HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
BÀI THU HOẠCH
MÔN HỌC: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ XÂY
DỰNG CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
TÊN NỘI DUNG
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG THEO
HIẾN PHÁP NĂM 2013
Họ và tên học viên: NGÔ ............
Mã số học viên: MP22..................
Lớp: Cao học Xây dựng Đảng và CQNN..........................
HÀ NỘI - 2021
ST – 2021
MỞ ĐẦU
2
MỞ ĐẦU
Hiện nay chúng ta đang nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương nhằm bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính
quyền địa phương, tổ chức hợp lý các cấp chính quyền địa phương, tăng cường hiệu
lực quản lý nhà nước ở địa phương trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Thuật ngữ “Chính quyền địa phương” thường được hiểu là những đơn vị của
chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công dân tại cấp trung gian thấp và
thấp nhất. Tại một số nước trên thế giới, các đơn vị chính quyền địa phương đã có
quyền tự trị từ rất lâu trước khi các quốc gia đó được thành lập với cơ cấu tổ chức
chính quyền như hiện nay và do đó, khơng cần sự phân cấp thấm quyền từ cấp
chính quyền cao hơn cho các đơn vị này. Tại một số nước có cơ cấu nhà nước đơn
nhất, chính quyền địa phương thi hành quyền lực của mình theo ngun tắc quyền
lực của chính quyền cấp dưới do chính quyền Trung ương trực tiếp ủy nhiệm, và
cấp trung ương có thế bãi bỏ việc ủy nhiệm đó. Tại một số nước thuộc hệ thống
đơn nhất khác, chính quyền địa phương hoạt động theo nguyên tắc thẩm quyền
chung, và trên nguyên tắc được phép thực thi những thẩm quyền khơng thuộc
chính quyền Trung ương.
Khác với chế độ tự quản địa phương của một số nước, chính quyền địa
phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước thống
nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa
phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập trên cơ sở các
cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật nhằm quản lý các
lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ
và kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.
Với nội dung tiểu luận, tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn về cơ cấu chính
quyền địa phương tại Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của chính quyền địa phương Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo xu
hướng chung và phù hợp với Hiến pháp 2013.
3
NỘI DUNG
1. Chính quyền địa phương là một thể thống nhất, quan hệ chặt chẽ,
không thể tách rời giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
Không phải ngẫu nhiên mà Hiến pháp năm 2013 đặt tên Chương là Chính
quyền địa phương mà khơng đặt tên là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân,
như các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Đây không phải là một
sự thay đổi câu chữ mà là một sự thay đổi về chất trong quan niệm về mối quan hệ
giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Mặc dù, hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân là hai cơ quan có quyền hạn và nhiệm vụ khác nhau, nhưng được tổ chức
và hoạt động trên cùng một phạm vi lãnh thổ xác định và đều có cùng một chức
năng là “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu
sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112, Hiến
pháp năm 2013).
Việc hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân gọi chung là chính quyền địa
phương có ý nghĩa pháp lý ở tầm hiến định đặc biệt quan trọng, nhằm gắn kết chặt
chẽ hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thành một thực thể chung là chính
quyền địa phương. Hai thiết chế này có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau
về mặt tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Hiệu lực, hiệu quả của mỗi cấp
chính quyền địa phương là kết quả tổng hợp của hiệu lực và hiệu quả của cả hai cơ
quan này hợp thành một thể thống nhất. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hội đồng
nhân dân cũng chính là hiệu lực và hiệu quả hoạt động của ủy ban nhân dân và
ngược lại, không thể đánh giá như một số người cho rằng, hội đồng nhân dân thì
hoạt động hình thức cịn ủy ban nhân dân thì hoạt động thực chất, có hiệu lực và
hiệu quả. Điều này khác hoàn toàn với hai thiết chế Quốc hội và Chính phủ. Hai
thiết chế này có mối quan hệ độc lập tương đối với chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn khác nhau. Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước. Cịn Chính phủ thực hiện chức năng hành
chính nhà nước cao nhất và là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Mối quan hệ
giữa hai cơ quan này theo nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
4
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp năm 2013). Xu hướng tách rời hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, xem chúng là hai thiết chế có tính độc lập
tương đối, giống như Quốc hội và Chính phủ là trái với tinh thần và nội dung của
Hiến pháp năm 2013. Vì thế, tính chất, vị trí và vai trị của hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân không nên xác định một cách tách rời như Quốc hội và Chính
phủ. Mọi lập luận cho rằng, đã có ủy ban nhân dân thì phải có hội đồng nhân dân,
như đã có Chính phủ thì phải có Quốc hội để thực hiện vai trò cơ quan quyền lực
nhà nước, giám sát của cơ quan dân cử đối với cơ quan hành chính nhà nước đều
không phù hợp với Hiến pháp năm 2013 về chính quyền địa phương. Kinh nghiệm
của quốc tế chỉ ra rằng, khi sử dụng thuật ngữ “chính quyền địa phương” là nhằm
mục đích nhấn mạnh tính tự quản của các cấp chính quyền địa phương. Đây là xu
hướng phổ biến trong xây dựng chính quyền địa phương ở các nước dân chủ và
pháp quyền trong thời đại ngày nay nhằm phát huy mạnh mẽ tính tự quản, tự chịu
trách nhiệm của các cấp chính quyền. Mục đích của việc gọi hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân là chính quyền địa phương cịn nhằm tăng cường tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cao hơn của chính quyền địa phương.
