MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu
khách quan, gắn với sự hình thành và phát triển của đất nước. Thuế là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách nhà nước, phản ánh bản chất của chế độ xã hội. Do vậy để
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, đồng thời động viên được sự đóng góp của
tồn dân trong việc tạo ra một nguồn lực tài chính đủ mạnh để phát triển kinh tế,
xây dựng đất nước đòi hỏi phải thực hiện vấn đề quản lý thuế một cách hiệu quả
với một trong những nội dung trọng tâm là kiểm tra, thanh tra thuế.
Hoạt động quản lý nhà nước chính là sự tác động có định hướng của chủ
thể quản lý - cơ quan thuế tới các đối tượng quản lý - đối tượng nộp thuế nhằm
đạt được mục tiêu động viên một phần thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà
nước. Do vậy, kiểm tra, thanh tra thuế chính là một cơng đoạn và là một yếu tố
cấu thành của hoạt động lãnh đạo quản lý nhà nước của cơ quan thuế. Hoạt động
quản lý của cơ quan thuế bao gồm từ việc xây dựng các mục tiêu kế hoạch trong
giai đoạn nhất định đến việc tổ chức để thực hiện các mục tiêu kế hoạch đó và
sau cùng là tiến hành kiểm tra, thanh tra thuế.
Trong những năm vừa qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế cũng đã đạt
được những thành tựu đáng kể, góp phần ngăn ngừa các vi phạm thuế, thu hồi lại
các nguồn thu thuế đã bị mất cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh đó
cũng cịn tồn tại những hạn chế của công tác kiểm tra, thanh tra, nguyên nhân
gây ra tình trạng này là do hệ thống pháp luật về quản lí thuế cịn yếu kém, khó
thực hiện, khó kiểm tra, giám sát và chưa phù hợp với nhu cầu của xã hội. Trước
thực trạng đó, để làm rõ hơn các quy định pháp luật về công tác kiểm tra, thanh
tra thuế em xin lựa chọn: “Thực trạng pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế và
một số kiến nghị”.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về kiểm tra, thanh tra thuế
1. Khái niệm kiểm tra, thanh tra thuế
1.1. Kiểm tra thuế
Kiểm tra thuế là hoạt động thường xuyên mang tính nghiệp vụ của cơ quan
quản lý thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của các thơng tin, chứng từ
trong hồ sơ thuế hoặc đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng
hơn thanh tra rất nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là nhà nước hoặc cũng
có thể là một chủ thể phi nhà nước; chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.
1.2. Thanh tra thuế
Thanh tra thuế là hoạt động của cơ quan quản lý thuế nhằm đánh giá việc
chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác
định hành vi vi phạm pháp luật về thuế dựa trên cơ sở phân tích thơng tin, dữ liệu
liên quan đến người nộp thuế.
Có thể coi thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn,
toàn diện hơn. Thanh tra thuế được thục hiện theo định kỳ đối với người nộp thuế
2
lớn, nghành nghề kinh doanh đa dạng, quy mô lớn, phức tạp hoặc đối với người
nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế và thành tra thuế là để giải quyết
các kiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý
thuế các cấp hoặc Bộ trưởng bộ tài chính.
2. Vai trò của thanh tra, kiểm tra thuế
Thanh tra, kiểm tra thuế là phương tiện phòng ngừa hành vi vi phạm pháp
luật và tội phạm nảy sinh trong hoạt động quản lý thuế. Đảm bảo các đối tượng
nộp thuế cũng như cơ quan nhà nước nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của
pháp luật về thuế và công tác quản lý thu ngân sách. Từ đó phịng ngừa, kịp thời
phát hiện và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật thuế, ngăn chặn, phòng ngừa các
hành vi tiêu cực, tham nhũng.
Thanh tra, kiểm tra thuế góp phần hồn thiện cơ chế chính sách pháp luật
về thuế. Thơng qua cơng tác kiểm tra, thanh tra, đánh gia việc chấp hành các quy
định pháp luật về thuế nhằm phát huy tích cực, nhanh chóng hồn thiện, đảm bảo
hiệu quả, hiệu lực của các chính sách thuế mà nhà nước ban hành. Đảm bảo sự
công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân thực hiên nghĩa vụ nộp thuế.
