TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Sinh viên thực hiện
Đào Thùy Linh
Mã sinh viên
2214330042
Số thứ tự
65
Lớp tín chỉ TRI114K61.9
Giảng viên hướng dẫn
TS. Đào Thị Minh Thảo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Sinh viên thực hiện
: Đào Thùy Linh
Mã sinh viên
2214330042
Số thứ tự
65
Lớp tín chỉ : TRI114K61.9
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đào Thị Minh Thảo
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 1. PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
I. KHÁI QUÁT VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG
3
4
4
1. Khái niệm
4
2. Các phép biện chứng
4
2.1. Phép biện chứng tự phát
4
2.2. Phép biện chứng duy tâm
5
2.3. Phép biện chứng duy vật
5
II. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
5
1. Nội dung của nguyên lý
7
2. Các tính chất của mối liên hệ
8
3. Ý nghĩa phương pháp luận
9
3.1. Quan điểm toàn diện
9
3.2. Quan điểm lịch sử - toàn diện
9
PHẦN 2. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG
XÃ HỘI
I. VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỜNG KINH TẾ
10
10
1. Khái niệm
10
2. Các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế
10
II. VẤN ĐỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
12
1. Khái niệm
12
2. Những tiêu chí để đánh giá công bằng xã hội
12
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
................................................................................................................................................
13
1. Sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã hội
13
2. Sự tác động của công bằng xã hội đến tăng trưởng kinh tế
14
3. Giải pháp nhằm đảm bảo cơng bằng trong q trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam
15
KẾT LUẬN
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
18
Lời mở đầu
Phát triển kinh tế là một mục tiêu phấn đấu của toàn xã hội, của tất cả các
nước trên thế giới. Việt Nam hiện nay đang tiến tới xây dựng một đất nước mà con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực, hướng theo lao
động, người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để thực hiện được mục
tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), đưa nước ta
đạt đến trình độ phát triển kinh tế nhất định, việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đã góp phần giải phóng và phát huy năng lực sản xuất
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần đã bộc lộ nhiều hạn chế: tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân
tầng xã hội, sự suy thối về đạo đức, văn hóa truyền thống,... Nó đã đặt ra hàng
loạt vấn đề về công bằng xã hội, về việc phát triển kinh tế đảm bảo công bằng xã
hội như thế nào và việc giải quyết những vấn đề trên như thế nào. Mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và và công bằng xã hội được xã hội quan tâm rất nhiều,
các nhà nghiên cứu tìm hiểu lý giải các mối quan hệ này dựa trên sự đối lập giữa
hai phạm trù này hoặc dựa trên sự thống nhất tương hỗ căn bản giữa chúng. Nhìn
chung, đã số họ đều thiên về tìm đến sự thống nhất giữa tăng trưởng và cơng
bằng. Tuy nhiên, trong q trình luận giải, có khơng ít nhầm lẫn giữa các phạm
trù và chưa vạch ra được cơ chế đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế,
cơng bằng. Để có được sự nhận thức đúng về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã
hội và giải quyết hợp lý những vấn đề do đã đặt ra thì chúng ta nhất thiết phải
đứng trên lập trường của thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Marx
– Lenin mà cơ sở nền tảng cảu nó là phép biện chứng duy vật đặc biệt là nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến.
Nhận thức được tầm quan trọng của mối liên hệ phổ biến trong quan hệ giữa
tăng trưởng và công bằng trong phát triển kinh tế mà đặc biệt là ở nước ta đang
trong quá trình quá độ lên CNXH phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng trưởng vai trò quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường sinh thái”.
Vậy vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội được Triết học nhìn nhận trên
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến như thế nào?
PHẦN 1. PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
I. KHÁI QUÁT VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG
1. Khái niệm
Phép biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng ở trong các mối liên
hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. Và nhận thức đối tượng ở trạng
thái vận động biến đổi về chất và sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi
ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phép biện chứng thuộc biện chứng chủ quan, tức phản ánh biện chứng của
thế giới vật chất vào trong đời sống ý thức của con người. Khi xem xét sự vật, hiện
tượng phép biện chứng đặt nó vào trạng thái vận động, biến đổi, phát triển và
trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng khác.
Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó
thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là... hoặc là”
cịn có cả “vừa là... vừa là” nữa, thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại
vừa khơng phải là nó, thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ, vừa
gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy,
phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận
thức và cải tạo thế giới.
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã
qua ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử
của nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy
vật.
2. Các phép biện chứng
2.1 Phép biện chứng tự phát
Từ thời cổ đại, các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây đã thấy
các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ
vơ cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực
kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
2.2 Phép biện chứng duy tâm
Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong Triết học Cổ điển Đức,
người khởi đầu là Kant và người hoàn thiện là Hegel. Có thể nói, lần đầu tiên
trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày
một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng.
Song, theo họ, biện chứng ở đây bắt đầu ở tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế
giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ
điển Đức là biện chứng duy tâm.
2.3 Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật đã phát triển qua ba giai đoạn với ba hình thức cơ
bản, trong đó giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sáng tạo nên
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Marx – Lenin. Phép biện chứng duy vật
được xem là khoa học nhất, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hồn bị,
sâu sắc nhất và không phiến diện.
Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy
luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật cung cấp những nguyên
tắc, phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Fr.
Engles đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khao học về sự liên hệ phổ biến.” để
nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
II.
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Nguyên lý: là những điều căn bản nhất của một học thuyết. Phép biện chứng
duy vật có hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển. Trong đó, ở bất kỳ giai đoạn nào của phép biện chứng, nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến được xem là nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến
Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy định với nhau giữa các
mặt trong một sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng.
Ta hiểu khái niệm trên như thế nào?
Thứ nhất, liên hệ là một phạm trù triết học. Như vậy chúng ta phải hiểu liên
hệ một cách khái quát nhất bao gồm tất cả các mối liên hệ cả trong tự nhiên, xã
hội và trong tư duy.
Thứ hai, liên hệ dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy
định với nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng. Một sự vật, hiện
tượng luôn bao gồm các mặt, các bộ phận, chúng vừa khác nhau, độc lập với
nhau; lại vừa thống nhất, vừa ràng buộc, quy định nhau để cùng tạo nên một
chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
Ví dụ, xét một chỉnh thể sự vật là một cơ thể người. Cấu tạo cơ thể con người
bao gồm 8 hệ cơ bản: hệ thần kinh, hệ tuần hồn, hệ hơ hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài
tiết, hệ cơ, hệ xương và hệ sinh dục. Mỗi hệ có một chức năng hồn tồn khác
nhau, như hệ tuần hồn giúp lưu thơng máu, đưa máu đến các cơ quan thơng qua
đó thực hiện q trình trao đổi chất và trao đổi khí qua các mao mạch; hệ bài tiết
giữ vai trò bài tiết trong cơ thể - đào thải các chất cặn bã đưa ra ngồi cơ thể...
Tuy nhiên, giữa chúng cũng có những mối liên hệ thống nhất với nhau nhằm giúp
cho cơ thể con người phát triển một các khỏe mạnh; hệ thần kinh trong đó bộ não
điều hành chung sự hoạt động của tất cả các cơ quan
còn lại; hệ tiêu hóa thực hiện trao đổi chất trực tiếp từ bên ngoài vào cơ thể, đồng
thời biến đổi các chất từ dạng phức tạp thành các dạng đơn giản giúp cơ thể dễ
dàng hấp thụ, nhờ đó cung cấp các chất dinh dưỡng ni cơ quan khác trong đó
có hệ thần kinh. Như vậy, một cơ thể khỏe mạnh là một cơ thể bao gồm tất cả các
hệ, các cơ quan đều phát triển một cách khỏe mạnh, không thể thiếu đi một trong
các bộ phận đó được.
