Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.67 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
VIỆN KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
~~~~~~~~~*~~~~~~~~~

TIỂU LUẬN MÔN
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Họ và tên sinh viên: Giáp Huу Công
Lớp: TRI114.6
Mã sinh viên: 2114120002
Số báo danh: 14
Giảng viên giảng dạу: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm
Hà Nội năm 2022


Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU........................................................................................................ 03
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VỀ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC............................................................................ 05
1.1.Cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm trù vật chất......................05
1.1.1. Định nghĩa về vật chất...................................................................... 05
1.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.................................. 06


1.2.Cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm trù ý thức ……………… 08
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức.........................................................................
08
1.2.1.1. Nguồn gốc tự nhiên..................................................................
08
1.2.1.2. Nguồn gốc xã hội..................................................................... 09
1.2.2. Bản chất cúa ý thức…....................................................................... 11
1.2.3. Kết cấu của ý thức..............................................................................
12
1.3.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức..................................... 14
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức................................................................ 14
1.3.2. Ý thức tác động trở lại vật chất….................................................... 15
1.3.3. Ý nghĩa của phương pháp luận....................................................... 16
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA NGÀY HÔM NAY………………………………………………… 18
2.1 Thời kì trước khi đổi mới…………………………………………………… 18
2.2 Thời kì sau đổi mới…………………………………………………………. 20
11/05/2022

Trang 2


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

KẾT LUẬN.......................................................................................................... 22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 23

LỜI NĨI ĐẦU
Sống trong thời kì tồn cầu hóa, mỗi chúng ta đều có những cách nhìn nhận,
những quan điểm riêng của mình về thế giới và vai trò, sự tồn tại của con người
trong thế giới ấy. Và những quan điểm ấy được gọi là thế giới quan. Nhưng một
vấn đề được đặt ra là liệu thế giới quan của tất cả mọi người đều đúng đắn? Thế
giới quan của mỗi người là do bản thân họ quyết định nhưng nó lại bị chi phối bởi
Triết học, mà cụ thể ngày nay là hệ thống triết học Mác- Lênin. Quả thật, trong xã
hội ngày nay, triết học đóng một vai trị vơ cùng quan trọng. Bên cạnh chức năng
của một “nhà lãnh đạo” giúp con người nhìn nhận một cách đúng đắn về thế giới
quan, triết học cịn giúp con người có được khả năng đánh giá những biến động
đang diễn ra, giúp con người dễ dàng hơn trong việc tìm ra những giải pháp để giải
quyết những vấn đề mà con người có thể gặp phải trong thời kì mới. Quả đúng như
danh xưng, “khoa học của các khoa học”, những vấn đề triết học về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức luôn là cơ sở, là phương pháp cho các hoạt
động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội ngày nay.
Bằng việc vận dụng quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức vào công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng nể như:
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phịng, … đã có những chuyển
biến tích cực, chúng ta cịn có chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, … Quả thật, đây là những dấu hiệu đáng
mừng, và đây cũng chính là nguồn động lực to lớn thôi thúc em, một công dân của
nước Việt Nam dân chủ cơng hịa, tiếp tục đào sâu, nghiên cứu về triết học, cụ thể

11/05/2022

Trang 3



Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức, và vận dụng mối quan hệ
này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu
luận bao gồm 2 chương:
Chương I: Cơ sở lу luận về quy luật biện chứng về vật chất và ý thức.
Chương II: Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta ngày này
Mặc dù đã cố gắng nhưng chắc chắn không thể nào tránh khỏi những thiếu
sót, vì vâỵ, em hi vọng, cơ có thể đóng góp ý kiến để bài tiểu luận có thể hồn
thiện và đạt kết quả tốt nhất.
Em xin trân thành càm ơn!

11/05/2022

Trang 4


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002


CHƯƠNG I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỀ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
1.1.Cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm trù vật chất.
1.1.1. Định nghĩa về vật chất.