Thanh tra, kiểm tra thuế có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trach
nhiệm của cơ quan quản lí thuế, cụ thể là các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác
thanh tra, kiểm tra thuế, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy định pháp
luật. Nhanh chóng ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tham nhũng, xây dựng đội
ngũ cãn bộ thuế trong sạch, giỏi chuyên môn, giỏi nghiệp vụ.
3
II. Thực trạng pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế ở Việt Nam
1. Quy định pháp luật hiện hành về kiểm tra, thanh tra thuế
Vấn đề kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế được quy định
tại Luật quản lý thuế năm 2019 và hướng dẫn thi hành tại Nghị định số
126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 quy định chi tiết một điều của luật
quản lý thuế.
Trước đây, việc kiểm tra, thanh tra thuế ở nước ta được thực hiện trên cơ
sở các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra nói chung. Những quy định
được áp dụng có việc kiểm tra, thanh tra trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy
việc áp dụng trong lĩnh vực đặc thù như lĩnh vực thuế gặp rất nhiều khó khăn do
thiếu tính cụ thể, chi tiết. Từ đó, chưa thực sự tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho
hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế diễn ra một cách hiệu quả.
Việc Luật quản lý thuế năm 2019 đã dành nguyên chương XIII từ Điều
107 đến Điều 123 quy định về kiểm tra, thanh tra thuế đã khắc phục được những
hạn
4
chế pháp luật trước đây, tạo được một nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động
kiểm tra, thanh tra đạt được hiệu quả đáng kể. Trên cơ sở các quy định này, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, so với
trước đây, pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế hiện hành đã được hoàn thiện
đáng kể. Cụ thể là:
1.1. Nguyên tắc kiểm tra, thanh tra thuế
Luật quản lý thuế đã quy định các nguyên tắc cơ bản về kiểm tra, thanh tra
thuế nhằm định hướng cho việc đổi mới, nâng cao hiệu quả của công tác kiểm
tra, thanh tra thuế. Các nguyên tắc kiểm tra, thanh tra thuế1 gồm:
Thứ nhất, áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế và ứng dụng công
nghệ thông tin trong kiểm tra thuế, thanh tra thuế. Thứ hai, tuân thủ quy định của
Luật quản lý thuế và quy định khác của pháp luật có liên quan. Thứ ba, khơng
cản trở họat động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế.
Thứ tư, khi kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế, thủ trưởng
cơ quan quản lý thuế phải ban hành quyết định kiểm tra, thanh tra. Thứ năm, việc
kiểm tra thuế, thanh tra thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác, trung thực
nội dung các chứng từ, thông tin, hồ sơ mà người nộp thuế đã khai, nộp, xuất
trình với cơ quan quản lý thuế; đánh giá việc tuân thủ pháp luật về thuế và quy
định khác của pháp luật có liên quan của người nộp thuế để xử lý về thuế theo
quy định của pháp luật. Theo tinh thần của các nguyên tắc trên có thể thấy pháp
luật đã xác định được đối tượng kiểm tra, thanh tra một cách tập trung, khơng
dàn trải, đó là tập trung vào các đối tượng nghi ngờ là có vấn đề. Đối tượng cần
kiểm tra, thanh tra chủ yếu được xác định qua việc phân tích thơng tin về người
nộp thuế và các thơng tin có liên quan khác như thơng qua các chứng từ, thông
1 u 107 Lu
năm 2020.
5
tin, hồ sơ mà người nộp thuế đã khai, nộp, xuất trình với cơ quan quản lý thuế,
đánh giá thơng tin theo phương pháp đánh giá rủi ro, xác định, lựa chọn đúng đối
tượng có mức độ rủi ro
cao nhất để tiến hành kiểm tra, thanh tra. Đồng thời, đảm bảo hoạt động cho các
đối tượng bị thanh tra, kiểm tra…
Kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản
lý chuyên ngành nên vừa có những đặc điểm của kiểm tra, thanh tra nói chung
vừa có tính đặc thù của cơng tác quản lý thuế. Bởi vậy, nguyên tắc áp dụng pháp
luật trong kiểm tra, thanh tra thuế là ưu tiên áp dụng các quy định của Luật quản
lý thuế đồng thời tuân thủ các quy định khác của pháp luật kiểm tra, thanh tra1.
