Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ mác LÊNIN đề tài VAI TRÒ của NHÀ nước VIỆT NAM TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.12 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------***--------

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Họ và tên sinh viên: Lê Thu Cúc
Mã số sinh viên: 2114810013
Lớp hành chính: K60-Anh 02-KTKT
Lớp tín chỉ: TRI115.6
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đặng Hương
Giang

download by :


Hà Nội, tháng 4 năm 2022

download by :


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................
B. NỘI DUNG............................................................................................
1.Những lý luận về vai trò của Nhà nước..............................................................
1.1.

Một số quan điểm về vai trò của Nhà nước.



1.2.

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị tr

1.2.1
dùng các hàng hố cơng cộng.......................................................................

Vai trị

1.2.2

Vai trò

1.2.3

Vai trò

1.2.4
2.Những lý luận về nền kinh tế thị trường..........................................................

Vai trò

2.1.

Khái niệm....................................................

2.2.

Ưu điểm.......................................................


2.3.

Khuyết điểm................................................

3. Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường..........................
3.1. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta............................................................................................................
3.2. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam..........................................................................................
3.3. Thực tiễn vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam....
C. KẾT LUẬN....................................................................................................
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................

download by :


LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế của loài người, nền kinh tế thị trường đã
phản ánh một bước ngoặt lớn của văn minh nhân loại. Từ một nước nghèo, kém
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhất định phải phát triển kinh tế thị trường,
sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Cơ chế thị trường cho phép phát triển tiềm năng kinh doanh, khai thác triệt để
tìm kiếm lợi nhuận, sản xuất hiệu quả. Nhận thức được điều đó, đất nước ta đã
thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều
không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà
nước. Đặc biệt là ngày nay, khi cả thế giới đang phải đối phó với đại dịch Covid19, trải qua sự bất ổn của các nền kinh tế thị trường hiện đại, gặp vơ vàn khó khăn
trong giai đoạn khơi phục kinh tế tồn cầu. Đồng thời cùng với sự phát triển

nhanh chóng của khoa học, cơng nghệ thơng tin, nếu khơng có sự điều tiết trong
cơ chế thị trường của nhà nước thì sẽ khơng giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế
xảy ra.
Việt Nam đang trong quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa cần xây dựng
một nền kinh tế có hiệu quả, cân bằng ổn định, vận hành đúng đắn. Trên con
đường phát triển đó thì càng khơng thể thiếu sự quản lý của nhà nước. Từ đó,
thúc đẩy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực để giúp nước ta cố
gắng theo kịp xu hướng của thế giới.
Từ những điều trên đã khẳng định tầm quan trọng của nhà nước trong phát
triển nền kinh tế thị trường nên em chọn đề tài “ Vai trò của nhà nước Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường” để thực hiện nghiên cứu trong bài tiểu luận môn
Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Bài tiểu luận của em chỉ đưa ra một số vấn đề nên
còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Em mong cơ bỏ qua những sai sót em mắc phải và
đưa ra góp ý để em có thể khắc phục cho bài tiểu luận hồn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Đặng Hương Giang đã giúp đỡ để
em hoàn thành đề tài này.

download by :


NỘI DUNG
1.Những lý luận về vai trò của Nhà nước
1.1. Một số quan điểm về vai trò của Nhà nước
1.1.1. Cách nhìn của trường phái Tân cổ điển
Cũng giống như các nhà kinh tế Cổ điển, trường phái Tân cổ điển khơng
xem xét vai trị của nhà nước một cách biệt lập mà đặt nó trong một hệ thống lý
thuyết chung. Họ đưa ra một quan niệm tổng quát về nền kinh tế thị trường để từ
đó đánh giá vai trò của nhà nước, phân biệt rõ chỗ nào để thị trường hoạt động,
chỗ nào cần nhà nước can thiệp.
Theo phái Tân cổ điển, nền kinh tế thị trường là một hệ thống mang tính ổn

định, mà sự ổn định bên trong là thuộc tính vốn có chứ khơng phải là kết quả sự
sắp đặt của nhà nước. Khả năng đó được quyết định bởi một cơ chế đặc biệt - “cơ
chế cạnh tranh tự do.” Cạnh tranh tự do thường xuyên bảo đảm sự cân bằng
chung của nền kinh tế. Chính cơ chế này cho phép phân bổ các nguồn lực một
cách hợp lý, tận dụng triệt để mọi nguồn lực và dẫn đến quan hệ phân phối mang
tính công bằng giữa các bộ phận xã hội. Công bằng ở đây theo nghĩa, những bộ
phận nào có khả năng thích ứng tốt nhất với những diễn biến và những nhu cầu
thị trường thì sẽ có thu nhập chính đáng. Nếu như trên thực tế xảy ra những hiện
tượng không bình thường thì phải tìm nguyên nhân của những hiện tượng đó từ
chính sách can thiệp của nhà nước.
Theo quan niệm phổ biến của phái Tân cổ điển, để lựa chọn được cách can
thiệp hợp lý, nhà nước phải hiểu được cấu trúc của nền kinh tế thị trường, cơ chế
vận hành của nó và tơn trọng những quy luật khách quan liên quan đến cung - cầu.
Muốn xác định chính xác ngưỡng can thiệp thì phải hiểu những nhân tố ảnh
hưởng tới cung - cầu và những điều kiện cho sự cân bằng cung và cầu. Cũng theo
các nhà kinh tế Tân cổ điển, cạnh tranh tự do không bao giờ nảy sinh một cách tự
nhiên, nó chỉ xuất hiện và phát huy tác dụng khi được đảm bảo bởi nguyên tắc số
một: sở hữu tư nhân.
Đây là cơ sở để nền kinh tế thị trường thích ứng với mọi sự thay đổi của giá
cả. Chính chế độ sở hữu tư nhân là nhân tố cơ bản làm cho nền kinh tế thị trường
luôn khôi phục được sự cân bằng chung. Do vậy, khi nhà nước thu hẹp không

