh con người, đất nước Việt Nam, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta ra cộng đồng quốc tế.
- Mục tiêu của công tác tư tưởng: xây dựng nền tảng tư tưởng của
Đảng, làm cho thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản chiếm địa vị chủ đạo
trong xã hội; tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội;
làm cho cộng đồng quốc tế hiểu biết đúng đắn về đất nước, con người và chế
độ xã hội của Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp xây dụng chủ nghĩa xã hội và bảo
9
vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
1.2 Các bộ phận cấu thành công tác tư tưởng của Đảng
Công tác tư tưởng của Đảng gồm 3 bộ phận chủ yếu: công tác lý luận;
công tác tuyên truyền và cổ động; công tác văn hóa - văn nghệ. Mỗi bộ phận
của cơng tác tư tưởng có vị trí và vai trị riêng, nhưng các bộ phận có quan hệ
mật thiết với nhau.
- Công tác lý luận
Bao gồm các hoạt động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp
luận cứ khoa học cho việc hoạch định và cụ thể hóa đường lối; các hoạt động
giáo dục, truyền bá lý luận, đưa lý luận vào cuộc sống, nhằm nâng cao trinh
độ lý luận, giác ngộ chính trị, xây dựng phương pháp tư duy khoa học cho các
đối tượng của công tác tư tưởng.
Đây là mặt công tác quan trọng hàng đầu trong cơng tác tư tưởng, giữ
vai trị quyết định trên mặt trận tư tưởng. Thực tế cho thấy, chỉ làm tốt công
tác lý luận mới đảm bảo cho Đảng giữ vững và không ngừng nâng cao bản
chất giai cấp công nhân, tính tiền phong, năng lực lãnh đạo chính trị đối với
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công tác lý luận là trách nhiệm và
hoạt động của toàn Đảng, nhưng trước hết và chủ yếu thuộc về cấp chiến
lược.
- Công tác tuyên truyền và cổ động
Là bộ phận quan trọng, giữ vai trị xung kích trên mặt trận tư tưởng, có
nhiệm vụ truyền bá rộng rãi, kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước cho các tầng lớp nhân dân; cổ vũ, động viên
tinh thần sáng tạo, cách mạng của nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của
Đảng; tổ chức các phong trào cách mạng và phong trào thi đua của quần
chúng; đấu tranh chống các thế lực phản động trên mặt trận tuyên truyền để
bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ an ninh tư tưởng, văn hóa nói chung.
- Cơng tác văn hóa - văn nghệ
Là bộ phận cấu thành công tác tư tưởng của Đảng có nhiệm vụ: thơng
10
qua những giá trị văn hóa, những hình tượng nghệ thuật, giáo dục cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta tinh thần u nước, u chế độ, tơn kính Đảng và
lãnh tụ; giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng của Đảng và
nhân dân ta; giáo dục đạo đức và thẩm mỹ; góp phần xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đấu tranh trên mặt trận văn hóa văn nghệ chống các q trình xâm hại văn hóa.
CHƯƠNG 2
11
VAI TRỊ CỦA CƠNG TÁC VĂN HĨA VĂN NGHỆ ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
2.1 Quan điểm của Đảng về cơng tác văn hóa văn nghệ từ khi thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình vận động cách mạng,
Đảng ta đặc biệt coi trọng văn hóa, nhất là xử lý mối quan hệ giữa văn hóa
với dân tộc, với cách mạng, với thế giới, với đổi mới và phát triển. Năm 1943,
đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng vận dụng các quan điểm của
chủ nghĩa Mác, của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo Đề
cương Văn hóa Việt Nam (cịn gọi Đề cương Văn hóa 1943). Lần đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra một cương lĩnh văn hóa, mà ở đó nội dung,
tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ
có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn
hóa ấy sau khi cách mạng đã thành cơng. Đề cương Văn hóa Việt Nam (năm
1943) xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam (bao gồm cả tư tưởng, học
thuật, nghệ thuật), “sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được
cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”; khẳng định ba
nguyên tắc: “Dân tộc hóa”; “Đại chúng hóa”; “Khoa học hóa”; sự nghiệp
văn hóa là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; khẳng định rõ tính
chất nền văn hóa mới Việt Nam là “dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội
dung”.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong phiên
họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trong đó có 3 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa: Một là, cùng với diệt
giặc đói phải diệt giặc dốt; hai là, phải giáo dục tinh thần cho nhân dân; ba
là, thực hiện tự do tín ngưỡng, tơn giáo.