1.2. Quy định về nội dung của công tác kiểm tra, thanh tra thuế
Luật quản lý thuế năm 2019 đã quy định rõ về nội dung của công tác kiểm
tra thuế bao gồm:
Kiểm tra thuế tại trụ sở của cơ quan quản lý thuế: khi các hồ sơ thuế của
người nộp thuế gửi đến cơ quan thuế, công chức thuế thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra thuế căn cứ vào mức độ rủi ro về thuế của hồ sơ thuế được phân loại từ cơ sở
dữ liệu công nghệ thông tin hoặc theo phân công của thủ trưởng cơ quan thuế
thực hiện phân tích hồ sơ thuế theo mức độ rủi ro về thuế để đề xuất kế hoạch
kiểm tra tại trụ sở của cơ quan thuế hoặc xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều
109 Luật quản lý thuế2.
Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế: Việc kiểm tra thuế tại trụ sở
của người nộp thuế được thực hiện trong các trường hợp: (1) Hồ sơ thuộc diện
kiểm tra trước hoàn thuế; kiểm tra sau hoàn thuế đối với hồ sơ thuộc diện hoàn
1 Ths Vũ Ngọc Hà, Pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế ở Việt Nam, Tạp chí luật học số 4/2009, tr.15.
Khoản 1 Điều 109 Luật quản lý thuế năm 2019.
6
2
thuế trước; (2) Người nộp thuế khơng giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu
hoặc trường hợp người nộp thuế đã giải trình và bổ sung thơng tin, tài liệu nhưng
không chứng minh được số tiền thuế đã khai là đúng hoặc cơ quan thuế không đủ
căn cứ để ấn định số thuế phải nộp và các trường hợp kiểm tra trước khi hoàn
thuế theo quy định; (3) Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở của người khai hải
quan theo
quy định của pháp luật về hải quan; (4) Có dấu hiệu vi phạm pháp luật; (5) Được
lựa chọn theo kế hoạch, chuyên đề; (6) Theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước,
Thanh tra nhà nước, cơ quan khác có thẩm quyền; (7) Chia, tách, sáp nhập, hợp
nhất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, giải thể, chấm dứt hoạt động, cổ phần
hóa, chấm dứt hiệu lực mã số thuế, chuyển địa điểm kinh doanh và các trường
hợp kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, trừ trường
hợp giải thể, chấm dứt hoạt động mà cơ quan thuế khơng phải thực hiện quyết
tốn thuế theo quy định của pháp luật1.
Việc kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế chỉ được thực hiện khi có
quyết định bằng văn bản của thủ trưởng cơ quan thuế. Luật quản lí thuế có quy
định cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn kiểm tra thuế tại trụ sở của
người nộp thuế, cách thức lập, nội dung của biên bản kiểm tra thuế, việc xử lí kết
quả kiểm tra thuế. Ngồi ra, Luật quản lí thuế cịn quy định rõ quyền và nghĩa vụ
của người nộp thuế trong kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế; nhiệm vụ,
quyền hạn của thủ trưởng cơ quan quản lí thuế ra quyết định kiểm tra thuế và
cơng chức quản lí thuế trong việc kiểm tra thuế2.
1 Khoản 1 Điều 110 Luật quản lý thuế năm 2019.
2 Điều 111, Điều 112 Luật quản lý thuế năm 2019.
7
Đồng thời vấn đề về những nội dung thanh tra thuế cũng được Luật quản
lý thuế quy định khá chi tiết và hợp lý bao gồm chỉ rõ các trường hợp thanh tra
thuế1, có sự phân tách hai loại thanh tra thuế là thanh tra thuế theo kế hoạch và
thanh tra thuế không theo kế hoạch với các đối tượng được xác định rõ.