Vật chất được xem là một phạm trù triết học tương đối phức tạp. Mà nói
như Ph. Ăngghen: “vật chất với tính cách là vật chất khơng có sự tồn tại cảm
tính”. Từ ý kiến của Ph. Ăngghen ta có thể hiểu như sau, tức là, con người cân
phân biệt được vật chất và tính cách là một phạm trù của triết học, nó được coi
là một sự sáng tạo trong khối óc, tư duy của con người trong quá trình phản
ánh lại hiện thực với các sự vât và hiện tượng của thế giới vật chất. Kế thừa từ
tư tưởng tiến bộ của Ph. Ăngghen, Lênin đã nâng lên thành một khái niệm hết
sức bao quát, trong đó Lênin có nhắc đến những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, vật chất là phạm trù triết học. Nói về vật chất, con người sẽ nghĩ
đơn giản đó chính là những vật dụng, tài sản,… của con người mà con người
có thể cầm, nắm, sờ, nắn, cảm nhận bằng các giác quan như thị giác, thính giác,
cảm giác,… Tuy nhiên, trong định nghĩa về phạm trù vật chất của Lênin, vật
chất không đơn giản như vậy mà vật chất chính là kết quả được kết tinh từ q
trình khái qt hóa, trừu tượng hóa những tính chất, thuộc tính cùng những mối
quan hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái gì là chúng
11/05/2022

Trang 5


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002


nhất, vô hạn, vô tận, khơng sinh ra cũng khơng mất đi. Do đó, khơng thể nào
đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Hai là, vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan. Tại sao vật chất lại
dùng để chỉ thực tại khách quan? Đây có lẽ sẽ là câu hỏi mà nhiều người đặt
ra và muốn làm rõ. Thực chất, sự tồn tài của vật chất chính là nằm bên ngồi
ý thức và khơng phụ thuộc và ý thức. Có thể nói, vật chất tồn tại khách quan
so với hiện thức, hay nói cách khác, “tồn tại khách quan” chính là một thuộc
tính cơ bản của vật chất. Và đây cũng chính là cơ sở, tiêu chuẩn để chúng ta
có thể so sánh và phân biệt được cái gì là vật chất hay cái gì khơng phải là
vật chất. Và một lập luận nữa chứng minh chi sự tồn tại khách quan của vật
chất trong hiện thực là dù con người có nhận thức được hay khơng nhận thức
được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
Ba là, vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại lệ thuộc vào cảm
giác. Chúng ta có thể hiểu đơn giản là vật chất dù tác động trực tiếp hay gián
tiếp đến các giác quan của con người hay ý thức của con người thì đó chính
là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Tóm lại, qua phát biểu của Lênin, bằng việc chỉ ra những thuộc tính
khách quan, con người chúng ta đã có được cơ sở để phân biệt được phạm
trù vật chất với tư cách là một phạm trù của triết học, khoa học chuyên
ngành. Và cũng chính từ đó, chúng ta khắc phục được những hạn chế trong
quan niệm cũ và cung cấp những căn cứ khoa học để xác định được vật chất.
Bên cạnh đó, con người cũng có thể giải quyết được vấn đề cơ bản của triết
học là: vật chất hay ý thức là thứ có trước? Qua nhận định của Lênin, chúng
ta hồn tồn có thể khẳng định được vật chất có trước, ý thức là cái có sau và
vật chất thì quyết định ý thức. Chính kết quả này đã góp phần đặt nền móng
để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội của con người sau này.
11/05/2022


Trang 6


Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

1.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.
Nói về vật chất, Ph. Ăngghen từng quan niệm: “Vận động hiểu theo
nghĩa chung nhất”, -tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất,
là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra tring vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản đến tư
duy”. Nói cách khác, vận động chính là phương thức tồn tại của vật chất.
Như vậy, vật chất và vận động không thể nào tách rời nhau, ngược lại
chúng có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ, bởi lẽ vật chất chỉ có thể tồn
tại bằng cách vận động và thơng qua vận động mà chúng ta có thể xác định
được đó là vật chất. Bất kì sự vật hiện tượng xuất hiện xung quanh cuộc
sống của chúng ta, dù là vật thể vô cùng lớn như các ngôi sao, thiên hà, …
hay vật thể vô cùng nhỏ như các hạt nhân nguyên tử, dù tồn tại vô sinh hay
hữu sinh cũng đều vận động và biến đối không ngừng.