Tên Chương IX của Hiến pháp năm 2013 được gọi là “Chính quyền địa
phương” đặt ra yêu cầu phải đổi mới một cách thực sự về mơ hình tổ chức cũng
như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương theo hướng:
Phải bảo đảm gắn kết chặt chẽ, thống nhất hơn nữa giữa hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân trong việc quy định và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của chính quyền địa phương; tạo điều kiện để mỗi cấp chính quyền địa phương tự
chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn nữa; khẳng định vị trí của chính quyền địa
phương là một thể thống nhất của hai thiết chế hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân trong hệ thống hành chính thống nhất, thông suốt trong cả nước.
2. Hiến pháp năm 2013 quy định “về đơn vị hành chính tương đương”
nhằm mở đường cho việc thành lập đơn vị hành chính mới trong thành phố
trực thuộc Trung ương
5
Đơn vị hành chính được quy định ở Điều 110, Hiến pháp năm 2013 với một
bổ sung mới “đơn vị hành chính tương đương” quận, huyện, thị xã trong thành phố
trực thuộc Trung ương nhằm mục đích mở đường cho việc thành lập đơn vị hành
chính mới trong thành phố này. Ví như thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ
Chí Minh trên cơ sở sắp xếp quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức để hình thành khu đơ
thị sáng tạo theo đề nghị của Thành phố gần đây. Có thể thấy, quy định mở này
trong Hiến pháp năm 2013 nhằm mở đường cho việc tiếp tục đổi mới, cải cách
chính quyền ở đơ thị phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng địa phương.
Cùng với quy định mở đó, Hiến pháp năm 2013 cịn bổ sung “Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” (Khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013)
nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang đặt ra
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở một số địa phương.
3. Hiến pháp năm 2013 tạo lập nền tảng hiến định cho việc đổi mới mơ
hình chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn và đơ thị
Từ thực tiễn tổ chức chính quyền ở cả 3 cấp đều có hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân ở các đơn vị hành chính của thành phố cũng như nơng thơn đã bộc lộ
tính hình thức, hiệu quả hoạt động không cao, bộ máy cồng kềnh, trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, Điều
111, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các
đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức
phù hợp với đặc điểm nông thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do luật định”.
Theo điều quy định trên, một khái niệm mới ra đời, đó là cấp “Chính quyền
địa phương”. Với khái niệm này, cho phép tổ chức chính quyền ở đơ thị và nơng
thơn có thể khác nhau. Việc phân chia đơn vị hành chính để quản lý với mơ hình tổ
chức chính quyền ở từng đơn vị hành chính có thể khơng giống nhau. Ở tất cả các
đơn vị hành chính đều có chính quyền địa phương nhưng khơng nhất thiết một đơn
vị hành chính là một cấp chính quyền địa phương. Cấp chính quyền được tổ chức
phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
6
biệt. Ở đâu được coi là cấp chính quyền thì chính quyền ở đó bao gồm đầy đủ cả
hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu ra. Còn ở đâu khơng được coi là cấp chính quyền thì ở đó có cơ quan
hành chính thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ cơng tại đơn vị hành
chính đó. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 sử dụng thuật ngữ cấp chính quyền địa
phương để giao cho Luật Tổ chức chính quyền địa phương thể chế hóa phù hợp với
đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Với quy
định mới này sẽ mở đường cho việc cải cách, đổi mới mơ hình tổ chức chính
quyền ở nơng thơn và đô thị, tạo điều kiện cho việc xây dựng và hồn thiện chính
quyền nơng thơn và đơ thị, phù hợp với đối tượng, cách thức và phương pháp quản
lý nhà nước hồn tồn khác nhau. Theo đó, ở thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh hay một thành phố thuộc tỉnh nào đó có thể khơng xem phường hay quận là
một cấp chính quyền và ở đó khơng có hội đồng nhân dân mà chỉ có ủy ban nhân
dân. Dựa vào quy định này của Hiến pháp, ngày 27-11-2019, Quốc hội thơng qua
Nghị quyết số 97/2019/QH14, thí điểm tổ chức mơ hình chính quyền đơ thị tại
thành phố Hà Nội. Tại Điều 1 của Nghị quyết này, chính quyền địa phương ở thành
phố Hà Nội, huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn là cấp chính quyền địa phương gồm có
hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Trong khi đó, chính quyền địa phương ở
các phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội chỉ có ủy ban nhân dân
phường. Mơ hình thí điểm này nhằm làm cho bộ máy chính quyền gọn nhẹ, thơng
suốt, giải quyết nhanh vấn đề cấp bách; trách nhiệm của cán bộ cấp phường được
xác định rõ ràng hơn, tinh giản biên chế, tiết kiệm ngân sách, phù hợp với đặc điểm
quản lý nhà nước ở đô thị khác với quản lý nhà nước ở nông thôn.