download by :


gian kinh tế của khu vực tư nhân chắc chắn dẫn tới sự bất ổn.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, quyền tự do kinh doanh của các nhà sản
xuất và quyền tự do lựa chọn của người tiêu dùng là những lực lượng chế ngự,
chi phối; chế độ tư hữu là cơ sở bảo đảm cho sự hòa hợp tự nhiên, do vậy không
cần sự điều chỉnh nào của chính phủ hay các cơ quan điều tiết khác.

Với những quan niệm trên đây, trường phái Tân cổ điển khuyến nghị nhà
nước nên dừng ở những chức năng chính là: 1- Duy trì ổn định chính trị; 2-Tạo
mơi trường pháp luật ổn định và chính sách thuế khóa hợp lý, khuyến khích
người tiêu dùng; 3- Sử dụng hợp lý ngân sách quốc gia,
hướng chi tiêu ngân sách cho mục tiêu phát triển kinh tế như đào tạo nhân lực,
nghiên cứu cơ bản để đổi mới công nghệ, hỗ trợ cho những ngành sản xuất có
triển vọng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới... Ngoài những chức năng cơ
bản đó, nhà nước khơng nên can thiệp gì thêm, hãy để cho giới kinh doanh và
người tiêu dùng quyết định những vấn đề còn lại.
1.1.2. Quan niệm của Keynes và trường phái Keynes
So sánh cách nhìn của Keynes và cách nhìn của Tân cổ điển, có thể thấy sự
khác nhau căn bản trong quan niệm về vai trò của nhà nước. Nếu Tân cổ điển cho
rằng nhà nước không nên điều tiết trực tiếp mà chỉ dừng lại ở chức năng tạo mơi
trường thì Keynes khẳng định, muốn thốt khỏi khủng hoảng, thất nghiệp và suy
thoái, nhà nước phải trực tiếp điều tiết kinh tế. Cách thức điều tiết là thơng qua
những chương trình cơng cộng và dùng những chương trình này để can thiệp tích
cực với hướng kích thích và duy trì tốc độ gia tăng ổn định của tổng cầu. Khi tổng
cầu tăng sẽ kích thích sức sản xuất, các doanh nghiệp hoạt động mở rộng sẽ thu
nhận thêm nhân công, thất nghiệp được giải quyết và sản lượng quốc gia tăng lên.
Để minh họa cho điểm này, Keynes đưa ra cách lập luận mới về đầu tư khác hẳn
với trường phái Tân cổ điển. Theo các nhà kinh tế Tân cổ điển, mức đầu tư gắn
chặt với lãi suất và nếu lãi suất thấp, quan hệ vay vốn được khuyến khích dẫn đến
sự gia tăng quy mơ đầu tư. Khi nền kinh tế bắt đầu rơi vào tình trạng suy thối, lãi
suất sẽ giảm và do đó dẫn đến mức đầu tư tăng lên. Trường phái Tân cổ điển cho
rằng đây là quy luật tự điều tiết và chính quy luật đó giúp tạo khả năng ngăn chặn
suy thoái. Ngược lại, theo Keynes, ở thời điểm suy thoái, ngay cả những nhà đầu
tư mạo hiểm nhất cũng không dám đầu tư kể cả khi lãi suất thấp vì họ cho rằng bỏ
vốn vào kinh doanh trong bối cảnh như vậy chắc

download by :