Và từ những thành tựu khoa học đó, Ph. Ăngghen đã tiến hành phân
loại vận động và kết quả là chúng ta có năm hình thức cơ bản như sau: vận
động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận
động xã hội.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Vậy
khơng gian và thời gian là gì? Chúng ta đều biết, mọi dạng vật chất cụ thể
đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một khoảng tính nhất định và tồn tại
trong một mối tương quan nhất định với những dạng vật chất khác. Những

hình thức tồn tại ấy, người ta gọi là khơng gian. Cịn nói về thời gian, nói
một cách dễ hiểu thì những hình thức tồn tại mà ở trong đó, sự tồn tại của
vật chất được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp hay
chuyển hóa, … thì đó được gọi là thời gian. Và cũng chính từ định nghĩa từ
thời gian và khơng gian chúng ta biết được khơng có vật chất nào tồn tại

11/05/2022

Trang 7


Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

bên ngồi khơng gian và thời gian cùng như khơng có thời gian và khơng
gian nào tồn tại bên ngoài vật chất.
Như vậy, muốn quan sát sự vận động của vật chất thì chúng ta phải
xem xét nó trên hai phương diện cả khơng gian và thời gian. Do đó, những
hình thức tồn tại của vật chất cũng mang trong mình những tính chất chung
như tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vơ tận
và vơ hạn. Ngồi ra, con người cịn nghiên cứu và chứng minh được khơng
gian có thuộc tính ba chiều cịn thời gian chỉ có một chiều. Tuy nhiên, cả
hai thuộc tính ấy đều biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và q trình
diễn biến của vật chất vận động xung quanh xã hội loài người.
1.2.Cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm trù ý thức.
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức.
1.1.1.1. Nguồn gốc tự nhiên.

Bên cạnh vật chất, ý thức chính là một nhân tố không thể thiếu. Vậy ý
thức là gì? Nói như chủ nghĩa duy vật Macxit: “Ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào trong bộ óc của con người”. Và cũng chính từ định nghĩa này
chúng ta biết được nguồn gốc của ý thức được sản sinh ra chính bởi bộ óc của
con người. Bộ óc con người có thể nói đó chính là sản phẩm cao nhất của thế
giới vật chất. Nó có khả năng truyền dẫn, thu nhận và điều khiển toàn bộ hoạt
động của cơ thể trong quan hệ với thế giới xung quanh. Ví dụ, nếu con người
muốn nhấc bàn tay của mình lên thì bộ não sẽ ngay lập tức phát ra xung thần
kinh truyền đến tay để nhấc bàn tay lên. Có thể nói, trong thế giới của những
khối cơ, dây thần kinh, tế bào, … bộ não đóng vai trò là một vị vua điều khiển
và chi phối mọi hoạt động của thế giới ấy. Và cũng chính bởi cương vị quan
trọng ấy mà chúng ta không thể nào tách ý thức ra khỏi bộ não của con người.
Bởi chính vì có bộ não phát triển hơn sản sinh ra ý thức loài người mới là loài
cao cấp nhất và ngự trị mn lồi cho đến ngày nay.
11/05/2022

Trang 8


Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

Quả thật, chính não bộ là cơ quan chi phối và hình thành nên ý thức.
Nhưng trong q trình vận động và phát triển khơng ngừng, dưới sự tác động
của hiện thực khách quan, bộ óc bị chịu ảnh hưởng và đó là mầm mống để hình
thành nên quá trình phản ánh. Như chúng ta đã biết, phản ánh chính là sự tái
tạo lại những đặc điểm, tích chất của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác

trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Và quá trình phản ánh
được chia thành năm cấp độ khác nhau từ thấp đến cao như: phản ánh vật lý,
phản ánh hóa học, phản ánh sinh hóc, phản ánh tâm lí và phản ánh năng động
sáng tạo- hình thức phản ánh cao nhất.