Thanh tra thuế theo kế hoạch chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có
nghành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng. Thanh tra định kỳ
một năm không quá một lần và được thực hiện căn cứ vào kế hoạch thanh tra
hàng năm đã được phê duyệt. Việc lập kế hoạch thanh tra phải dựa trên cơ sở
phân tích thơng tin về người nộp thuế, từ đó phát hiện, lập danh sách người nộp
thuế có dấu
hiệu bất thường trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế để lựa chọn đối tượng lập kế
hoạch thanh tra. Kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế cấp dưới phải được gửi đến
cơ quan thuế cấp trên. Trường hợp có sự trùng lặp về đối tượng thanh tra thì cơ
quan thuế cấp trên sẽ thực hiện kế hoạch thanh tra với đối tượng thanh tra đó 2.
Trường hợp cơ quan thanh tra nhà nước có kế hoạch thanh tra về thuế trùng với
kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế thì ưu tiên kế hoạch thanh tra thuế của cơ
quan thanh tra nhà nước.
Thanh tra không theo kế hoạch sẽ áp dụng cho các đối tượng sau: Người
nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế; Thanh tra để giải quyết khiếu nại,
tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lí thuế các cấp hoặc bộ
trưởng Bộ tài chính.
Luật quản lý thuế năm 2019 xác định một cách rõ ràng, minh bạch quyền,
nghĩa vụ của đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế và nhiệm vụ, quyền hạn của các
1 u 113 Lu
năm 2019.
2 Quy trình thanh tra thuế Ban hành kèm theo Quyết định số 1404/QĐ-TCT ngày 28 tháng 07 năm 2015 của
Tổng cục trưởng Tổng cục thuế.
8
chủ thể có thẩm quyền1. Điều này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
kiểm tra, thanh tra có hiệu quả.
1.3. Quy định về các biện pháp áp dụng trong thanh tra đối với
trường hợp có dấu hiệu trốn thuế
Luật quản lý thuế năm 2019 dành mục 4 chương XII để quy định các biện
pháp áp dụng trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế. Cụ
thể: Khi người nộp thuế có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế liên quan đến tổ
chức, cá nhân khác hoặc khi dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế có tính chất phức
tạp, người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp sau: (1) Thu thập thông
tin liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế 2; (2) Tạm giữ tài liệu, tang vật
liên quan
đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế3; (3) Khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên
quan đến hành vi trốn thuế4.
1.4. Quy định về xử lý kết quả kiểm tra, thanh tra thuế
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của công tác kiểm tra thanh tra thuế, Luật
quản lý thuế năm 2019 quy định khá cụ thể về việc xử lý kết quả kiểm tra, thanh
tra thuế. Cụ thể như sau:
Căn cứ vào kết quả kiểm tra, thanh tra thuế, thủ trưởng cơ quan quản lí
thuế ra quyết định xử lí về thuế, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền
1 Các Điều 111, 112, 116, 117, 118 Luật quản lý thuế năm 2019.
2 u 121 Lu
năm 2019.
3 Điều 122 Luật quản lý thuế năm 2019.
4 Điều 123 Luật quản lý thuế năm 2019.
9
hoặc đề nghị người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thuế. Trường hợp kiểm tra thuế, thanh tra thuế mà phát hiện hành
vi trốn thuế có dấu hiệu tội phạm thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày
phát hiện, cơ quan quản lí thuế chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để điều
tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Cơ quan quản lí thuế có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan điều tra trong việc thực hiện điều tra tội phạm về
thuế theo quy định của pháp luật.
Luật quản lý thuế năm 2019 chỉ rõ 3 hành vi vi phạm pháp luật về thuế của
người nộp thuế bao gồm: Vi phạm các thủ tục thuế1; Hành vi khai sai dẫn đến
thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hồn, khơng
thu2; Hành vi trốn thuế3.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ các hành vi vi phạm của ngân
hàng thương mại, người bảo lãnh nộp tiền thuế trong lĩnh vực quản lý thuế 4; hành
vi vi phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực quản lý thuế 5. Như
vậy, có thể thấy pháp luật đã bao quát hầu như các đối tượng có thể vi phạm pháp
luật về
thuế cũng như các hành vi vi phạm pháp luật về thuế mà các đối tượng này có
thể mắc phải.
Điều 138 Luật quản lý thuế năm 2019 đã xác định cụ thể các chế tài áp
dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Cách thức cử lý đối với các đối
tượng như ngân hàng thương mại, người bảo lãnh nộp tiền thuế trong lĩnh vực
1 Điều 141 Luật quản lý thuế năm 2019.