Như vậy, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, có thể tổ chức một hệ
thống chính quyền địa phương đa dạng, phân biệt cấp chính quyền và cấp hành
chính phù hợp với quản lý nơng thơn, đơ thị, hải đảo, trong đó điều cơ bản là
không tổ chức hội đồng nhân dân ở quận hoặc phường; khắc phục những hạn chế,
bất cập về nhận thức lý luận cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động của mơ hình
chính quyền rập khn “hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương; ủy ban nhân dân là cơ quan cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính nhà
7
nước ở địa phương” được tổ chức ở các cấp kéo dài trong nhiều năm nhưng hình
thức kém hiệu quả.
Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương cần phải tiếp tục đổi mới cho phù
hợp với đặc điểm dân cư, phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ và đặc thù quản lý
hành chính nhà nước giữa nơng thơn và thành phố mà Đảng ta đã đề ra nhiều năm
nay. Qua nghiên cứu thực tiễn có thể thấy rằng, đơ thị có một số đặc điểm địi hỏi
phải có sự phân biệt trong mơ hình tổ chức chính quyền địa phương giữa đô thị và
nông thôn, như: Dân cư tập trung với mật độ cao, địa giới hành chính và điều kiện
sinh sống của người dân khá chật hẹp; kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội
phát triển có tính liên thơng đồng bộ; nếp sống văn hóa của người dân gắn liền với
đặc điểm sinh hoạt, giao tiếp rất đặc thù khác với nông thôn; nơi dễ tập trung phát
sinh các tệ nạn xã hội, gây phức tạp trong quản lý,...
Quản lý chính quyền đơ thị có những đặc thù khác biệt với chính quyền
nơng thơn, địi hỏi các đơ thị được chủ động, linh hoạt trong phát triển, quản lý,
biên chế, ngân sách, con người... để kịp thời giải quyết những vấn đề phức tạp đặt
ra hằng ngày về hộ tịch, cư trú, trật tự, an ninh, giao thông, việc làm, hạ tầng kỹ
thuật, xã hội đơ thị…
Với những đặc điểm đó, quản lý nhà nước ở đơ thị địi hỏi phải bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ và liên thơng trên mọi khía cạnh của quản lý nhà nước, như tổ
chức bộ máy, cơ chế, phương thức quản lý, thẩm quyền và trách nhiệm. Trong lúc
đó, nơng thơn có những đặc điểm tương phản với đô thị như: Dân cư tập trung ở
mật độ không cao và phần lớn đất đai thường được sử dụng cho sản xuất nông
nghiệp; người dân nông thôn là những hộ gia đình gắn kết với nhau trong sản xuất,
sinh hoạt và các hoạt động xã hội khác; tính gắn kết trong cộng đồng có quy mơ
nhỏ, phù hợp với cách quản lý theo kiểu tự quản, tự quyết định các vấn đề quan
trọng. Với các đặc điểm cơ bản đó, mơ hình quản lý nhà nước ở nơng thơn phải có
những khác biệt so với ở đơ thị. Sự khác biệt đó trước hết là quản lý mọi mặt đời
sống xã hội phải phát huy tốt nhất ý chí của cộng đồng. Áp dụng cơ chế quản lý
trực tiếp bỏ qua vai trò của cơ quan đại diện, dù trong điều kiện hệ thống pháp luật
8
có hồn thiện đến đâu cũng sẽ khơng phù hợp và phát huy hiệu quả ở địa bàn nông
thôn.