1.2.1.1. Nguồn gốc xã hội.
Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam- Hồ Chí Minh từng nói: “Lao động
là vinh quang”. Và câu nói ấy cũng chính là lời khẳng định chắc nịch về tầm
quan trọng của lao động đối với xã hội lồi người. Nói về lao động thì lao động
chính là q trình con người sử dụng cơng cụ lao động tác động vào thế giới tự
nhiên nhằm thay đổi thế giới tự nhiên sao cho phù hợp với nhu cầu và phục vụ
con người trong quá trình sinh tồn tại và phát triển. Để buộc các sự vật và hiện
tượng bộc lộ các thuộc tính và quy luật vật động của nó, con người phải khơng
ngừng lao động, và vơ tình trong q trình lao động ấy, con người ta mới biết
được, nhận thức và hiểu được về sự vật và hiện tượng ấy. Và cũng chính nhờ
lao động, con người dần dần tiến hóa, từ lồi có bốn chi, con người đã biết đi
bằng hai chân, sự chuyển hóa ấy đã giúp con người có thể dễ dàng, thuận lợi
trong săn bắt, hái lượm, trọng lao động và sản xuất để từ đó thu được nhiều của
cải vật chất hơn nữa.
Chính nhờ sự phát triển của nhận thức khi tiếp xúc và chi phối sự vật hiện
tượng, mà con người ngày càng học hỏi được nhiều điều hơn từ thiên nhiên,
con người không chỉ biết ăn hoa quả, rau cỏ nhờ hái lượm mà con người con
11/05/2022

Trang 9


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6


MSSV: 2114120002

biết săn bắn và ăn thịt động vật, khơng chỉ ăn sống mà họ cịn biết nướng chín
để ăn. Tìm ra lửa cũng chính là một thành tựu tạo ra bước đột phá lớn trong xã
hội lồi người và thành tựu ấy cũng chính là do lao động mà nó được tìm thấy
và hình thành.
Một thành tựu nữa mà lao động mang lại cho con người, đó chính là cơng
cụ lao động. Sáng tạo ra công cụ lao động như là một con đường tắt giúp con
người có những bước nhảy vọt trong sự phát triển. Nhờ có cơng cụ lao động, số
lượng của cải của con người ngày càng tăng cao, và chính vì lẽ đó, một số
người có quyền lực trong thị tộc, bộ lạc đã chiếm làm của riêng. Chế độ tư hữu
xuất hiện, kèm theo đó là chế độ giàu nghèo cùng những mâu thuẫn khơng thể
giải quyết được chính là thời kì mà nhà nước xuất hiện. Cuối cùng, cũng chính
nhờ có lao động mà con người hồn thiện các giác quan của mình hơn, nhất là
khối óc. Chúng ta có thể thấy, từ xa xưa thời kì ngun thủy con người vẫn “ăn
lông ở lỗ” đến ngày nay thời kì hiện đại, con người đã tìm ra, sáng tạo và phát
minh ra rất nhiều thứ có ý nghĩa vơ cùng to lớn, tất cả đều được ghi chép lại và
ngày nay được chuyển thành dữ liệu cho hậu thế đời sau có thể cơng nhận, tiếp
thu, duy trì và phát huy. Tri thức vô hạn ấy đã chứng minh sự hồn thiện của
khối óc của con người.