2 Điều 142 Luật quản lý thuế năm 2019.
3 Điều 143 Luật quản lý thuế năm 2019.
4 Điều 144 Luật quản lý thuế năm 2019.
5 u 145 Lu
năm 2019.
10
quản lý thuế; tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực quản lý thuế cũng
được xác định khá rõ ràng. Vấn đề về thẩm quyền xử phạt, thời hiệu xử phạt và
miễn xử phạt cũng được đề cập đến và quy định khá hợp lý.
2. Thực trạng áp dụng pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế
2.1. Thành tựu đạt được
Về cơ bản có thể thấy vấn đề kiểm tra, thanh tra thuế được quy định khá
đầy đủ, cụ thể, đáp ứng được yêu cầu pháp lý đặt ra đối với vấn đề này.Tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề chưa thực sự hợp lý và cần phải làm rõ hơn.
Pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế vẫn có những lỗ hổng nhất định cần được
hồn thiện. Điều này bộc lộ rõ trong q trình áp dụng pháp luật trong vấn đề
này trong thời gian qua.
Trong thời kỳ trước, do cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm tra, thanh tra
thuế bộc lộ nhiều vấn đề “yếu kém” nên họat động này thực sự chưa phát huy
được vai trị, hiệu quả của nó, chưa thể là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa các
hành vi vi phạm pháp luật thuế như các hành vi trốn thuế, lậu thuế. Hiện nay, với
cơ sở pháp lý cho họat động kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế
được hoàn thiện so với thời kỳ trước và nhiều yếu tố tích cực khác thực trạng
triển khai việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế ở Việt Nam
hiện nay đã có những cải thiện đáng kể, thực sư phát huy được phần nào vai trò
của hoạt động này trong quản lý thuế.
Chỉ sau một năm Luật quản lý thuế có hiệu lực, vấn đề thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm pháp luật thuế đã đạt được một số kết quả nhất định. Ý thức của
11
người nộp thuế trong việc kê khai, nộp thuế tự giác và kịp thời hơn, do đó kết
quả thu ngân sách ở hầu hết các địa phương chuyển biến tốt hơn. Tính đến hết
ngày 31/12/2020, tổng thu ngân sách do ngành Thuế quản lý đạt 1.278.649 tỷ
đồng, bằng 101,9% dự toán (vượt 24.349 tỷ đồng), vượt 175.849 tỷ đồng so với
số ước thu đã báo cáo Quốc hội. Trong đó, thu từ dầu thô đạt 34.576 tỷ đồng,
bằng 98,2% dự toán. Thu nội địa đạt 1.244.073 tỷ đồng, bằng 102% dự toán
(vượt 24.973 tỷ đồng), vượt 173.773 tỷ đồng so với số ước thu đã báo cáo Quốc
hội. So với dự tốn có 55/63 địa phương ước hồn thành và hồn thành vượt mức
dự tốn, trong đó có một số địa phương vượt trên 10% như Ninh Bình, Yên Bái,
Phú Thọ, Hà Tĩnh, Thừa Thiến Huế, Lào Cai… Có 41/63 địa phương có tăng
trưởng thu1.
Mặc dù dịch Covid-19 đã tác động đến tất cả các mặt kinh tế - xã hội, song
với việc triển khai đồng bộ các giải pháp mà trọng tâm là công tác kiểm tra,
thanh tra thuế nên ngành Thuế đã hồn thành vượt dự tốn thu ngân sách được
Quốc hội, Chính phủ giao trong năm 2020. Theo đánh giá của lãnh đạo Tổng cục
Thuế, có được kết quả trên là do ngành Thuế thực hiện đồng bộ các biện pháp
quản lý thu, hỗ trợ người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thanh tra, kiểm tra trong
bối cảnh mới.