chắn sẽ thua lỗ. Như vậy khơng có một cơ chế tự hành nào có thể thúc đẩy nền
kinh tế tư bản đến khả năng sử dụng hết nguồn nhân lực và làm cho hoạt động
đầu tư tăng lên một cách đều đặn. Do vậy, để ổn định nền kinh tế và thích ứng với
biến động suy thối thì giải pháp tất yếu và cần thiết là sự can thiệp của chính
phủ.
Chính phủ có thể can thiệp vào nền kinh tế thơng qua cơng cụ chính sách tài
khóa, bao gồm thuế và chi tiêu ngân sách. Keynes nhấn mạnh vấn đề chi ngân
sách và cho rằng chính phủ nên cung ứng những kích thích ban đầu bằng những
chương trình kinh tế cơng cộng. Những chương trình kinh tế cơng cộng đó, một
mặt tạo ra việc làm, mặt khác dẫn đến tăng cầu về tư liệu sản xuất. Nó cịn có thể
dẫn đến sự xuất hiện của những hình thức hoạt động dịch vụ thu hút khối lượng
lao động lớn, làm tăng hơn nữa số lượng việc làm. Nhu cầu tiêu dùng của cá nhân
có khả năng thanh tốn tăng tạo lực đẩy kích thích khu vực kinh tế tư nhân phát
triển, khôi phục niềm tin kinh doanh. Cách thức can thiệp của chính phủ như vậy
sẽ dẫn đến hiệu ứng số nhân cho nền kinh tế.
Theo một hướng khác, nhà nước có thể kích thích cầu đầu tư bằng cách tăng số
cung về tiền tệ, hay là chấp nhận lạm phát “có kiểm sốt.” Để làm tăng cung tiền
tệ, chính phủ có thể tăng nguồn vốn cho vay, giảm lãi suất và do đó kích thích sự
gia tăng của đầu tư. Sự gia tăng này cũng nhân bội sản lượng và thu nhập của nền
kinh tế quốc dân. Theo Keynes, trong hai vấn nạn của nền kinh tế tư bản là lạm
phát và thất nghiệp thì thất nghiệp nguy hiểm hơn nhiều lần so với lạm phát. Khi
nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng với mức sản lượng và việc làm cao hơn thì lạm
phát tự động ngừng lại.
Để tác động đến tiêu dùng của dân cư, Keynes cho rằng sự điều tiết của chính
phủ cũng rất quan trọng. Muốn kích thích nhu cầu tiêu dùng trước hết phải điều
chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm thuế thu nhập, kết hợp với các biện pháp
kích thích đầu tư. Khi thuế giảm, thu nhập sẽ tăng nên tiêu dùng và tiết kiệm cũng
tăng. Nếu đầu tư cùng tăng với tiết kiệm, kết quả tổng hợp lại là gia tăng mức

tổng cầu, làm thu nhập quốc dân tăng.
Từ cách lập luận của Keynes có thể nhận định rằng, nền kinh tế thị trường
khơng có khả năng tự điều tiết tuyệt đối và vô hạn. Do vậy, để thúc đẩy sự tăng
trưởng đều đặn, nhà nước phải trực tiếp can thiệp và điều tiết. Keynes đề xuất

download by :


phải tổ chức lại nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa theo một nguyên tắc gọi
là: “Chủ nghĩa tư bản có điều chỉnh.”
Dựa trên cơ sở lý thuyết của Keynes, các nhà kinh tế học tiếp tục xây dựng
thành trường phái Keynes. Trường phái này phát triển các lý thuyết Keynes trong
điều kiện mới trên cơ sở thừa nhận các nguyên nhân của khủng hoảng, thất
nghiệp, tác động của tiêu dùng, đầu tư tư nhân đến tổng cầu và tiếp tục ủng hộ sự
can thiệp của nhà nước vào kinh tế thơng qua các chính sách khuyến khích đầu
tư, tiêu dùng. Trường phái Keynes đã phát triển việc phân tích nền kinh tế từ
trạng thái tĩnh, ngắn hạn sang phân tích động, dài hạn; đưa ra các lý thuyết giao
động kinh tế và tăng trưởng kinh tế, cụ thể hóa các chính sách kinh tế và hồn
thiện cơ chế điều chỉnh nền kinh tế TBCN.
1.2. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Vai trò của Nhà nước trong quốc phòng và trong việc
sản xuất, tiêu dùng các hàng hố cơng cộng.
Với chức năng kinh tế, nhà nước không chỉ là người quản lý, người ban hành
các quy định, các luật chơi trên thị trường, mà cịn đóng vai trị chủ thể hoạt động
sản xuất (nhất là các hàng hóa và dịch vụ cơng), là người mua và bán các hàng
hóa, dịch vụ trên thị trường. Như vậy lúc này quan hệ giữa nhà nước và thị trường
biểu hiện ra là quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường, quan hệ giữa những người
mua và người bán hàng hóa và dịch vụchịu sự tương tác, giàng buộc của các quy
luật kinh tế trên thị trường, cũng như sự quản lý điều hành của nhà nước thông
qua hệ thống quy định luật pháp và các cơng cụ quản lý.

