MỞ ĐẦU
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai ngun lý cơ bản đóng
vai trị quan trọng nhất trong phép biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin.
Nguyên lý đã tạo ra cơ sở lý luận để từ đó xây dựng nên quan điểm tồn diện, địi
hỏi trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ
biện chứng với các sự vật hiện tượng khác, với các yếu tố giữa các mặt của sự vật,
hiện tượng đó, rút ra được mối liên hệ tất yếu của hiện tượng từ đó tạo nên nhận
thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng. Bởi vậy việc nghiên cứu về nguyên lý về mối
quan hệ phổ biến và vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của nó vào đời sống đóng
vai trị hết sức quan trọng trong việc góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận
thức và hoạt động cải tạo hiện thực của con người. Để có thể hiểu rõ hơn nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến, dưới đây em xin đi sâu vào tìm hiểu đề tài: “Vận dụng nội
dung và ý nghĩa phương pháp luận “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” để lý
giải một vấn đề của thực tiễn ở Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự
tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện
tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ
tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của
phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng
định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,... Như vậy, giữa
các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn
tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định.
Liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong
mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác đều chịu sự chi phối, tác động ảnh
hưởng của các sự vật, hiện tượng khác. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính
1.1.
1
thống nhất vật chất của thế giới. Bởi vì dù các sự vật trong thế giới đa dạng đến đâu
chăng nữa thì cũng là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất. Cho nên, chúng
đều chịu sự chi phối của quy luật vật chất. Ngay cả ý thức, tinh thần cũng chỉ là
thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Do vậy, ý thức tinh
thần cũng bị chi phối bởi quy luật vật chất.
1.2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo triết học duy vật biện chứng, mối liên hệ có các tính chất sau:
Thứ nhất, tính khách quan. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính
khách quan của các mối liên hệ, tác động trong thế giới. Giữa các sự vật, hiện
tượng vật chất với nhau, giữa các sự vật hiện tượng với các hiện tượng tinh thần và
giữa các hiện tượng tinh thần với nhau. Chúng tác động qua lại, chuyển hoá và phụ
thuộc lẫnnhau. Đây là cái vốn có của bản thân sự vật, tồn tại độc lập và không phụ
thuộcvào ý muốn chủ quan hay nhận thức của con người. Sở dĩ mối liên hệ có tính
khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Các dạng vật chất (bao gồm
sự vật, hiện tượng) dù có vơ vàn, vơ kể, nhưng thống nhất với nhau ở tính vật chất.
Có điểm chung ở tính vật chất tức là chúng có mối liên hệ với nhau về mặt bản chất
một cách khách quan. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Ví dụ: Mối liên hệ giữa con vật cụ thể (một
cái riêng) với q trình đồng hóa - dị hóa; biến dị - di truyền; quy luật sinh học;
sinh – trưởng thành – già – chết...-> (cái chung) -> cái vốn có của con vật đó, tách
rời khỏi mối liên hệ đó khơng cịn là con vật, con vật đó sẽ chết... Mối liên hệ đó
mang tính khách quan, con người khơng thể sáng tạo ra được mối liên hệ đó, mà có
thể nhận thức, tác động...
Thứ hai, tính phổ biến. Theo quan điểm biện chứng thì khơng có bất cứ sự
vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng nào
không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những
mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống,
hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và
làm biến đổi lẫn nhau. Tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ: Dù ở bất
kỳ đâu, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có vơ vàn các mối liên hệ đa dạng,
chúng giữ những vai trị, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự
2
vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau khơng những
diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội,tư duy, mà còn diễn ra giữa các
mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Khơng gian và
thời gian; sự vật, hiện tượng; tự nhiên, xã hội, tư duy đều có mối liên hệ, chẳng hạn
quá khứ, hiện tại, tương lai liên hệ chặt chẽ với nhau...
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú. Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau thì mối liên hệ khác nhau; một sự vật hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác
nhau (bên trong – bên ngoài, chủ yếu – thứ yếu, cơ bản – khơng cơ bản...), chúng
giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
đó; một mối liên hệ trong những điều kiện hồn cảnh khác nhau thì tính chất, vai
trị cũng khác nhau. Như vậy, khơng thể đồng nhất tính chất và vai trị của các mối
liên hệ khác nhau đối với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định.