Đường lối văn hóa kháng chiến dần hình thành và được thể hiện rõ
trong bức thư về “Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong cơng cuộc cứu nước và
xây dựng nước hiện nay” của Tổng Bí thư Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí
12
Minh ngày 16-11-1946. Trong bộn bề công việc của Nhà nước chống lại giặc
đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội
nghị Văn hóa tồn quốc lần thứ nhất khai mạc ngày 24-11-1946 tại Nhà hát
Lớn thành phố Hà Nội. Theo kế hoạch, Hội nghị làm việc trong 3 ngày, nhưng
do tình hình chiến sự căng thẳng tại Hải Phịng và đang có nguy cơ bùng nổ
sớm ở Hà Nội nên đã bế mạc ngay sau một ngày làm việc khẩn trương, hết
sức bổ ích. Hội nghị đón tiếp hơn 200 nhà hoạt động văn hóa tiêu biểu trong
cả nước tham dự. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của
dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngồi,
tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được
tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng
tự chủ, độc lập”. Người khẳng định: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân
đi”. Báo cáo của Ủy ban vận động văn hóa tồn quốc nêu bật những thành
tích đã đạt được, đồng thời kêu gọi tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và
đề ra nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam trong tình hình mới. Hội nghị bầu Ủy
ban Văn hóa tồn quốc gồm 15 ủy viên chính thức và 5 ủy viên dự khuyết.
Thành công to lớn của Hội nghị đã đặt cơ sở quan trọng cho nền văn hóa mới
ở Việt Nam.
Vẫn trong những năm tháng đầy gian khổ chống thực dân Pháp xâm
lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo tổ chức Hội nghị Văn hóa
tồn quốc lần thứ hai, họp từ ngày 16 đến 20-7-1948 tại Việt Bắc. Trong thư
gửi các đại biểu tham dự Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong
sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần
rất quan trọng... Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng,
chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn
để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”.
Ngày 18-7-1948, thay mặt Đảng ta, Tổng Bí thư Trường Chinh trình
bày báo cáo quan trọng tại Hội nghị với tên gọi “Chủ nghĩa Mác và văn hóa
Việt Nam”. Báo cáo đã hệ thống hóa, cụ thể hóa và phát triển các quan điểm,
13
nguyên tắc, phương châm của Đề cương Văn hóa Việt Nam (năm 1943) của
Đảng, có giá trị như là Cương lĩnh văn hóa của Đảng thời kỳ kháng chiến,
kiến quốc. Báo cáo nêu 6 nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa:
1- Xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân
tộc, cổ động văn hóa cứu quốc;
2- Xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc,
khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là dân tộc, dân chủ;
3- Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc
học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ;
4- Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới;
5- Phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa
hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của tàn dư văn hóa thực dân, phản động, học
cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới;
6- Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc
kháng chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.
Ba ngày sau Hội nghị Văn hóa tồn quốc lần thứ hai là Hội nghị Văn
nghệ toàn quốc được tổ chức từ ngày 23 đến 25-7-1948. Hơn 80 văn nghệ sĩ
đại biểu cho các ngành văn học, sân khấu, âm nhạc, kiến trúc, mỹ thuật từ các
nẻo đường kháng chiến đã về dự Hội nghị. Tại sự kiện quan trọng này, Hội
Văn nghệ Việt Nam được thành lập, là sự tiếp nối tốt đẹp Hội Văn hóa cứu
quốc được thành lập năm 1943.