Quốc phịng là một ví dụ chứng tỏ vai trị tối quan trọng của Nhà nước. Điều
đó được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hố hồn tồn khác hẳn với
các loại hàng hố vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn vị sử
dụng mà mua nó như một tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc
gia. Ở đây, bảo vệ cho một cá nhân khơng có nghĩa là giảm bảo vệ cho người
khác, bởi tất cả mọi người tiêu thụ các dịch vụ quốc phịng một cách đồng thời.
Các loại hàng hố kiểu như vậy được gọi là hàng hố cơng cộng, bởi khơng
một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phịng của tồn dân cho các cơng
dân riêng lẻ và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là khơng thể có

download by :


chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc
không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi trả kinh phí
cho quốc phịng. Hơn nữa, hàng hố cơng cộng là thứ hàng hố khơng thể định giá
chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy là ngun nhân chính
giải thích vì sao quốc phịng phải do n h à nước điều hành và chi phí cho quốc
phịng phải được lấy từ nguồn tài chính cơng, từ ngân sách Nhà nước có được
thơng qua thuế.
Hàng hố cơng cộng có ba đặc tính: tính khơng kình địch trong tiêu dùng, tính
khơng loại trừ (nonexcluđability) và tính khơng thể không tiêu dùng mà tựu trung
lại, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi tiêu dùng hàng hố cơng cộng
như nhau. Có nhiều ví dụ về hàng hố cơng cộng, từ các biện pháp chống lũ lụt
cho đến việc phịng chống vũ khí ngun tử, nhưng hai ví dụ có thể thấy rõ vai trị
của Nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất, đó là xây dựng cơ sở hạ
tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một cơ sở hạ
tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính khơng thể phân chia của hàng hố cơng cộng
mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây khơng có lợi. Vì thế, ở hầu hết các nước,

Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem
như là hàng hố cơng cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định
do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi Nhà
nước đều mong muốn và nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, chính Nhà nước
phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên tầm vĩ mơ.
1.2.2. Vai trò của Nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi được hiểu như là những hoạt động của một chủ thể nhất định
nào đó gây tác động đến các đối tượng này không được đền bù hoặc không phải bị
đền bù.
Các chủ thể và đối tượng tác động ở đây có thể là cá nhân hoặc các đơn vị sản
xuất kinh doanh. Sự tác động của các chủ thể này là sự tác động tốt hoặc tác động
xấu. Các chủ thể này không chịu bất cứ một trách nhiệm kinh tế nào về sự tác
động của họ, cũng như họ khơng địi hỏi một sự đền bù nào. Như vậy, yếu tố ngoại
vi là một sự thể hiện mối quan hệ sản xuất – sản xuất, sản xuất – tiêu dùng, tiêu
dùng – tiêu dùng, tiêu dùng – sản xuất. Hoạt động của người này tác động đến
hoạt động của người khác. Kết quả hoạt động của người này chịu ảnh

download by :


hưởng bởi kết quả hoạt động của người khác.
Tóm lại, khi có sự tương tác giữa các hoạt động của các chủ thể và đối tượng
khác nhau trong nền kinh tế, có thể tạo ra sự khác biệt giữa giá trị xã hội và giá trị
thị trường, lợi ích và chi phí xã hội khác biệt với lợi ích và chi phí tư nhân.
Yếu tố ngoại vi là các ảnh hưởng tốt hay không tốt do các yếu tố bên ngồi
gây nên cho hoạt động của cơng ty hay cho xã hội nói chung. Yếu tố ngoại vi xảy
ra khi có sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội.
Những chi phí ngoại vi cho sản xuất bao gồm: sự tắc nghẽn giao thông và ơ
nhiễm mơi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Những yếu tố này
gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có

thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nước
sơng đã bị ơ nhiễm mà mình phải sử dụng trong sản xuất. Vì phía thứ ba khơng
được đền bù cho những khoản chi phí ngoại vi, nên các phí tổn sản xuất khơng
được tính đến trong hệ thống giá. Trong nền kinh tế thị trường tự do, người ta chỉ
mưu toan sử dụng tối đa những phương tiện hay lợi nhuận riêng của mình, và
nhưng chi phí hay lợi ích ngoại vi sẽ không được phản ánh trong giá cả của các đồ
vật. Ví dụ, trường hợp một nhà máy có thể làm ra một loại sản phẩm rất rẻ nhưng
lại làm ô nhiễm môi trường, gây ra sự giảm sút về phúc lợi cho nhưng người khác.
Và do vậy, vai trò kinh tế của Nhà nước là điều chỉnh lại sự bất hợp lý này. Bằng
sự can thiệp, Nhà nước buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm đều phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Nhà nước khơng dễ dàng quyết định chính xác chi phí ấy là bao nhiêu, vì
khơng thể định lượng một cách chính xác tác hại mà sự ơ nhiễm ấy có thể gây ra
cho xã hội. Vì những khó khăn này, Nhà nước cần phải đảm bảo chi phí giảm ô
nhiễm không được cao hơn so với chi phí mà ô nhiễm gây ra cho xã hội. Nếu
không các nguồn lực sẽ khơng được phân bố hiệu qua.
Nhà nước có thể sử đụng một hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt,
thậm chí cả mức truy tố để nhằm giảm ơ nhiễm. Ngồi ra, Nhà nước cịn sử dụng
cả chính sách quyền sở hữu cơng khai nguồn tài nguyên, người sử dụng nguồn tài
nguyên này nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản
thuế hay biện pháp trợ cấp tối ưu đều được coi là phương thức để Nhà

download by :


nước xứ lý những yếu tố ngoại vi. Do chỗ tồn bộ chi phí xã hội là cái quan trọng
quyết định sự phân bố tài nguyên một cách có hiệu quả, cịn những chi phí tư nhân
quyết định giá hàng, cho nên vai trò của Nhà nước là tạo ra sự thăng bằng giữa cá
nhân và xã hội thông qua việc điều chỉnh sản xuất thừa hoặc tiêu dùng thừa vào
chi phí ngoại vi. Nhà nước cần can thiệp xem xét giá trị của các yếu tố ngoại vi