Ở nước ta, quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố; thị xã
thuộc tỉnh là những đơn vị hành chính có tổ chức dân cư, phân chia đơn vị hành
chính và tính chất quản lý nhà nước hồn tồn khác với cấp huyện thuộc tỉnh ở tính
chất trung gian thể hiện rõ nét hơn so với cấp huyện. Chính vì thế, khơng nên rập
khn tổ chức chính quyền ba cấp hành chính ở đơ thị giống như ở nơng thơn.
Thực tiễn thí điểm khơng tổ chức hội đồng nhân dân ở quận, huyện, phường thuộc
10 tỉnh, thành hơn 5 năm vừa qua chỉ ra một điều rằng, không tổ chức hội đồng
nhân dân ở một số cấp không ảnh hưởng gì đến tồn bộ tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị nói chung, đến tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước, quyền
làm chủ của nhân dân nói riêng, mà bộ máy ở đó gọn nhẹ, tiết kiệm được ngân
sách. Thực tiễn này được xem là thành cơng của việc làm thí điểm cần phải sử
dụng để thiết kế mơ hình tổ chức chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm
2013 như đã trình bày ở trên.
Việc không tổ chức hội đồng nhân dân ở những đơn vị hành chính trung gian
khơng làm mất đi tính đại diện của cư tri, bởi đại diện đã được xác định ở cấp
chính quyền và đây mới là đại diện thực chất. Thực hiện quản lý nhà nước ở các
đơn vị hành chính trung gian do cấp chính quyền thực hiện. Cánh tay nối dài của
cấp chính quyền được đặt ở các đơn vị hành chính trung gian nhằm giúp cho chính
quyền làm tốt hơn vai trị tự quản, tự chịu trách nhiệm của mình. Kinh nghiệm phổ
biến về tổ chức quyền lực nhà nước của nhân loại chỉ ra rằng, đối với chính quyền
địa phương thì vị trí đặc biệt quan trọng là chính quyền địa phương ở hai đầu: tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và xã, phường ở cơ sở. Chính quyền hai đầu này
cần xây dựng đủ mạnh để thực hiện vai trò tự quản, tự chịu trách nhiệm. Cịn chính
quyền ở các đơn vị hành chính lãnh thổ khác được xem là chính quyền trung gian
để giúp cho chính quyền ở hai đầu thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của
mình. Vì vậy, tổ chức chính quyền ở các đơn vị hành chính trung gian ở mỗi nước
được tổ chức một cách khác nhau và ở đơn vị hành chính - lãnh thổ khác nhau
9
cũng có thể tổ chức khác nhau, xuất phát từ đặc điểm dân cư, phân chia đơn vị
hành chính - lãnh thổ và đặc thù của quản lý hành chính nhà nước.
4. Phân cấp, phân quyền giữa chính quyền địa phương với chính quyền
Trung ương và giữa các cấp của chính quyền địa phương
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa
phương xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở
trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2,
Điều 112, Hiến pháp năm 2013). Có thể nói, đây là một nguyên tắc hiến định quan
trọng trong việc phân công quyền lực nhà nước giữa Trung ương và địa phương
cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau. Nguyên tắc này là cơ sở
hiến định để Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật chuyên ngành thể
chế hóa mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hạn giữa chính quyền Trung ương và
chính quyền địa phương phù hợp với từng thời kỳ và từng loại công việc. Bởi chỉ
trên cơ sở phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền thì việc xác định
trách nhiệm, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền mới có hiệu
quả. Cùng với việc phân cấp, phân quyền theo nguyên tắc nói trên, Hiến pháp năm
2013 cịn quy định về ủy quyền. Khoản 3, Điều 112 quy định: “Trong trường hợp
cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Quy
định này chỉ ra rằng, chính quyền địa phương cịn là chủ thể được ủy quyền của
chính quyền Trung ương trong việc thực thi một số công vụ nhất định. Tuy nhiên,
đối với các công vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao thì chính quyền địa phương
sẽ được cơ quan nhà nước cấp trên bảo đảm các điều kiện để thực hiện.