Từ năm 1950 trở đi, mơ hình xây dựng văn hóa kháng chiến có sự điều
chỉnh, hình thức “hội nghị văn hóa tồn quốc” khơng cịn được sử dụng
nhưng đường lối, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của văn hóa, văn nghệ tiếp
tục được bổ sung, phát triển trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội
họa (năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng
là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Người khẳng định
rõ vai trò xung kích của văn hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc. Văn hóa
cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự... phải tạo thành những mặt
14
trận có sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. “Văn
hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể đứng ngồi, mà phải
ở trong kinh tế và chính trị”.
Văn kiện Đại hội III của Đảng (9-1960) nêu rõ đường lối xây dựng nền
văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách
mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và
cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hóa,
tư tưởng, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc,
khoa học, đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định xây
dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới, tiến hành đấu tranh chống tư
tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ V của Đảng (3-1982) chỉ rõ nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng là
nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và
tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
vô sản. Đại hội V của Đảng cũng trình bày sâu sắc nội hàm khái niệm “Con
người mới xã hội chủ nghĩa” và đưa ra phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm văn hóa”.
Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là thắng lợi của đường lối
chính trị, quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và
những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh ưu điểm, thành tựu to lớn, quan trọng đã nêu của chặng đường mấy
chục năm qua, công tác lãnh đạo, quản lý và thực hành văn hóa của ta cũng
bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng,
văn hóa giai đoạn này cũng bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất
mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ bóc lột càng nhanh càng
tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình
15
độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất. Chiến tranh cùng với cơ chế quản
lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa
đã làm giảm động lực phát triển văn hóa, giáo dục; kìm hãm năng lực tự do
sáng tạo của văn nghệ sỹ và rộng ra là kìm hãm sự phát triển của đất nước.
2.2 Quan điểm của Đảng về cơng tác văn hóa văn nghệ thời kỳ đổi
mới đến nay.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng, Nhà nước
ta trăn trở tìm con đường đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về
kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) khẳng định rõ quan
điểm này. Từ đổi mới tư duy về kinh tế, chính trị, Đảng ta xác lập cơ sở lý
luận và thực tiễn để đổi mới văn hóa. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm
1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được Đảng quan tâm sâu sắc hơn. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông
qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) xác định “nền văn hóa mà chúng ta xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc
trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy, đến Cương lĩnh chính trị (1991) nhận thức về xây dựng, phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu,
vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
được khẳng định rõ hơn. Quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn
trong các văn kiện của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, lần đầu
đưa khái niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội”. Nghị quyết khẳng định: “Nền văn hóa mà Đảng
ta lãnh đạo tồn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”.
16
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây không
chỉ là một văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà cịn thể hiện tư duy
lý luận văn hóa một cách tồn diện và sâu sắc trong giai đoạn
cách mạng mới.
Từ nhận thức văn hóa bao gồm: tư tưởng, học thuật, nghệ thuật (Đề
cương Văn hóa Việt Nam năm 1943) đến việc mở rộng nội hàm văn hóa bao
gồm: tư tưởng, đạo đức, lối sống, khoa học, giáo dục - đào tạo, thông tin đại
chúng, văn học - nghệ thuật, tơn giáo, tín ngưỡng... Từ nền văn hóa mới với
các tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng; dân tộc là hình thức, tân dân chủ
là nội dung (năm 1943) đến xác định nền văn hóa của ta “có nội dung xã hội
chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc” (năm 1982),
đã phát triển lên bước mới khi khẳng định nền văn hóa của ta mang tính dân
tộc, hiện đại, nhân văn (Hiến pháp năm 1992) xây dựng, phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII, năm 1998), xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại (Hiến pháp năm
2013). Từ quan niệm “Phải hồn thành cách mạng văn hóa thì mới hoàn thành
được cuộc cải tạo xã hội” (năm 1943), cách mạng tư tưởng - văn hóa là động
lực (Đại hội IV) đến “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII, năm 1998)... Từ ba nguyên tắc vận động cách tân
văn hóa: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa (năm 1943) đến tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế
giới quan Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp
của tất cả các dân tộc trong nước. “Tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
17
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”,...