1.2.3. Vai trò của Nhà nước đối với vấn đề thu nhập và phúc lợi
Phúc lợi xã hội là một bộ phận thu nhập quốc dân được sử dụng nhằm thỏa
mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội, chủ yếu
được phân phối lại, ngoài phân phối theo lao động. Bảo đảm phúc lợi xã hội cho
người dân luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng. Đại hội XIII của
Đảng đã có bước phát triển mới về nhận thức lý luận và định hướng chính sách đối
với vấn đề phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng kiếm sống ở một số người là rất hạn
chế, trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập rất lớn. Vai trị của Nhà nước là
khơng thể thiếu được trong việc phân phối lại thu nhập để trong chừng mực cho
phép, có thể thu hẹp lại khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, các
chính phủ đều ln thực hiện điều đó thơng qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế
thu nhập nhằm tạo ra sự công bằng hơn trong phân phối.
Trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trị rất quan trọng
trong việc nâng cao phúc lợi cơng cộng, xố đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc
làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… ln là những vấn đề
rất cần đến sự quan tâm của Nhà nước. Rõ ràng, điều bàn cãi khơng cịn là
ở chỗ Nhà nước có nên tạo ra quỹ phúc lợi hay khơng, có nên thực hiện phân phối

lại thơng qua thuế thu nhập hay không... mà là mức độ thực hiện ra sao để vẫn có
thể khích lệ được mọi thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết kiệm
trong việc chi dùng những của cải ấy.
1.2.4. Vai trị của Nhà nước trong các chính sách tài chính và tiền tệ
Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường đóng một vai trị rất lớn trong việc
tạo ra các điều kiện kinh tế để thị trường tư nhân có thể phát huy hết hiệu quả hoạt
động của mình.

download by :



Một trong các vai trị đó là tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận
rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và đồng
thời có khả năng duy trì giá trị tiền tệ thơng qua các chính sách hạn chế lạm phát.
Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước đã
tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó ngân
hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều
đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất
của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp
có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và thất
nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi
suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn
giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì cũng rất chậm, và kết
quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm.
Khi cả thất nghiệp và lạm phát xảy ra đồng thời, chính phủ có thể rơi vào tình
trạng tiến thối lưỡng nan. Bởi vì, các chính sách tài chính và tiền tệ đều điều
chỉnh lại mức chi tiêu của cả một nền kinh tế quốc dân, nhưng lại khơng thể đối
phó với sự giảm đột ngột về cung - một nhân tố có thể đẩy nhanh cả lạm phát lẫn
thất nghiệp. Tình trạng này đã xảy ra vào những năm 70 của thế kỷ XX, khi có
lệnh đình chỉ xuất khẩu đầu của các nước sản xuất dầu, dẫn tới giá cả tăng nhanh
trong nền kinh tế các nước cơng nghiệp hố. Như vậy, sự giảm cung sẽ dẫn đến
tình trạng giá cả tăng nhanh trong khi đó thì sản xuất và việc làm lại giảm. Để đối
phó với cú sốc cung này đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước có thể tăng
cường các biện pháp khuyến khích sản xuất, tiết kiệm và đầu tư, tăng hiệu quả
cạnh tranh băng cách giảm sự độc quyền, khắc phục sự trì trệ và kìm hãm của các
nguồn lực quan trọng.
Như vậy, có thể nói, dẫu Nhà nước khơng thể cung cấp phương thuốc bách
bệnh trong cuộc đấu tranh muôn thuở với lạm phát và thất nghiệp trong các nền
kinh tế thị trường thì nó vẫn được coi là nhân tố tích cực trong việc điều hồ các
ảnh hưởng của chúng. Hầu hết các nhà kinh tế hiện nay đều thừa nhận tầm quan

trọng của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống lạm phát và thất nghiệp thông qua
các chính sách ồn định dài hạn.

download by :


2. Những lý luận về kinh tế thị trường

2.1. Khái niệm
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ
chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị
trường, trong đó quy luật giá trị đóng vai trị chi phối và được biểu hiện bằng
quan hệ cung cầu trên thị trường.
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit
(Adam Smith), với lí thuyết “bàn tay vơ hình" thì nền kinh tế thị trường là nền
kinh tế tự điều tiết, vận động theo quy luật của thị trường, hầu như khơng có sự
can thiệp của Nhà nước. Kinh tế thị trường được hiểu dưới góc độ khác là có sự
can thiệp trực tiếp của Nhà nước “bàn tay hữu hình" mà đại diện cho thuyết này
là Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ".