Cơ quan thuế đã tăng cường kỷ luật, kỷ cương kiểm tra, thanh tra thuế,
quán triệt các cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, thanh tra thuế tuân thủ
nghiêm ngặt quy trình kiểm tra, thanh tra thuế, quy trình giám sát kiểm tra, thanh
tra, thực hiện việc ghi nhật ký điện tử đầy đủ theo đúng quy định. Kết quả tính
đến ngày 31/12/2020, tồn ngành Thuế đã thực hiện được 83.979 cuộc thanh tra,
kiểm tra, đạt 90,82% kế hoạch năm 2020 và bằng 88,84% so với cùng kỳ năm
1 Kiên Huy, Thanh tra, kiểm tra thuế góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, xem tại
đăng ngày07/02/2021, thời gian truy cập 30/06/2021.
12
2019; kiểm tra được 804.590 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Tổng số tiền kiến
nghị xử lý qua kiểm tra, thanh tra là 71.876,66 tỷ đồng, bằng 114,7% so với cùng
kỳ 2019, trong đó: Tổng số thuế tăng thu qua kiểm tra, thanh tra là 19.867,14 tỷ
đồng, bằng
107,64% so với cùng kỳ năm 2019; giảm khấu trừ là 2.248,8 tỷ đồng, bằng
86,51% so với cùng kỳ 2019; giảm lỗ là 49.760,72 tỷ đồng, bằng 119,6% so với
cùng kỳ năm 2019. Tổng số tiền thuế nộp vào ngân sách là 12.435,1 tỷ đồng,
bằng 92,1% so với cùng kỳ năm 20191.
2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân
Từ những kết qura đạt được đã nêu ở trên có thể thấy tác động của hoạt
động kiểm tra, thanh tra thuế mang lại nhiều lợi ích cho quá trình của quản lí của
các cơ quan chức năng, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại nhiều vấn đề hạn
chế cần được khắc phục.
Thứ nhất, tình trạng hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh
về thuế của đại bộ phận nhân dân còn hạn chế, chưa tạo dư luận xã hội lên án
mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lậu thuế thậm chí nhiều trường hợp cịn thờ
ơ, đồng tình gây khó khăn cho công tác thanh tra kiểm tra thuế. Đặc biệt là tình
trạng trốn thuế, lậu thuế, lạm dụng thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế nhập khẩu và các hành vi vi phạm khác được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn
nhưng phổ biến nhất là hành vi gian lận nội dung của hóa đơn, chứng từ trốn
thuế; tạm nhập tái xuất, trên thực tế khơng có việc tái xuất mà vẫn làm thủ tục
xuất hàng, tiêu thụ.
1 Kiên Huy, Thanh tra, kiểm tra thuế góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, xem tại
đăng ngày07/02/2021, thời gian truy cập 30/06/2021.
13
Thứ hai, cơng tác kiểm tra, thanh tra thuế đó là tình trạng, gian lận thuế,
trốn lậu thu, chiếm đạt tiền nợ thuế, nợ đọng thuế vẫn không chấm dứt triệt để,
mà vẫn còn diễn ra ở nhiều loại thuế và ở nhiều địa phương trong cả nước. Tình
trạng trốn thuế, gian lận thuế ngày càng tinh vi, trá hình, trong khi đó cơng tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế của cơ quan quản lý thuế vẫn
còn một số hạn chế và chưa lường hết được các thủ thuật của người nộp thuế.
Thứ ba, tình trạng trùng lặp, trồng chéo trong hoạt động của cơ quan kiểm
tra, thanh tra. Hoạt động kiểm tra, thanh tra chưa minh bạch, hiệu quả, chất lượng
của các cán bộ kiểm tra, thanh tra còn kém. Trên thực tế, một doanh nghiệp có
thể phải tiếp đến 16 – 17 đồn thanh tra trong một năm. Chỉ trong một lĩnh vực
mà đồn thanh tra này vừa ra thì đồn thanh tra khác lại vào. Hoạt động thanh tra
chưa minh bạch khi cịn khơng ít các trường hợp khi kiểm tra việc nộp thuế thanh
tra viên cố tình kéo dài thời gian, gây nhũng nhiễu, bức xúc. Doanh nghiệp nào
không biết điều, khơng chiu chi thì sẽ bị kiểm tra thường xun; doanh nghiệp
nào quan hệ tốt thì sẽ ít hoặc khơng bị thanh tra.