Như vậy, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã bổ sung và phát triển
toàn diện, sâu sắc đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam phù
hợp với thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới, phù hợp với xu hướng phát
triển của thời đại từ quan niệm về văn hóa, vị thế, vai trị của văn hóa đối với
sự phát triển; từ quan điểm chỉ đạo đến mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp
cơ bản để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội
IX của Đảng (4-2001), yêu cầu “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận
động “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống
văn minh và gia đình văn hóa..., làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân
cư, từng gia đình, từng người, hồn thiện hệ giá trị mới của con người Việt
Nam... Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và
sinh hoạt của nhân dân”. Để thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật,
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 23 NQ/TW, ngày 16-6-2008, về “Tiếp tục
xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết chỉ
rõ: “Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa
dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng
tác, sự tìm tịi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ
thuật nước nhà”.
Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển
sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Tinh thần cơ bản
của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục được khẳng định trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI của Đảng, đặc biệt, được
nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
18
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng
định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân
văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định “Xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến
lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn
mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế”.
Cuối nhiệm kỳ khóa XII, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW,
ngày 4-6-2020, về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, trong đó đã
xác định các nội dung, định hướng lớn: Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn
hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của Kết luận số 76-KL/TW tiếp tục
được khẳng định, nâng cao trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Tập
trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá
trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia
đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi
dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu
19
nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm
xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”. Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về
văn hóa”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hịa với
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng
ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại,
phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm
mỹ ngày càng cao. Đảng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và
khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ mơi trường là một trong
những vấn đề sống cịn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình
hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện
bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh”.
CHƯƠNG 3.
20
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CƠNG TÁC VĂN HĨA VĂN NGHỆ TẠI
TỈNH ST HIỆN NAY
3.1 Khái quát về văn hóa tại tỉnh ST
ST là một trong 13 tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng sông Cửu Long,
nằm cuối hạ lưu sông Hậu, có diện tích tự nhiên 3.311,76 km2, dân số gần
1.300.000 người. Tỉnh hiện có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm: thành
phố ST, 2 thị xã và 8 huyện.
Cùng với những đặc trưng chung của vùng đất Nam bộ về du lịch, ST
vẫn có các tiềm năng riêng để phát triển du lịch, nhất là du lịch văn hóa lễ hội,
tìm hiểu phong tục tập quán, thưởng thức các loại hình nghệ thuật văn hóa,
thể thao truyền thống của 3 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa. ST cịn có điều kiện
để phát triển loại hình du lịch sinh thái nghỉ dưỡng với ưu thế là có các dãy cù
lao dọc theo sông Hậu dài hơn 50 km ra tận biển Đông và trên 1.500 ha rừng
ngập mặn ven biển. ST cịn có các làng nghề truyền thống như đan đát, làm
muối, bánh pía, lạp xưởng, dệt chiếu,... có thể khai thác du lịch.
ST có 08 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và gần 30 di tích lịch sử
văn hóa, kiến trúc cấp tỉnh. Trong đó, có những di tích là điểm đến khơng thể
thiếu khi du khách đến ST, nổi bật là chùa Mahatup (Dơi), chùa Kh’leang,
chùa Đất Sét, Khu Di tích Đón đồn tù Chính trị Cơn Đảo, Khu Căn cứ Tỉnh
ủy rừng tràm Mỹ Phước,v.v…
Ngồi ra, ST cũng có nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật dân tộc đặc
sắc. Đó là sân khấu Rơ Băm, sân khấu Dù kê, các điệu múa dân gian của dân
tộc Khmer, dân tộc Hoa. Tỉnh cũng rất quan tâm bảo tồn và phát huy những
loại hình văn hóa nghệ thuật độc đáo này để phát triển văn hóa dân tộc và
phục vụ du lịch.