2.2. Ưu điểm
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung,
thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người
sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn
thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, cho phép họ tăng quy mơ sản xuất, và do
đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả.
Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận
thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất

thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động
lực để các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình, bởi khi các doanh nghiệp
đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường thì địi hỏi họ phải đổi
mới về cơng nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm của mình.
Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến

cho phương thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm.
Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người
có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý kinh doanh, cũng là nơi để đào thải
những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.

download by :


Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế,
các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản
xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình. Trong thương mại quốc
tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác
định điều kiện thương mại giữa hai bên.
2.3. Khuyết điểm
Nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bằng bất kỳ giá
nào, không đi đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế
vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường cịn dẫn đến tập trung hóa cao
độ, sinh ra độc quyền, cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung và tính tự điều chỉnh
của nền kinh tế.
Kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh
tế phát triển, lúc đó vai trị của kinh tế nhà nước bị giảm sút và chịu sức ép
mạnh mẽ từ các thành phần kinh tế khác.
Nền kinh tế thị trường do các nhà sản xuất hàng hóa dịch vụ chạy theo lợi

nhuận gây ra hậu quả về môi trường sinh thái làm giảm tốc độ tăng trưởng bền
vững của quốc gia.
Mặt trái của kinh tế thị trường là các tệ nạn xã hội mới nảy sinh càng ngày
càng tăng.
3. Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường

3.1. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng cịn tồn tại các hình thức sở hữu khác
nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị
chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện
đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác

download by :


lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách
vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà khơng tính đến hiệu quả như trước
đây.
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ
chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường
để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân

lao động của toàn thể nhân dân.
Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa
dạng hố các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và thơng qua phúc lợi xã hội". Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực
kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể
hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Đây là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
3.2. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
3.2.1.Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trị kinh tế đặc biệt

download by :


Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó
quản lý. Tuỳ thuộc vào bản chất của nhà nước và trình độ phát triển kinh tế của
từng chế độ xã hội mà vai trị kinh tế của nhà nước có những biểu hiện thích

hợp.Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vai trò kinh tế chủ
yếu thể hiện ở việc điều tiết bằng thuế và luật pháp.
Đến chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, với sự xuất hiện khu vực sở hữu
nhà nước, làm cho nhà nước tư sản bắt đầu có vai trị kinh tế mới.
Ngồi việc điều tiết nền sản xuất xã hội thơng qua thuế và luật pháp, nhà nước
tư sản cịn có vai trị tổ chức quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế của
nhà nước.
Chỉ đến nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, mới có vai trị kinh tế đặc biệt. Vai trị kinh tế đó là tổ chức, quản lý
toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở cả tầm kinh tế vĩ mô và vi mô, trong đó quản lý
kinh tế vĩ mơ là chủ yếu.
Sở dĩ nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trị kinh tế đặc biệt, mới mẻ so với
các nhà nước trong lịch sử là bởi vì:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện cho nhân dân và toàn xã hội,

có nhiệm vụ tổ chức, quản lý đất nước về mọi mặt hành chính, kinh tế, xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện cho sở hữu tồn dân về tư

liệu sản xuất, có nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà
nước.
- Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, bên cạnh những

mặt tích cực là chủ yếu, cịn có những hạn chế, khuyết tật như: khủng hoảng,
thất nghiệp, lạm phát, cạnh tranh không lành mạnh, phân hố giàu nghèo...
cần có sự quản lý của nhà nước nhằm góp phần khắc phục những khuyết tật,
phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
3.2.2. Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước
Một là, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi và đảm bảo ổn định chính
trị, xã hội cho sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường các chủ thể kinh
tế của thị trường được tự chủ, nhưng quyền tự chủ được thể chế hoá thành pháp

luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Với hệ thống pháp luật đồng
bộ, có hiệu lực cao và sự ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần

download by :


thiết cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, nhà nước tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho phát triển kinh tế.
Nhà nước xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; ban hành các
chính sách; trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội
phát triển theo mục tiêu xác định. Nhà nước thơng qua những chính sách ưu đãi,
những hình thức hỗ trợ, những địn bẩy kinh tế để hướng các doanh nghiệp vào
các ngành, các lĩnh vực mà nhà nước muốn ưu tiên phát triển. Nhà nước trực tiếp
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất, kết cấu hạ tầng xã hội, tham gia phát
triển và kinh doanh những dịch vụ công cộng quan trọng như bảo đảm an ninh,
quốc phịng, tài chính, tín dụng... Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những
chấn động, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, do đó nhà nước phải sử dụng các
chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập và giá cả, kinh tế đối ngoại... để ổn định môi
trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế yên tâm hoạt
động, phát huy nội lực của nền kinh tế, đồng thời mở rộng hợp tác và phân công
lao động quốc tế.
Ba là, nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và lành
mạnh. Nhà nước phải ban hành các quy định, thực hiện những biện pháp nhằm
ngăn chặn những tác động từ bên ngồi có ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh
lành mạnh. Chẳng hạn, sự xuất hiện của độc quyền sẽ làm cho nền kinh tế trì trệ,
kém hiệu quả. Hoặc do chạy theo lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp có thể làm ô
nhiễm môi trường sống, khai thác cạn kiệt tài nguyên... ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế bền vững. Vì vậy, những quy định của nhà nước về điều kiện sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh, giá
cả thị trường phản ánh đúng chi phí sản xuất, làm cho thị trường hoạt động có