Mặt khác, ngơn ngữ cũng chính là phương tiện khiến cho con người
ngày càng hồn thiện ý thức, tư duy, trí tuệ của con người. Lấy lao động làm
gốc, ngôn ngữ ra đời chính là kết quả của mong muốn, cụ thể là nhu cầu giao
tiếp và trao đổi thông tin. Sự ra đời của ngôn ngữ - “cái vỏ” vật chất của tư duy
đã giúp con người có thể thể thiện được ý thức và góp phần phản ánh một cách
khái quát, gián tiếp về sự vât, hiện tượng. Không chỉ vậy, ngơn ngữ cịn là
phương tiện lưu trữ và truyền đạt thơng tin hiểu quả. Chưa dừng lại ở đó, với
sự hỗ trợ đắc lặc từ ngơn ngữ, con người có thêm khả năng giao tiếp, trao đổi,
biết cách khái quát, tổng kết, kèm theo đó là khả năng đúc kêt thực tiễn và cũng
11/05/2022


Trang 10


Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

chính vì sự xuất hiện của ngơn ngữ mà con người có thể duy trì, bảo tồn, phát
huy những tri thức thu thập được, truyền đạt được kinh nghiệm và tư tưởng từ
thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, chúng ta hồn tồn có thể nhận thức được, lao động và ngơn ngữ
chính là hai yếu tố có tầm ảnh hưởng lớn và kích thích mạnh mẻ vào não bộ
khiến não bộ của một con vật tiến hóa thành não bộ của một con người, biến
những phản ứng tâm lí động vật thơng thường thành ý thức. Nếu nói nguồn gốc
tự nhiên chính là điều kiện cần thì chính nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý
thức xuất hiện, thiếu một trong hai nhân tố này thì đồng nghĩa với việc sẽ
khơng có sự xuất hiện của ý thức. Tóm lại, con vật khơng có ý thức, ý thức là
sản phẩm đặc trưng của bộ não con người và cũng chính ý thức là “chiếc
vương miện” rực rỡ biểu chưng cho sự thống trị thế giới của loài người.
1.2.2. Bản chất của ý thức.
Nếu như nói về nguồn gốc, ý thức xuất phát từ hai nhân tố tự nhiên và xã
hội thì khi nói về bản chất, ý thực lại là phương tiện phản ánh sự năng động,
sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Vậy con người đã
năng động và sáng tạo như thế nào? Là một cá thể sống có ý thức, con người
năng động trong việc lựa chọn và định hướng đối tượng nhận thức tùy thuộc
vào chủ thể nhận thức. Còn về phương diện sáng tạo, con người biết thu thập,
tích lũy và phát triển, từ những tri thức đã có sẵn trong thơng qua quá trình lao

động, con người đã biết tạo ra những tri thức mới thông qau câc giải thuyết
khoa học và rút ra những kết luận mới một cách khái quát và gián tiếp về đối
tượng. Sự thật là, con người có thể tạo ra những hình ảnh và biểu tượng khồn
có thực trong xã hội.
Có thể nói, bản chất của ý thức có được là do có sự thống nhất của 3 giai
đoạn:

11/05/2022

Trang 11


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

 Giai đoạn 1: Sự thống nhất giữa chủ thể và đối tượng nhận thức, chủ
thể nhận thức lựa chọn, định hướng đối tượng nhận thức.
 Giai đoạn 2: Mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng vật chất
khúc xạ.
 Giai đoạn 3: Sự hiện thực hóa mơ hình trong tư duy thơng qua hoạt
động của con người.
Có nhận định cho rằng: “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”. Đây là một nhận định hoàn toàn đúng, bởi lẽ ý thức chính là hình ảnh
mơ phỏng, tái tạo lại của thế giới khách quan với những quy định về nội dung
và hình thức nhưng nó khơng bao giờ y ngun với cái khách quan ngồi thế
giới kia mà nó bị biến tấu, cải tạo lại thơng qua lăng kính chủ quan của con
người hay còn gọi là ý thức. Thật vậy, ý thức chính là một hiện tượng xã hội và

mang bản chất của xã hội. Ý thức chính là được nảy sinh từ quá trinh lao động,
hoạt động. Mà chúng ta cũng biết rằng, đó khơng thể nào là một hoạt động đơn
lẻ mà đó là q trình lao động khơng ngững nghỉ của một nhóm người, của một
cộng đồng và của một xã hội. Như vậy, người ta gọi lao động chính là hoạt
động xã hội.
1.2.3. Kết cấu của ý thức.
Ý thức được coi là một phạm trù rất bao quát cũng rất phức tạp. Nó bao
hàm rất nhiều yếu tố, và chúng ta hồn tồn có thể chia nó thành các phần như
tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí.