3.2 Những kết quả đạt được trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ
Trong các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ 2021-2025, Đảng bộ tỉnh ST luôn
coi trọng, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các lĩnh vực khoa giáo - văn hóa, văn
nghệ. Nhiều nghị quyết, chương trình được ban hành như các Nghị quyết về
21
phát triển giáo dục, về phát triển nguồn nhân lực, về phát triển du lịch, về xây
dựng nông thôn mới, về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, về chuyển đổi số...; các Chương trình hành động về đổi mới giáo dục
và đào tạo, về cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và
cơng tác dân số trong tình hình mới, về phát triển khoa học và cơng nghệ, về
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…
Tỉnh ủy ST đã lãnh đạo, chỉ đạo học tập, quán triệt, định hướng tun
truyền, cụ thể hóa, hướng dẫn, kiểm tra, đơn đốc việc triển khai thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 –
2025 trên lĩnh vực khoa giáo – văn hóa, văn nghệ; tuyên truyền bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026; các văn bản về thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách phịng,
chống COVID-19 với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và có nhiều đổi
mới sáng tạo, đem lại hiệu quả thiết thực, như truyên truyền trên báo chí, các
phương tiện truyền thông, qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã
hội như fanpage, facebook, zalo… Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tham mưu Tỉnh
ủy chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội đại biểu Hội Khuyến học tỉnh ST lần
thứ IV nhiệm kỳ 2020 -2025; xây dựng ban hành Nghị quyết về phát triển
nguồn nhân lực tỉnh ST giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và các
báo cáo sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng năm 2021 kịp thời,
chất lượng.
Để nâng cao hiệu quả phối hợp, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa Ban Tuyên
giáo - cơ quan tham mưu của cấp ủy - với các đơn vị khối khoa giáo - văn
hóa, văn nghệ. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã phối hợp tốt, thường xuyên với các
đơn vị trong khối. Nhờ đó, các lĩnh vực khoa giáo - văn hóa, văn nghệ phát
triển khá tồn diện.
Quy mơ, chất lượng giáo dục, đào tạo được giữ vững và từng bước
nâng lên. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 75,16%; tỷ lệ tốt nghiệp đạt
99,55%, kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 diễn ra an toàn, nghiêm túc, đảm
22
bảo khách quan, trung thực, đúng quy định, thực hiện nghiêm Thơng điệp 5K
của Bộ Y tế; triển khai hình thức học trực tuyến cho học sinh THCS và THPT;
các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh đều được cơng nhận hồn thành
phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên;
tuổi thọ trung bình đạt 74,4 tuổi; duy trì vững chắc tỉ lệ toàn dân tham gia bảo
hiểm y tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới và bảo vệ cuộc sống của
nhân dân; cơng tác phịng, chống và kiểm soát COVID-19 được triển khai
nghiêm túc, quyết liệt.
Hoạt động khoa học và công nghệ chuyển mạnh sang thực hiện các đề
tài, dự án ứng dụng, sản phẩm OCOP, góp phần tích cực vào phát triển cơng
nghiệp, nơng nghiệp và văn hóa, xã hội; tồn tỉnh hiện có 27 đề tài, dự án tiếp
tục thực hiện đúng tiến độ; kết quả phát triển thêm 57 sản phẩm OCOP, tăng
số lượng sản phẩm OCOP tồn tỉnh lên 156 sản phẩm (trong đó, 01 sản phẩm
được Hội đồng đánh giá xếp hạng quốc gia công nhận đạt chuẩn 5 sao, 27 sản
phẩm 4 sao, 128 sản phẩm 3 sao, của 85 doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh).