Tùy thuộc vào tính chất và vai trị của từng mối liên hệ, ta có thể phân loại các mối
liên hệ: chẳng hạn, mối liên hệ bên trong – bên ngoài; mối liên hệ tất nhiên – ngẫu
nhiên; mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp; mối liên hệ chủ yếu – thứ yếu, mối liên hệ
xa – gần,... Mỗi cặp mối liên hệ này có vai trị khác nhau trong q trình vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự phân chia các cặp mối liên hệ này cũng chỉ là
tương đối.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Thứ nhất, quan điểm toàn diện. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải
xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, giữa cácmặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác
động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ
sở đó mới có thể nhận thức đúng, chính xác về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu
quả các vấn đề của cuộc sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với
quan điểm phiến diện, siêu hình, chiết trung, ngụy biện trong nhận thứcvà thực
tiễn.V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự
vật đó”.
3
Quan điểm tồn diện địi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực
tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại
giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về
sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm
toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
Thứ hai, quan điểm lịch sử - cụ thể. Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại
trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của khơng – thời gian đó. Do
vậy, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, giải quyết
mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Từ đó địi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và
tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, mơi trường cụ
thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Trong lịch sử triết học, khi xem xét
các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển
của các hệ thống đó. Phải xét đến những tính chất đặc thù, xác định rõ vị trí, vai trị
khác nhau của đối tượng đó trong mối liên hệ cụ thể, trong những tình huống cụ
thể. Từ đó, chúng ta mới có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong
việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Đồng thời, chống lại cách đánh giá sự vật, hiện
tượng một cách dàn trải, lệch lạc, coi mọi mối liên hệ là như nhau. Phải thấy được
một luận điểm khoa học nào đó có thể đúng trong điều kiện này nhưng sẽ khơng
cịn đúng trong điều kiện khác; một nguyên tắc nào đó chỉ vận dụng phù hợp ở nơi
này, lúc này nhưng sẽ không phù hợp khi vận dụng vào nơi khác, lúc khác.
Trong hoạt động thực tiễn khi giải quyết vấn đề thực tiễn nào phải có những
biện pháp rất cụ thể, khơng được chung chung. Khi vận dụng những nguyên lý, lý
luận chung vào thực tiễn phải xuất phát từ những điều kiện thực tiễn lịch sử – cụ
thể. Quan điểm lịch sử – cụ thể chống lại quan điểm giáo điều, phiến diện, siêu
hình, chiết trung, ngụy biện.
2. Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận “Nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến” để lý giải hoạt động của sinh viên hiện nay
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện,
quan điểm lịch sử - cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực
hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý
4
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi cịn ngồi
trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng
phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống. Chúng ta
hiện nay đều là những tân sinh viên, khi mới nhập học hầu như là khơng quen biết
nhau. Khi nhìn thấy một bạn nào đấy, chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng
đầu tiên về ngoại hình, tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua một vài lần gặp
mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt, dễ tính hay khó tính. Cách
đánh giá như vậy là phiến diện, chủ quan trái với quan điểm toàn diện. Điều có thể
làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm. Chẳng hạn như khi nhìn thấy một
người có gương mặt ưa nhìn, ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và
muốn làm bạn, còn khi nhìn thấy một người ít nói, khơng hay cười thì cho là khó
tính khơng muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới nhận ra người bạn mà
mình chọn có những đức tính khơng tốt như lợi dụng bạn bè, ích kỷ. Cịn người bạn
ít nói kia thực ra rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè. Ấn tượng đầu tiên chỉ quyết định
đến quá trình giao tiếp về sau. Quan điểm toàn diện giúp chúng ta hiểu rằng khi
xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện,
mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta
khơng thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của người đó. Vẻ
bề ngồi khơng nói lên được tất cả, có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng
tính bạn rất cởi mở, hịa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh giá một con người cần
phải có thời gian tiếp xúc lâu dài, nhìn nhận họ trên mọi phương diện, ở từng thời
điểm,từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao
cho phù hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông, bà, bố, mẹ,
thầy cơ... thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì
có những hành động, thái độ thoải mái, tự nhiên. Ngay cả quan hệ với một con
người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta
cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối
nhân xử thể”. Ví dụ như khi xưa anh ta là người xấu ,tính cách khơng tốt hay vụ lợi
5
không nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn
biết quan tâm mọi người khơng như xưa, chúng ta cần nhìn nhận anh ta khác đi, có
thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp, kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta
cần xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách
giải quyết, xử lý tốt . Khi ta học kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu
khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, không làm bài tập hay khơng có thời
gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu, thì sẽ tìm được cách giải
quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng các nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử - cụ
thể trong việc học của mình. Trong học tập luôn xác định được mục tiêu, động cơ
và thái độ đúng đắn để đạt điểm cao hơn. Việc áp dụng quan điểm toàn diện và lịch
sử - cụ thể giúp định hướng việc học sâu hơn và cao hơn. Vận dụng quan điểm trên
cần có những phân tích, phản ánh cụ thể, toàn diện và phù hợp trên tất cả các khía
cạnh của mỗi nghiên cứu.