Về phương diện tri thức, đầu tiên chúng ta cần phài hiểu được tri thức

là gì? Tri thức hiểu theo một cách đơn giản chính là sự hiểu biết của con người
về thế giới sống xung quanh chúng ta. Chúng ta có thể chia tri thức thành hai
loại tri thức cảm tính và tri thức lí tính. Thứ nhất, tri thức cảm tính là sự nhận
biết những sự vật, hiện tượng ở vẻ bề ngồi. Cịn tri thức lí tính thì là sự hiểu
11/05/2022

Trang 12


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

biết của con người về bản chất bên trong của sự vật. hiện tượng ấy. Và cúng
chính nhờ sự hịa quyện, kết hợp của hai loại tư duy, con người có thể hiểu

được sự vật ở cả tầm vĩ mơ và vi mơ, từ đó, áp dựng những thuộc tính, tính
chất của nó và thực tiễn đời sống nhằm thỏa mãn nhu cầu của chúng mình.


Phương diện thứ hai là tình cảm. Tronng thi ca tình cảm, cảm xúc

chính là một phương diện khơng thể thiếu. Như Gorki đã từng nói: “Thơ ca
chân chính bao giờ cũng là thơ ca của trài tím, cũng là tiếng hát của tâm hồn”.
Và nhận định cũng đã làm sáng tỏ biểu hiện đăc trưng của thơ ca chính là cảm
xúc. Cịn nói về tình cảm trong quan điểm triết học dưới vai trò là một phần
trong kết cấu của ý thức thì tình cảm chính là những rung động, những xúc cảm
khi có sự tác động trực tiếp cảu hiện thực khách quan vào giác quan của con
người.


Tiếp theo, phải kể đến là phương diện niềm tin. Theo quan điểm triết

học, niềm tin là sự tin tưởng của con người vào một hay một vài sự vật, hiện
tượng hoặc một hay một vài khả năng nhất định nào đó của con người. Niềm
tin là bộ lọc lựa chọn thông tin và chỉ lỗi cho mọi hành động của hiện tại và cả
tương lai.


Cuối cùng là phương diện ý chí. Con người được coi là có ý chí khi

họ biết vượt qua những khó khăn, cản trở do những yếu tố khách quan mang lại
để đạt được những mục tiêu của con người. Vậy ý chí là gì? Ý chí chính là sự
biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở
vào quá trình thực hiện mục đích. Nói cách khâc, ý chí là mặt năng động của ý
thức.

Như vậy, những nhân tố như: tri thức, tình cảm, biềm tin và ý chí, có thể
nói, đây đều là những trạng thái tâm lí tự nhiên của con người. Chúng có mối
quan hệ cộng tác, tác động qua lại với nhau, nhưng chúng ta vẫn khơng thể nào
phủ nhận được ý thức có vai trị quan trọng nhất. Bởi vì, chúng ta đều biết ý chí
11/05/2022

Trang 13


Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

xuất hiện, hình thành và phát triển của ý thức đều có mối liên hệ mật thiết đến
quá trình con người nhận thức về thế giới cung quanh, tính lũy cho bản thân
những tri thức và sự hiểu biết nói chung. Do vậy, có thể nói tri thức chính là
phương thức tồn tại của ý chí, nói cách khách, có tri thức con người mới có
lăng kính chủ quan hay ý thức của bản thân.
1.3.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Vật chất và ý thức là hai phạm trù có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc
lẫn nhau. Định nghĩa đã giúp chúng ta là sáng tỏ, vật chất là thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được con người sao chép,
chụp lại, phản ánh và tồn tại tách biệt với cảm giác. Còn ý thức là sự phản ánh
sự năng động cùng sự sáng tạo giúp hằn sâu những hiện thức khách quan vào
trí óc con người. Từ hai định nghĩa trên, chúng ta rút ra được kết luận, vật chất
là cái có trước cịn ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định ý thức và ý thức
cũng có tác động ngược trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người,