Thứ tư, quy định của pháp luật về kiểm tra, thanh tra, xử lí vi phạm pháp
luật về thuế cịn nhiều thiếu sót. Chức năng và quyền hạn của kiểm tra, thanh tra
thuế cịn bị bó hẹp chưa trở thành cơng cụ có hiệu lực để thống nhất thu ngân
sách và răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế. Để tăng cường tính pháp
lý việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế khi thực hiện cơ chế tự khai,
tự nộp thuế đòi hỏi phải tăng thêm quyền cho cơ quan thuế, trong đó có quyền
điều tra, khởi tố các vi phạm pháp luật thuế đối với một số trường hợp nhất định,
chẳng hạn trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế liên quan đến
nhiều tổ chức, cá nhân. Mục đích của việc điều tra thuế là phát hiện, ngăn chặn
các hành vi trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế để thu đúng, thu đủ, kịp thời số thuế
14
phải nộp cho Ngân sách nhà nước. Tuy nhiên theo quy định của Luật Quản lý
thuế hiện hành, cơ quan thuế không được giao chức năng khởi tố, điều tra các
hành vi vi phạm pháp luật thuế mà phải chuyển cho cơ quan cơng an. Trong khi
đó, cơ quan cơng an gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều tra do thiếu thông tin
về người nộp thuế, thiếu chuyên môn về quản lý thuế; khi chuyển hồ sơ từ cơ
quan thuế sang cơ quan điều tra thì việc tiếp cận tài liệu, sổ sách kế toán và các
hồ sơ khác có liên quan đến hành vi trốn thuế của doanh nghiệp lại phải bắt đầu
lại từ đầu, cho dù đã có những kết quả sơ bộ sau q trình thanh tra, kiểm tra của
cơ quan thuế.
Thư năm, nội dung các sắc thuế cịn phức tạp, hệ thống chính sách thuế
lồng ghép nhiều chính sách xã hội, cịn nhiều mức thuế suất, nhiều mức miễn,
giảm, giãn nộp thuế gây khó khăn trong quá trình kiểm tra, thanh tra thuế, cũng
như dễ phát sinh tiêu cực, thông đồng giữa cán bộ làm công tác kiểm tra, thanh
tra thuế với người nộp thuế.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do cơ quan tố tụng thiếu nhân lực,
thiếu thơng tin về quản lí thuế, khơng chun sâu về nghiệp vụ quản lí thuế cho
nên gặp nhiều khó khăn trong việc điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Nếu
để tình trạng này diễn ra thì khơng những khơng thể truy thu kịp thời số tiền thuế
mà người nộp thuế đã trốn, đã chiếm đoạt mà còn làm giảm tác dụng giáo dục và
phòng ngừa đối với loại tội phạm này1. Việc Luật quản lí thuế quy định rõ trách
nhiệm của cơ quan quản lí thuế phối hợp với cơ quan điều tra trong việc thực
hiện điều tra tội phạm về thuế là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế nêu
trên.
1 Ths Vũ Ngọc Hà, Pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế ở Việt Nam, Tạp chí luật học số 4/2009, tr.20.
15
III. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế
Thứ nhất, đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế; xây dựng, thực hiện cơ
chế liên thơng giữa thủ tục hành chính thuế với một số thủ tục hành chính khác
có liên quan, nhằm tạo thuận lợi và giảm thời gian thực hiện các thủ tục đăng ký
kinh doanh, đăng ký thuế của doanh nghiệp và người dân.
Thứ hai, xây dựng, ban hành chế độ quy định về quản lý thanh tra, kiểm
tra thuế đối với người nộp thuế trên cơ sở quản lý rủi ro; xây dựng cơ sở dữ liệu
người nộp thuế, trên cơ sở đó thực hiện phân tích, đánh giá rủi ro, phân loại
người nộp thuế tại tất cả các khâu đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế và hoàn
thuế; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
Thứ ba, nhanh chóng ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra mới phù hợp
với các quy định của Luật Quản lý thuế năm 2019, thay thế cho quy trình thanh
tra, kiểm tra cũ đã được ban hành.