hiệu quả.
Bốn là, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thị trường có nhiều tác động
tích cực đối với sự phát triển kinh tế năng động và hiệu quả, nhưng cũng có
những hạn chế, khuyết tật như: phân hố giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn
xã hội... Vì vậy, nhà nước cần khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, thực hiện công bằng xã hội, tạo động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường là nhằm làm cho mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân

download by :


chủ và văn minh.
3.3.Thực tiễn vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
Thực tiễn 35 năm đổi mới đã chứng minh, phát huy vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước góp phần quan trọng thúc đẩy “Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân
đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao;
quy mơ và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện”.
Thứ nhất, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa không thủ tiêu cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội
nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường”;
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo khơng phủ định cạnh tranh mà cịn là nhân tố
thúc đẩy sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Quá trình đổi mới,
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu khách quan phải tôn
trọng và thực hiện đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường. Đến nay, Việt Nam đã ký
kết và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các
hiệp định tiêu chuẩn cao, như CPTPP, EVFTA, v.v. Theo đánh giá của Diễn đàn

kinh tế thế giới, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm
2019 đứng thứ 67/137 nền kinh tế. Điều đó cho thấy, dù kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo nhưng sự cạnh tranh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta không kém phần quyết liệt.
Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động chủ yếu trong những
lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm và không làm được, hoặc
đóng vai trị dẫn dắt, khai phá những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế,
như: quốc phòng, an ninh, năng lượng, sân bay, cảng biển, hạ tầng giao thông
tham gia cung ứng các sản phẩm dịch vụ cơng ích nhưng vẫn bảo đảm tn thủ
ngun tắc thị trường, bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Đảng ta chủ trương
các doanh nghiệp nhà nước phải: “hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện
đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh làm tiêu chí đánh
giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế”. Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta không ưu ái doanh nghiệp nhà nước
và phân biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

download by :


khác.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế tự chủ sản xuất, kinh doanh, cạnh
tranh bình đẳng, cơng khai, minh bạch, chịu sự điều tiết của các quy luật kinh tế
thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình cổ phần hóa, đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, Chính
phủ chủ trương thối vốn và nhường lại thị phần ở các lĩnh vực mà doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác có khả năng hoạt động đạt hiệu quả sản xuất,
kinh doanh cao, như: thương mại tiêu dùng, dịch vụ, du lịch, vận tải, v.v. Đồng
thời, thực hiện nghiêm chủ trương “Xóa bỏ cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp,
bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước,

tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế,…” gắn
với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hồn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Đó là minh chứng việc: Đảng, Nhà nước ta ln quan tâm, khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển;
trong đó, kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm.
Các yếu tố trên đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển khu vực doanh nghiệp
ngồi nhà nước, như: có 591.499 doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, chiếm
96,9% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước; gấp nhiều lần so với số liệu tương
ứng của doanh nghiệp nhà nước là 2.260 doanh nghiệp và 0,4% 6. Riêng Quý I và
tháng 4/2021, có 44.166 doanh nghiệp thành lập mới, 21.381 doanh nghiệp quay
trở lại hoạt động; trong đó, doanh nghiệp quy mơ vốn đầu tư trên 100 tỉ đồng là
465 doanh nghiệp, tăng 33,2% so với cùng kỳ năm 2020. Việc kinh tế tư nhân
tham gia các lĩnh vực nền tảng của nền kinh tế, như: công nghiệp chế tạo, công
nghệ cao, xây dựng đường cao tốc, sân bay, cảng biển, năng lượng tái tạo, truyền
tải điện, logistics ngày càng khẳng định vai trò là một trong những động lực quan
trọng của nền kinh tế. Trong đó, nhiều doanh nhiệp, tập đồn đã khẳng định
thương hiệu đối với thị trường trong nước và quốc tế, như: Vingroup, Thế giới di
động, Hòa Phát, Vietjet, VP bank, v.v. Đây là minh chứng không thể chối cãi về
chủ trương kiến tạo, xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta.

download by :