2.1. Mối liên hệ giữa học tập và thực hành
Trước hết ta cần hiểu: “học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách
vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp
nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở
mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình, khơng để tụt lùi, lạc hậu.
“Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm chinh phục thiên
nhiên, chinh phục vũ trụ. Trong cuộc sống, con người ln có q trình tiếp thu và
tích luỹ kinh nghiệm sống làm tiền đề tạo nên những tri thức khoa học mới và làm
tiền đề để tiếp thu những tri thức ở trong nhà trường. Đó là việc học, cách học theo
phương pháp của cuộc sống thường ngày, tựa như khi con người sinh ra phải “học
ăn học nói học gói học mở”, “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Hoạt động
học là hoạt động tiếp thu tri thức. Trên thực tế, hoạt động học là hoạt động đặc biệt
mà chỉ có phương thức học đặc thù (phương thức nhà trường) mới có khả năng tổ
chức để cá nhân tiến hành hoạt động này. Qua đó hình thành ở cá nhân những tri
thức và năng lực phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Như vậy, có thể nói, việc học
khơng dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời sống mà phải tiến đến những
tri thức có tính lựa chọn cao, khái quát và hệ thống hoá.
6
Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào
thực tiễn đời sống; là q trình áp dụng những tri thức đã có sẵn hay học hỏi được
để làm lại, thực hành lại bằng hành động cụ thể và đem lại kết quả thực tế.
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì
mới có kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong
học tập sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch
sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người. Để vận dụng quan điểm trên chúng ta
cần phân tích, xem xét các mặt của việc học một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp
với từng thời điểm.
Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da,
bằng mũi, bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm,
học để tồn tại, học để chung sống với con người, với vạn vật, với mn lồi...
Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người. Nhiều thứ con
người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời gian, kiên
trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào phù hợp
vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt
năng suất, khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết thế nào.
Mối liên hệ giữa học tập và thực hành:
Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy
rằng: “Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải ln ý
thực là lí thuyết hay cũng khơng bằng thực hành giỏi. Vai trị của thực hành được
đề cao là điều hiển nhiên. Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí
thuyết và thực hành được hiểu khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không
thể tách rời nhau. Cho nên học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học
và hành là hai mặt của một qua trình thống nhất, nó khơng thể tách rời mà phải
ln gắn chặt với nhau làm một. Khơng thể có học mà khơng có thực hành và
ngược lại. Học tập là q trình tích lũy kiến thức và là nền tảng của mọi vấn đề
trong công việc và cuộc sống. Học có thể coi là gốc của cây, có gốc thì cây mới
sinh trưởng tốt, đẻ nhánh nhiều, vững vàng, khơng khuất phục trước gió mưa của
cuộc đời. Học tập sẽ là một ngọn nến soi sáng cho thực hành. Nhưng nếu chỉ học
mà không áp dụng vào thực tế thì kiến thức đó trở nên vơ dụng, lãng phí sức lực,
7
tiền bạc và thời gian. Có câu: “Mọi lý thuyết đều là màu xám, nhưng cây đời thì
mãi mãi xanh tươi”. Luyện tập sẽ giúp bo và trau dồi kiến thức. Đặc biệt trong thời
đại công nghệ ngày nay, thực sung hành tốt là một yêu cầu quan trọng đối với
người lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ: Lí luận phải đi đơi với thực
tiễn, lí luận mà khơng có thực tiễn chỉ là lí thuyết sng. Bác vận dụng sáng tạo, có
hiệu quả lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đấu tranh của dân tộc ta,
đưa nhân dân ta ra khỏi vũng lầy nơ lệ, thốt khỏi gơng cùm của áp bức, bóc lột,
giành lại quyền tự do cho dân tộc. UNESCO cũng đề xuất cách tiếp cận này: “Học
để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định chính mình”.
Ngược lại, nếu hành mà khơng có lí thuyết, tri thức, kinh nghiệm đã đúc kết được
dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tế sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng và có thể
dẫn đến những sai lầm lớn. Như vậy, học tập và thực hành có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, là hai mặt của một q trình thống nhất, khơng thể tách rời mà phải luôn
song hành.