Thứ tư, nghiên cứu, bổ sung các quy định của pháp luật còn thiếu về thẩm
quyền của cơ quan quản lí thuế. Rà sốt sốt lại toàn bộ các văn bản luật và
hướng
dẫn thi hành các luật thuế để sửa đổi những nội dung không rõ ràng, tránh việc
hểu sai gây ra những sai phạm trong việc thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra,
xử lí vi phạm pháp luật về thuế. Tiếp tục kiểm tra, rà soát để bổ sung cho đầy đủ
các thủ tục cần thiết phải thực hiện, lược bỏ các thủ tục không cần thiết trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm pháp luật về thuế.
Thứ năm, tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lí thuế và can bộ
thanh tra, kiểm tra thuế. Bổ sung các quy định của pháp luật và các quy định của
riêng ngành thuế để tăng cường trách nhiệm của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế.
Không ngừng đào tạo, nâng cao chất lượng về đạo đức và chuyên môn cho lực
16
lượng thanh tra, kiểm tra thuế. Tăng cường thanh tra, kiểm tra trong nội bộ
ngành. Trong hoạt động quản lí nhà nước, hoạt động thanh tra, kiểm tra mang
tính tất yếu. trong lĩnh vực thuế, việc thanh tra kiêm tra là rất cần thiết để nhanh
chóng phát hiện các trường hợp cán bộ thuế không thực hiện đúng nhiệm vụ mà
pháp luật yêu cầu.
Ngoài ra, cũng cần tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cơ
quan, cán bộ thuế. Khi chịu sự giám sát cả ở trong lấn ngồi thì các hành vi vi
phạm sẽ sớm bị phát hiện và loại trừ.
Thứ sáu, kiện toàn hệ thống tổ chức thanh tra, kiểm tra thuế tra đủ phẩm
chất, năng lực, trình độ chun mơn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ quản lý
thuế, đẩy mạnh phân cấp quản lý cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
thuế chuyên nghiệp, chuyên sâu, trung thực, trong sạch. đáp ứng yêu cầu về đạo
đức nghề nghiệp và trách nhiệm công vụ cao.
KẾT LUẬN
Nội dung công tác kiểm tra, thanh tra thuế là một vấn đề phức tạp trong
khi hệ thống chế độ, chính sách về quản lý thuế thường xuyên thay đổi. Trong
thời gian qua, có thể thấy việc tuân thủ pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế đã
mang lại nhiều lợi ích cho q trình của quản lí của các cơ quan chức năng, tuy
nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện vẫn còn những tồn tại những hạn
chế trong công tác kiểm tra, thanh tra thuế. Những hạn chế này đã làm cho Luật
Quản lý thuế và các Luật thuế nói chung chưa phát huy hết những điểm mạnh
vốn có là cơng cụ điều tiết nền kinh tế và nhất là ảnh hưởng tới kế hoạch thu
ngân sách nhà nước. Để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm tra, thanh
tra thuế, yêu cầu bức thiết đặt ra là Đảng và Nhà nước ta cần nâng cao, đẩy mạnh
hơn nữa pháp luật về thuế, đặc biệt là kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các
17
trường hợp vi phạm pháp luật thuế, để từ đó thực hiện thành cơng cơ chế quản lí
thuế mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật quản lý thuế năm 2019.
2. Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 quy định
chi tiết một điều của luật quản lý thuế.
3. Quy trình thanh tra thuế Ban hành kèm theo Quyết định số 1404/QĐTCT ngày 28 tháng 07 năm 2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế.
4. Ths Vũ Ngọc Hà, Pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế ở Việt Nam,
Tạp chí luật học số 4/2009.
5. Nguyễn Quang Hưng (2018), Hoàn thiện hoạt động thanh tra thuế tại
Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
6. Kiên Huy, Thanh tra, kiểm tra thuế góp phần đảm bảo nguồn thu cho
ngân
sách,
xem
tại:
/>
nganhang/thanh-tra-kiem-tra-thue-gop-phan-dam-bao-nguon-thu-chongansach-177657.html, đăng ngày 07/02/2021, thời gian truy cập
30/06/2021.
7. Nguyễn Hoàng Long, Giải pháp hoàn thiện tổ chức và đổi mới hoạt
động
thanh
tra
chuyên
ngành
thuế,
xem
tại:
đăng ngày
09/10/2020, thời gian truy cập 30/06/2021.
18