Thứ ba, liên hệ còn dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy
định với nhau giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Thật vậy, một con người phát
triển khỏe mạnhk là nhờ sự tác động qua lại lẫn nhau của các hệ, các cơ quan
trong cơ thể, nhưng một con người không thể tồn tại một mình trên thế giới này
mà khơng có những mối liên hệ nào với tự nhiên, với những cá thể khác.
Ví dụ, xét một phần trong mối liên hệ giữa con người và tự nhiên. Nhu cầu
thiết yếu nhất của con người đó là thức ăn, mà thức ăn lại do tự nhiên cung cấp,
nhưng không phải tự nhiên sẽ cung cấp cho con người thức ăn mãi mãi, cũng như
phục vụ đúng những nhu cầu ngày càng cao của con người. Mà muốn vậy, con
người cần phải tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm phục vụ chính
những mong muốn của mình cả về chất và lượng. Tuy nhiên, khi con người tác
động vào tự nhiên cũng có những tác động tốt giúp cải tạo tự nhiên, có những tác
động làm tổn hại đến tự nhiên và khi đó chính con người lại chịu mọi thành quả
cũng như hậu quả do mình làm ra.
Như vậy, ta có thể hiểu được phần nào nội dung cơ bản của nguyên lý mối
liên hệ phổ biến: giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau luôn tồn tại mối liên hệ độc lập mà thống nhất – đó là mối
liên hệ phổ biến.
1. Nội dung của nguyên lý
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối
liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời
nhau? Nếu chúng có mối liên hệ thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử
triết học, đã có rất nhiều những quan điểm khác nhau để trả lời cho câu hỏi trên.
Những người theo quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng các quá
trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định tác động qua lại, chuyển hoá
lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của
trái đất và do đó, tác động đến mọi sự vật, trong đó có cả con người; hiện nay
trong xu thế tồn cầu hố sự khủng hoảng kinh tế của một nước không chỉ làm
ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ấy mà còn làm ảnh hưởng đến nền kinh tế
của các nước xung quanh, thậm chí là nền kinh tế của toàn thế giới… Những
người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất
của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhấtthế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng thể tồn tại biệt lập, tách
rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hố lẫn nhau theo những
quan hệ xác định.
Chính trên
cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ phổ biến là một
phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa
các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng với các sự vật hiện tượng
khác. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con
người cụ thể thông qua mối liên hệ sự tác động qua lại của con người đó với người
khác, đối với xã hội, tự nhiên, thông qua những hoạt động của người đó. Ngay tri
thức của con người cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt
động cải biển tự nhiên, cải biển xã hội và chính con người.
2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến có
ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú.
Tính khách quan của mối liên hệ được thể hiện ở sự quy định lẫn nhau, các
mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó khơng phụ thuộc vào ý thức
của con người.
Tính phổ biến được biểu hiện: bất kỳ một sự vật hiện tượng nào, ở bất kỳ
không gian, thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác.
Ngay trong cùng một sự vậy, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu
tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ: sự vật hiện tượng khác nhau, không
gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có
thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên
ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu,.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai
trị khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật hiện tượng.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối, vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ
biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo
phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của
chính sự vật.
Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối
nhưng sự phân chia đó là rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hẹ có vị trí và cai
trị xác định
trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng mối liên
hệ để
có cách tác động phù hợp nhằm đưa ra hiệu quả cao nhất trong hoạt động của
mình.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, ta rút ra được tính tồn diện trong việc
xem xét sự vật, hiện tượng, cụ thể.
3.1 Quan điểm tồn diện
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ
biến nên hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phải tôn trọng
quan điểm toàn diện, phải tránh xem xét phiến diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật hiện tượng trong
mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự
vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó đối với những sự vật khác, kể cả
mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng sự vật.
Đồng thời quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta khi phân biệt từng mối liên
hệ phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ
yếu, mối liên hệ tất nhiên và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên
hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem
lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà cịn
phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác. Đồng thời, chúng
ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác
động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
3.2 Quan điểm lịch sử - tồn diện
Vì các mối liện có tính đa dạng, phong phú sự vật hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ được biểu hiện khác nhau nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan
điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động
vào sự vật phải chú ý điều kiện hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, mơi trường cụ thể trong
đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực thế cho thấy rằng, một luận điểm nào
đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không là luận điểm khoa
học trong điều kiện khác.