1.3.1. Vật chất quyết định ý thức.


Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức: vật chất có trước, ý thức có

sau. Dựa trên những thành tựu khoa học mà con người đã nghiên cứu được,
chúng ta có thể hoàn toàn khẳng đinh được ý thức là một thuộc tính của vật
chất. Nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng khơng phải dạng vật chất nào
cũng có ý thức, mà ý thức chỉ là một thuộc tính đặc trưng cho vật chất sống có
tổ chức cao là con người. Có thể nói, vật chứa của ý thức chính là bộ não của
con người, Khoa học đã chứng minh được rằng ý thức ra đời là kết quả tốt đẹp
của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên cho đến khi có sự xuất hiện của
lồi người. Và dựa trên cở sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não con
người, chúng ta cũng có thể quan sát được sụ vận hành của bộ não và chứng
11/05/2022

Trang 14


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

minh được sự tồn tài của ý thức. Bộ não con người chứa được tù 15 đến 17 tỉ tế
bào thần kinh, các tế bào này tồn tại, vận hành, họa động, chi phối và điều
khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể con người đặt trên tương quan mối quan hệ
với thế giới bên ngồi qua cơ chế phản xạ có hoặc khơng có điều kiện. Bên
cạnh đó, chúng ta cịn thấy được sự vận động của chất còn là yếu tố tiên quyết

tác động đến sự vận của ý thức và tư duy. Điều đó được biểu hiện thơng qua sự
thay thế lẫn nhau của các hinh thái kinh tế - xã hội, sự thay thế ấy bắt nguồn từ
sự thay đổi của cách nghĩ trong tư duy của con người. Bởi vì, sự tồn tại của xã
hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức. Định nghĩa đã cho thấy, ý



thức là sự phản ánh chủ quan của thế giới khách quan và sự phản ánh ấy đều
được nảy sinh từ tiền đề là vật chất trong khi tự thân nhận thức không thể gây
ra sự biến đổi nào tròn đời sống hiện thực. Ví dụ, tình gia đình, tình huyết
thống vốn cũng xuất phát từ vật chất, khi quan hệ vật chất mở rộng thì đời sống
tình cảm của con người cũng tự nhiên mà mở rộng ra.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Thế giới vật chất luôn vận



động và biến đổi khơng ngừng vì vật khi vật chất thay đổi dẫn tới ý thức cũng
thay đổi theo.
1.3.2. Ý thức tác động trở lại vật chất.
Nói về ý thức, sự tác động trở lại của ý thức lên vật chất theo hai hướng:
tác động tích cực và tác động tiêu cực
Đầu tiên, tác động tích cực, chúng ta đều biết vật chất xuất hiện dưới
dạng những sự vật hiện tượng sẽ tác động trực tiếp đến não bộ, phản ánh và
hằn sâu vào trong ý thức của con người. Nhưng qua thời gian, trí nhớ sẽ có thể
bị phai mờ và không rõ ràng dẫn đến những nhầm lẫn khơng đáng có. Tuy
nhiên, khi mà sự phản ánh của vật chất vào ý thức đã hằn sâu vào trong não bộ

11/05/2022


Trang 15


Giáp Huy Cơng

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

con người thì chúng ta sẽ có thể mơ phỏng và phản ánh đúng hiện thực. Và
thơng qua q trình đó sẽ gián tiếp góp phần thúc đẩy quá trình phát triền của
vật chất, Trong nền kinh tế thị thường, bằng việc áo dụng câc chủ trương phát
triển kinh tế theo mơ hình kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, đã góp phần
thúc đẩy nên kinh tế Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng.
Hai là, tác động tiêu cực, như đã chứng minh từ trên, bên cạnh sự phản
ảnh của ý thức hằn sâu vào vỏ não của con người, thì cũng có những sự phản
ánh không rõ ràng, và dẫn đến những suy đoán sai lệch, làm chệch hướng đi
đúng đắn của quy luật cuộc sống. Và từ đó, vơ tình sự phản ánh khơng rõ ràng
ấy sẽ ngăn cản q trình phát triển của vật chất. Tiêu biểu như chủ trương phát
triển nền kinh tế theo quy mơ kế hoạch hóa tập trung bao cấp của Việt Nam đã
khiến cho nền kinh tế phát triển một cách trì trệ và chậm chạp.