Thứ hai, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ngày càng được khẳng định
và phát huy; thực sự là công cụ, lực lượng vật chất để Nhà nước ổn định kinh tế
vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc
phục các khuyết tật của kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế
nhà nước nắm giữ tỷ trọng đa số hoặc có vị trí chi phối một số ngành, lĩnh vực

nền tảng của nền kinh tế, như: 25% vốn điều lệ, 48% thị phần huy động vốn và
50% thị phần cho vay của tồn hệ thống tín dụng; 86% sản lượng điện phát vào
mạng lưới, 97% sản lượng than sạch, 100% sản lượng dầu thô, 85% thị phần
bán lẻ xăng dầu, v.v.
Trong điều kiện thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu tác động tiêu cực tới
kinh tế - xã hội mọi quốc gia trên thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP của
Việt Nam giai đoạn 2016 - 2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm. Đặc biệt, năm
2020, với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, tăng trưởng GDP vẫn
đạt 2,91%, thuộc nhóm cao nhất thế giới; quy mô GDP đạt trên 340 tỉ USD,
tương đương với thu nhập bình quân/người đạt hơn 3.500 USD. Các chỉ số phát
triển kinh tế - xã hội được duy trì ổn định, như: tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn
định, cán cân thanh toán thặng dư (xuất siêu 5 năm liên tiếp); tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 03% năm 2020; tỷ lệ
tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 76% năm 2015 lên 90,7% dân số năm 2020;…
nhiều cơng trình hạ tầng về giao thơng, năng lượng, thủy lợi, đô thị, khu công
nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục,… được hoàn thiện, đưa vào khai
thác, sử dụng tạo thêm năng lực cạnh tranh và diện mạo mới cho nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước còn là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng bảo đảm quốc
phòng, an ninh, xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội tạo cơ sở nền tảng vững
chắc để Việt Nam thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa quyết liệt phòng,
chống dịch Covid-19 với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung
phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, đa số doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước khẳng định vị trí đầu
tàu về hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát huy tốt vai trị là cơng cụ, lực lượng
vật chất để Chính phủ điều tiết nền kinh tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các
chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát,tạo nguồn thu cho ngân
sách nhà nước, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội. Số liệu thống

download by :



kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố năm 2020 cho thấy: tuy chỉ chiếm 0,4%
trong tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng doanh nghiệp nhà nước huy động,
thu hút vốn cho sản xuất, kinh doanh đạt 9,65 triệu tỉ đồng, doanh thu cao nhất
với 13,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 323,64 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ lệ
tương ứng là 24,8%, 56,7% và 36,1% của tồn bộ doanh nghiệp); trong khi đó,
doanh nghiệp ngồi nhà nước chiếm 96% tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng
chỉ thu hút được 22,25 triệu tỉ đồng vốn cho sản xuất, kinh doanh, doanh thu đạt
3,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 190,36 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ lệ
tương ứng là 57,2%, 14,4% và 21,3%); thu nhập bình quân tháng một lao động
của doanh nghiệp nhà nước đạt 12,56 triệu đồng, cịn doanh nghiệp ngồi nhà
nước chỉ đạt 7,87 triệu đồng. Theo số liệu thống kê của Công ty Cổ phần Báo
cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report JSC. - VNR) công bố TOP 500 doanh
nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2020 thì có đến 07 doanh nghiệp nhà nước thuộc
nhóm 10 doanh nghiệp hàng đầu.

download by :


KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và
phồn thịnh trong các nước tư bản. Để đạt được điều đó, khơng thể khơng nói đến
vai trị lãnh đạo kinh tế của nhà nước trong việc điều tiết cơ chế thị trường cũng
như định hướng sự nghiệp phát triển đất nước. Sự kết hợp hài hòa giữa sự vận
hành của cơ chế thị trường và sự quản lý của nhà nước là cần thiết và là giải
pháp mang lại thành công trên con đường phát triển.
Trên cơ sở những lý luận về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
hiện đại, chúng ta có thể thấy được vai trò và phạm vi ảnh hưởng của nhà nước
trong quá trình đất nước ta đang đi lên định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó vận

dụng vào thực tiễn của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong bối cảnh hiện
nay, khi cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, nước ta cần một
cơ chế quản lý, điều hành một cách phù hợp nhất từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa
vào kinh tế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến việc chỉ
dựa vào tổ chức quản lý điều hành của nhà nước để phát triển kinh tế ổn định,
vững chắc.

download by :


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường – Luật Minh Khê
/>Kinh tế thị trường – Luật Minh Khê ve-kinh-te-thi-truong.aspx

Phần 1 Các lý thuyết kinh tế - TS. Phạm Thị Hồng Diệp
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin - Đồng chủ biên: PGS. TS.
Nguyễn Văn Hảo PGS. TS. Nguyễn Đình Kháng PGS.TS. Lê Danh Tốn
Tạp chí Quốc phịng tồn dân - Khơng thể phủ nhận vai trị của kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta - Đạ i tá, TS. THÁI DOÃN TƯỚC - Trung tá, ThS. THÁI
DOÃN HÙNG

download by :



×