PHẦN II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG
XÃ HỘI
I. VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế thường được hiểu là sự tăng lên về qui mô sản lượng
của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo
các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng qui mơ sản
lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng
trưởng luôn là cặp đôi trong nội dung
của khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay trên thế giới, người ta thường tính
mức gia tăng về tổng giá trị của cải xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc
dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở
một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên dù thu nhập
bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo
đói.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc
độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm trong một
giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đói là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần
so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh
tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
2. Các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế
Theo quan điểm hiện đại, muốn có tăng trưởng kinh tế cao cần phải sử dụng
hiệu quả các yếu tố cơ bản sau đây
−
Vốn: vốn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người
tạo ra, tích luỹ lại và những yếu tố tự nhiên….được sử dụng vào trong quá trình
sản xuất. Một nền kinh tế tăng trưởng cao không chỉ dừng lại ở việc tăng khối
lượng vốn đầu tư, mà còn phải đặc biệt chú ý đến hiệu quả sử dụng vốn, quản lý
chặt chẽ, đầu tư vốn hợp lý vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
−
Con người: trong các yếu tố hợp thành quá trình lao động sản xuất,
sức lao động là yếu tố quyết định, mang tính sáng tao và là nguồn lực khơng cạn
kiệt. Có thể nói: “ nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực”, là “ tài
nguyên của mọi tài nguyên”. Vì vậy, con người có sức khoẻ, trí tuệ, có tay nghề
cao, có động lực và nhiệt tình, được tổ chức chặt chẽ sẽ là nhân tố cơ bản của tăng
trưởng kinh tế bền vững.
−
Khoa học và công nghệ: khoa học và công nghệ là nguồn lực quan
trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khoa học và công nghệ được con là “
chiếc đũa thần màu nhiệm” để tăng năng suất lao động, phát triển lực lượng sản
xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ đã làm cho hiệu
quả sử dụng của các yếu tố đầu vào tăng lên, cho phép sản xuất theo chiều sâu,
làm xuất hiện những ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao như: công nghệ
điện tử, công nghệ thông tin…Như vậy khoa học và cơng nghệ cũng là một yếu tố
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng nhanh và bền vững.
−
Cơ cấu kinh tế: là mối quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và quy định lẫn
nhau cả về quy mơ và trình độ giữa các ngành, các thành phần, các vùng, lĩnh vực
của nền kinh tế. Nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng và phát triển khi giữa các mặt,
các bộ phận, các yếu tố cấu
thành nó có sự phù hợp với nhau cả về số lượng và chất lượng, cũng có nghĩa là
phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý.
−
Thể chế chính trị và vai trò của nhà nước: ổn định về mặt chính trị- xã
hội là điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Thể
chế chính trị tiến bộ có khả năng định hướng sự tăng trưởng kinh tế vào những
mục tiêu mong muốn, khắc phục được những nguyên nhân gây ra ơ nhiễm mơi
trường, phân hố giàu nghèo
sâu sắc…Bởi vì trên thực tế đã từng có sự phát triển kinh tế không cùng chiều với
tiến bộ xã hội. Hệ thơng chính trị mà đại diên là nhà nước có vai trị hoạch định
đường lối, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, cùng hệ thống chính sách đúng
đăn hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, làm cho nền kinh
tế tăng trưởng nhanh đúng hướng.