Thực tiễn chỉ ra rằng, có nhiều nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Trung ương
được giao cho địa phương thực hiện, nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo các
điều kiện để thực hiện công việc đó. Vì vậy, gây nhiều khó khăn cho địa phương
trong việc thực thi công vụ. Quy định tại Khoản 3, Điều 112 nói trên là cơ sở hiến
định để giải quyết mối quan hệ ủy quyền giữa chính quyền cấp trên đối với chính
quyền cấp dưới trong thi hành cơng vụ. Như vậy, vấn đề phân cấp, phân quyền đã
được khẳng định và thể hiện thành nguyên tắc của Hiến pháp. Tuy nhiên, cho đến
10
nay, việc phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh để tạo điều kiện cho các địa phương
phát huy lợi thế so sánh và những đặc thù vốn có của mình trong việc phát triển
kinh tế - xã hội. Vì vậy, Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng như các luật
chuyên ngành cũng cần căn cứ vào nguyên tắc của Hiến pháp để tiếp tục cụ thể hóa
phù hợp với từng cấp chính quyền, với địa bàn đơ thị, nơng thôn, hải đảo; bảo đảm
sự nhất quán, thống nhất, đồng bộ trong việc thể hiện và thực hiện đúng tinh thần
phân cấp, phân quyền mà Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định. Đây cũng chính là
một định hướng tiếp tục xây dựng và hồn thiện chính quyền địa phương theo Hiến
pháp năm 2013.
5. Việc kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương
Trước hết, cần phải khẳng định rằng kiểm sốt quyền lực nhà nước đối với
chính quyền địa phương gồm cả hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thuộc thẩm
quyền của chính quyền Trung ương. Bằng giám sát tối cao của Quốc hội, thanh tra,
kiểm tra, kiểm sốt của Chính phủ và các bộ trong việc thi hành Hiến pháp và pháp
luật, bảo đảm cho pháp luật được các cấp chính quyền địa phương tuân thủ một
cách nghiêm chỉnh.
Thứ hai, giám sát của hội đồng nhân dân cùng cấp đối với ủy ban nhân dân
và với chính quyền cấp dưới khơng nên quan niệm như giám sát tối cao của Quốc
hội đối với Chính phủ. Bởi như trình bày ở phần đầu, chính quyền địa phương gồm
hai thiết chế là hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân có mối quan hệ mật thiết
khơng tách rời nhau. Vì thế, giám sát của hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân
dân cùng cấp mang tính chất giám sát nội bộ, chủ yếu là giám sát việc thực hiện
nghị quyết của mình đã đề ra nhằm bảo đảm cho chính quyền cấp mình hoạt động
có hiệu lực và hiệu quả.
Thứ ba, giám sát đối với chính quyền trung gian (quận, thành phố, thị xã
thuộc tỉnh hoặc phường thuộc thành phố). Chính quyền ở các đơn vị hành chính
này là một bộ phận của chính quyền cấp trên đứng ở đây, nên một mặt chịu sự
kiểm sốt quyền lực nhà nước của chính quyền Trung ương và mặt khác chịu sự
giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và sự kiểm
11
tra, thanh tra, kiểm soát của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương cịn
được thực hiện bởi vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các cấp và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Đồng thời, kiểm sốt quyền
lực nhà nước đối với chính quyền địa phương cịn thực hiện bởi cá nhân cơng dân
bằng việc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo.
Thứ năm, kiểm sốt quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương
cịn được thực hiện bằng các phương tiện thơng tin đại chúng và bằng các hoạt
động xét xử các quyết định hành chính, các hành vi hành chính mà cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện tại tòa án.
12
KẾT LUẬN
Kiểm sốt quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương được thực
hiện bởi một cơ chế bao gồm các cơ quan nhà nước cấp trên (chính quyền Trung
ương) đối với chính quyền cấp dưới; giám sát mang tính chất bên trong của chính
quyền địa phương; giám sát của hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân dân cùng
cấp; giám sát, kiểm tra, thanh tra của chính quyền cấp trên đối với chính quyền cấp
dưới. Đồng thời, kiểm sốt quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương
còn được thực hiện bởi cơ chế do nhân dân tiến hành thơng qua các tổ chức đồn
thể quần chúng. Rõ ràng không nên lo lắng rằng, ở một đơn vị hành chính - lãnh
thổ nào đó khơng tổ chức hội đồng nhân dân thì khơng có người kiểm soát quyền
lực nhà nước. Hơn nữa, giám sát của hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân dân
cùng cấp khơng hồn tồn mang tính chất kiểm sốt quyền lực nhà nước, như giám
sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ. Bởi vì, hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân tuy là hai thiết chế nhưng cùng thống nhất với nhau là chính quyền địa
phương./.