Quản lý Nhà nước về môi trường được tăng cường; ý thức, trách nhiệm
của nhân dân được nâng lên. Tỷ lệ rác thải công nghiệp, dịch vụ, nông thôn
được thu gom, xử lý đạt cao. Phong trào thể dục, thể thao không ngừng phát
triển. Việc luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên đã trở thành ý thức tự
giác và là nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày, không thể thiếu của cán bộ,
đảng viên và nhân dân, góp phần phát triển tồn diện cả về trí lực lẫn thể lực;
các môn thể thao trọng điểm, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng thể thao được
đầu tư.
Tổ chức nhiều giải thể thao trong tỉnh, tham dự các giải trong hệ thống
thi đấu quốc gia gồm các môn Bóng rổ, Cầu mây, Bóng chuyển bãi biển, Bi
sắt, Điền kinh, Judo, Cử tạ. Cơng tác gia đình tiếp tục triển khai nhiều hoạt
động thiết thực, thông qua Phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa” đã phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kết quả này thực sự là
23
động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo nền tảng sớm
đưa tỉnh ST phát triển nhanh và bền vững.
Các hoạt động văn học - nghệ thuật luôn bám sát các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, phục vụ kịp thời, có hiệu quả nhiệm vụ
chính trị của địa phương; phối hợp với các đơn vị trong tỉnh tham mưu Tỉnh
ủy tổ chức thành công Hội báo xuân Tân Sửu năm 2021; thực hiện tốt các
cuộc trưng bày triển lãm ảnh nghệ thuật, tăng cường hoạt động sáng tác,
quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật phục vụ các ngày lễ, kỷ niệm
trọng đại của đất nước. Năm 2021 là năm thứ 4 tỉnh tổ chức cuộc thi sáng tác
tác phẩm văn học, nghệ thuật về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”. Cuộc thi thu hút 123 tác phẩm của 89 tác giả tham
gia (trong đó có 78 tác phẩm Ký văn học của 65 tác giả và 45 Ca khúc của 24
tác giả.....). Cuộc thi đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của lực lượng văn
nghệ sĩ, những người sáng tác khơng chun trong và ngồi tỉnh.
Trước tình hình COVID-19 diễn biến phức tạp, Tỉnh ủy ST đã chỉ đạo
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, hướng dẫn các địa phương, ngành văn hóa - thể thao
và du lịch triển khai thực hiện tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tuyền
truyền cổ động trực quan chào mừng các sự kiện chính trị, các ngày lễ, kỷ
niệm của đất nước, của dân tộc phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ nhân dân,
đặc biệt là chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021-2026; lễ hội đồng bào dân tộc; tuyên truyền, phòng chống
COVID-19, như: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh đã tập trung vận động các văn
nghệ sĩ đẩy mạnh hơn nữa việc sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật góp
phần tuyên truyền, cổ động phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trên địa bàn
tỉnh, nhất là trong việc thực hiện “5K” và tiêm vắc-xin; Đài Phát thanh và
Truyền ST phát sóng chương trình văn nghệ, phim tư liệu theo hình thức trực
tuyến nhân kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, kỷ
niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, lễ hội đồng bào dân tộc... Ngoài ra, để
đáp ứng nhu cầu văn hóa của người dân, Đồn Nghệ thuật Khmer tỉnh thực
24
hiện đăng 54 tiết mục (37 ca khúc, 10 ca khúc chome reang basak, 04 tiết mục
múa, 03 tiết mục hòa tấu nhạc) và 03 vở diễn Dù kê trên kênh youtube của
Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh; tổ chức ghi hình 06 tiết mục phát sóng trên
kênh youtube của Đồn Nghệ thuật Khmer tỉnh nhằm phục vụ bà con đồng
bào Khmer trong dịp lễ Sene Đơl Ta; thu hình 03 chương trình ca nhạc để
phát sóng phục vụ bà con vùng đồng bào Khmer Nam bộ và xây dựng 02 tác
phẩm mới với nội dung tuyên truyền phòng, chống COVID-19 phát sóng trên
Đài Phát thanh và Truyền hình ST và trên kênh youtube của Đoàn Nghệ thuật
Khmer tỉnh.