II. VẤN ĐỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1. Khái niệm
Ph. Angles viết: “Công lý của người Hy Lạp và người La Mã cho rằng chế độ
nô lệ là công bằng; công lý của những nhà tư sản năm 1789 địi hỏi thu tiêu chế độ
phong kiến, vì chế độ ấy không công bằng”. Trong các thời đại khác nhau của lịch
sử lồi người, dù ở phương Đơng hay phương Tây, con người đều quan tâm đến
công bằng xã hội cà đã có biết bao cách hiểu và giải quyết khác nhau vấn đề cơng
bằng xã hội. Có lẽ, người ta chỉ thống nhất với nhau ở một điểm: đó là tầm quan
trọng của nó, nhất là trong xã hội hiện đại. Có thể khái qt: Cơng bằng xã hội là
một giá trị định hướng để con người thỏa mãn nhu cầu cơ bản về đời sống vật
chất và tinh thần trong mối quan hệ phân phối sản phẩm xã hội tương đối hợp lý
giữa các cá nhân và khả năng hiện thực của những điện kinh tế - xã hội nhất định.
Chúng ta nghiên cứu công bằng xã hội trong những điều kiện lịch sử hiện
nay của đất nước. Đặc điểm của tình hình đó là trong khi những biểu hiện của chủ
nghĩa bình quân phổ biến, kèm theo đặc quyền, đặc lợi của một số ít người trong
cơ chế quan liêu, bao cấp trước đây chưa hoàn toàn mất đi thì lại xuất hiện những
bất cơng mới của kinh tế thị trường.
2. Những tiêu chí để đánh giá công bằng xã hội
Trong những năm đổi mới ở nước ta, vấn đề công bằng xã hội trở thành một
trong những mục tiêu cơ bản phát triển đất nước. Các tiêu chí về cơng bằng xã hội
được cụ thể hóa trong các văn kiện lớn của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng lần
VIII chỉ rõ: “Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện trong khâu phân phối
kết quả sản xuất, mà còn thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo
ra những điều kiện cho
mọi người phát huy tốt năng lực của mình”. Như vậy, cơng bằng xã hội được nhìn
nhận ở khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, từ góc độ phân phối kết quả sản xuất; đó là sự tương xứng giữa
lao động và thu nhập, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Thứ hai, từ việc có cơ hội nganh nhau trong việc tiếp nhận các nguồn tư liệu
sản xuất xã hội như nguồn vốn, tài nguyên, thông tin, khoa học kỹ thuật và các
dịch vụ xã hội khác.
Thứ ba, từ góc độ cơ hội và điều kiện để các cá nhân, các nhóm xã hội thể
hiện, phát huy năng lực của chính mình.
Việc phân biệt các góc độ nhìn nhận cơng bằng xã hội như trên cũng chỉ
mang tính tương đối nhằm cụ thể hóa những tiêu chí đánh giá sự cơng bằng. Trên
thực tế, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, dù sự cơng bằng về mặt kinh tế có vị
trí quan trọng nhất, nó có khả năng chi phối các mối quan hệ khác. Trên thực tế
của nền kinh tế thị trường, chính các điều kiện xã hội khác nhau lại là cơ hội để
người ta phát triển kinh tế và khi có kinh tế, người ta có điều kiện để bước vào các
cơ hội khác. Như vậy, trong mối quan hệ gữa các giữa người với người, khơng có
cơng bằng về cơ hội thì khó có thể có cơng bằng về kinh tế, thu nhập; và khi điều
kiện kinh tế chênh lệch q xa thì khó có được điều kiện thụ hưởng giá trị văn hóa
tinh thần như nhau.
Trên thực tế có rất nhiều tiêu chí cụ thể đánh giá cơng bằng xã hội như: thu
nhập bình qn đầu người; các chỉ số về giáo dục như tỉ lệ người biết chữ, tỉ lệ
người đi học trong độ tuổi, tỉ lệ phổ cập giáo dục các cấp...; các chỉ số về y tế; tỉ lệ
đói nghèo và khoảng cách đói nghèo; bình đẳng giới...
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Khi xem xét tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như là những vấn đề
riêng rẽ thì mối liên hệ qua lại giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Nhưng nếu coi
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt cơ bản của sự phát triển kinh
tế, tiến bộ xã hội thì mối liên hệ qua lại giữa chúng với nhau là mối liên hệ bên
trong. Như vậy, mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là
mới liên hệ bên trong, vừa là mối liên hệ bên ngoài.