2.2. Đánh giá thực trạng việc vận dụng mối liên hệ giữa học tập và
thực hành trong hoạt động học tập của học sinh, sinh viên hiện nay
• Mặt tích cực
Thứ nhất, hiểu và vận dụng mối liên hệ giữa học lí thuyết và thực hành giúp
học sinh, sinh viên phát triển toàn diện, vừa nắm bắt tốt kiến thức trên sách vở, tài
liệu, vừa có thể áp dụng vào cuộc sống thực tiễn một cách linh hoạt, linh động.
Thứ hai, kiểm chứng được lí thuyết, tri thức mình tiếp thu có áp dụng được
vào thực tiễn khơng, từ đó nắm chắc, nhớ lâu kiến thức hơn, đồng thời hiểu sâu vấn
đề được học một cách hiệu quả hơn.
Thứ ba, vận dụng mối liên hệ giữa học lí thuyết và thực hành giúp học sinh,
sinh viên có những khoảng thời gian học tập thú vị và thu hút hơn, khơng nhàm
chán khi chỉ nghe giảng lí thuyết mà không thực hành.
Thứ tư, học sinh, sinh viên được vận dụng những tri thức vào thực tế một
cách tự do, linh hoạt, sáng tạo và chủ động, không bị rập khn. Từ đó có được
những kiến thức chun sâu, hoàn thiện những kĩ năng làm việc và kĩ năng mềm bổ
trợ cho công việc sau này. Cải thiện khả năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, mở rộng
mối quan hệ khi hoạt động, làm việc nhóm.
8
Như vậy, có thể thấy, “học” và “hành” có mối liên hệ phụ thuộc, tác động lẫn
nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau và gắn liền với thực tế. Sự kết hợp này giúp tương
lai của học sinh, sinh viên trở nên thuận lợi, thành cơng, giúp thực hiện hố các ước
mơ, mục tiêu trong cuộc sống.
• Mặt hạn chế
Nền giáo dục nước nhà hiện nay còn coi trọng lý thuyết mà kém thực hành,
làm cho nền giáo dục chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Mặt khác,
do điều kiện kinh tế nước nhà, chưa thể đầu tư nhiều dụng cụ, phịng thí nghiệm
chất lượng cho các môn học.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các
trường phổ thông đã khiến các sinh viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành
học nào trước mùa thi. Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được
học vào việc gì ngồi việc để... thi đỗ đại học. Bên cạnh đó, do có nhận thức chưa
đúng về mối liên hệ giữa học lý thuyết và thực hành nên xem trọng học lý thuyết
hơn thực hành hoặc ngược lại, tách biệt lẫn nhau nên dẫn đến kết quả học tập
khơng tốt (học tập khơng có kế hoạch, mục tiêu, phương pháp đúng đắn; lười
biếng, sống mơ mộng viển vơng về cuộc đời nhưng khơng có ý chí hành động)
hoặc không thể áp dụng vào cuộc sống
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều học
sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc
sống, nhiều thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: “Không biết
việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?”. Nhất là khi xã hội
đang cần những người có tay nghề cao phục vụ cho cơng cuộc cơng nghiệp hố hiện đại hố thì việc “Học đi đơi với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết.
Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thơi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn
luyện cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà khơng có đức là
người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là
những phẩm chất khác nhau nhưng ln ln gắn bó mật thiết khơng thể tách rời.
Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, bởi tài năng đó khơng phục vụ cái chung
mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Con người ta
không thể sống một mình, khơng thể tách rời khỏi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
9
nhân dân, nhân loại. Giá trị một con người được xem xét chính bởi tác dụng của cá
nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Người khơng có đức là người không quan
tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài, họ cũng chỉ vun vén để có lợi cho
riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích của tập thể thì
chẳng những vơ dụng mà cịn có tội. Người càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại
mang đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có
khát vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng khơng có kiến thức, năng lực
kém thì những ý định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao
động có hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong đời sống con
người. Rõ ràng là giá trị con người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung,
hỗ trợ cho nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao
và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những sinh viên, là những người đang trong quá
trình phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách...
cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện
cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã
hội để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội
hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai
KẾT LUẬN
Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên
hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định.
Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên
hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất
định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất
trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên
hệ trong giới tự hiên, xã hội và tư duy. Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm toàn diện và quan
điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
10