Thực hiện Đề án tổ chức định kỳ ngày hội giao lưu liên hoan Văn hóa,
Thể thao và Du lịch vùng đồng bào các dân tộc thiểu số theo khu vực và toàn
quốc giai đoạn 2021 - 2030 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và điều tra,
thống kê lễ hội trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố. Kết quả, UBND tỉnh
ban hành quyết định công nhận 02 di tích cấp tỉnh (di tích lịch sử cách mạng
Đình thần Nguyễn Trung Trực và di tích kiến trúc nghệ thuật Ba Thắc Cổ
Miếu).
3.3 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được. Hiện nay, cơng tác văn hóa, văn
nghệ của tỉnh đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức vừa mang tính cấp
bách, vừa mang tính lâu dài: Vấn đề mơi trường; vấn đề đảm bảo an tồn vệ
sinh thực phẩm; phân luồng học sinh; chất lượng khám, chữa bệnh tại một số
cơ sở y tế chưa theo kịp yêu cầu, thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch
từng lúc, từng nơi chưa chặt chẽ, dẫn đến dịch lây lan; tỷ lệ tham gia bảo
hiểm y tế chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra; việc nhân rộng kết quả nghiên
cứu trong sản xuất, đời sống ở một số địa phương chưa được đẩy mạnh; công
tác bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa, di sản văn hóa chưa được
đầu tư đúng mức, nhiều di tích đang bị xuống cấp nghiêm trọng, một số loại
hình văn hóa truyền thống có nguy cơ mai một nhưng chưa được đầu tư bảo
tồn, khôi phục; chưa khai thác, phát huy có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh
về văn hoá đặc sắc của 3 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa trong thu hút khách du
25
lịch. Hoạt động của các phân hội văn học - nghệ thuật chưa đồng đều; việc tổ
chức các trại sáng tác, đi thực tế, tập huấn, hội thảo... chưa thường
xuyên. Trình độ, năng lực cán bộ ở một số lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu, đặc
biệt ở tuyến cơ sở.
3.4 Giải pháp nâng cao cơng tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn
tỉnh ST trong thời gian tới
Thứ nhất, tiếp tục tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền sâu sắc
nội dung các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Đại hội XIV của Đảng bộ tỉnh
và các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy thuộc nhóm lĩnh vực khoa giáo;
bám sát nhóm mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của các nghị quyết và căn cứ vào
điều kiện thực tiễn của tỉnh để xây dựng kế hoạch, chương trình và tổ chức
thực hiện; chú trọng đúng mức công tác định hướng, thẩm định, sơ kết, tổng
kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao trách nhiệm, tăng cường phối hợp, đổi mới
nội dung và phương thức phối hợp giữa Ban Tuyên giáo và các đơn vị trong
khối khoa giáo, gắn việc triển khai Quy chế phối hợp khối khoa giáo với thực
hiện Quy chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý Nhà
nước cùng cấp trong thực thi pháp luật, triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, giải quyết các vấn đề nổi cộm, nhân dân quan tâm theo tinh thần
Quyết định số 238-QĐ/TW ngày 30/9/2020 của Ban Bí thư.
Thứ ba, đổi mới phương thức hoạt động, đẩy mạnh công tác cải cách
hành chính; tăng cường tính chủ động, đưa cơng tác văn hóa, văn nghệ vào
chiều sâu, đặc biệt là tạo chuyển biến quan trọng trong việc hướng công tác
khoa giáo về cơ sở, hướng hoạt động vào thực tiễn của địa phương để khơi
dậy các nhân tố tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Thứ tư, thường xun củng cố, kiện tồn, phân cơng nhiệm vụ cụ thể
cho cán bộ làm công tác tham mưu về lĩnh vực văn hóa, văn nghệ ở Ban tuyên
giáo các cấp, nhất là đối với Ban tuyên giáo đảng ủy xã, phường, thị trấn. Chỉ
đạo ban tuyên giáo cơ sở phối hợp với các ngành trong khối khoa giáo cùng