1.3.3. Ý nghĩa của phương pháp luận.
Tìm hiểu và phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là con
đường để giải quyết mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan và hiểu rõ hơn
về tư duy chủ quan, duy ý chí, cái mà chúng ta cần phải phê phán và tránh xa.
Và ý thức của phương pháp luận, chúng ta có thể rút ra từ mối quan hệ hai
chiều: “vật chất quyết định ý thức” và “ý thức có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại vật chất”.
Thứ nhất, vật chất quyết định ý thức, từ việc phân tích mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, cụ thể là sự tác động của vật chất lên ý thức của con người,

chúng ta rút ra được kết luận rằng, ý thức trước hết phải được cảm nhận, phản
ánh rõ ràng từ thức tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi
hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình. Tiếp theo, con người khi nghiên
cứu về vấn đề cơ bản của triết học thì khơng được lấy ý muốn chủ quan của
mình làm chính sách, khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến

11/05/2022

Trang 16


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

lược và sách lược cách mạng. Như vậy, ở chiều hướng tác động lên ý thức của
vật chất chúng ta rút ra được phương pháo luận, phải biết tôn trọng khách quan.
Thứ hai, từ “ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất”,
chúng ta có thể rút ra được phương pháp luận rằng phải biết phát huy tính năng
động, sáng tạo, nhân tố chủ quan. Từ đó, chúng ta cần phải biết phát huy tính
năng động chủ quan của con người để nhận thức đúng quy luật khách quan.
Tiếp theo, con người phải biết dựa trên quy luật khách quan để xác định mục
tiêu, kế hoạch, biết tìm ra và vận dụng các phương pháp tôt chức hoạt động
hiệu quả để đạt được mục tiêu một cách tối ưu. Bên cạnh đó, chúng ta cịn cần
phải nâng cao tri thức bằng cách học tập, nghiên cứu, tăng cường tình cảm ý
chí và niềm tin, Cuối cùng, con người cần phải tạo ra một môi trường xã hội
thuận lợi để kích thích tính năng động, sáng tạo của nhân tố chủ quan.
Tuy nhiên, ngồi những tác động tích cực để chỉ ra đường, hướng phát triển

cho con người thì phương pháp luận còn chỉ ra những “căn bệnh” mà chúng ta
cần phải khắc phục như: chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu
cực, thục động, ỷ lại ngồi chờ, … đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.

11/05/2022

Trang 17


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

CHƯƠNG II.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA NGÀY HƠM NAY
2.1 Thời kì trước khi đổi mới.
a. Hồn cảnh.
Trước khi đi vào phân tích những biến đổi tích cực sau cuộc đại hội đại biểu
lần thứ VI vào năm 1986, chúng ta cùng xem xét đến phương diện hồn cảnh và
những ảnh hưởng của nó đến cơng cuộc đổi mới ở nước ta ngày hơm nay.
Thứ nhất, hồn cảnh của thế giới, thế giới được đánh dấu một bước ngoặt to
lớn bởi sự chấm dứt của Chiến tranh lạnh, cùng với đó là sự tan rã của Liên Xô
cùng sự sụp độ của chế độ dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu và trật tự hai cực
Ianta, cái mà đã tồn tài hơn 50 năm kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Ngay sau, hoàn cảnh của thế giới, chúng ta cùng xem xét đến hoàn cảnh của
đất nước ta. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi vào năm 1975

đã đánh dấu sự kiện Việt Nam ta hồn tồn giải phóng. Và ngay sau đó, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranhm khôi phục
và phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước.
b. Nguyên nhân.
Và để có cuộc đại hội đại biểu lần thứ VI vào năm 1986 đánh dấu những
chuyển biến tích cực ở mọi mặt ở nước ta chính là xuất phát từ hai nguyên nhân
chính: khách quan và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan, là một nước đi qua từ chiến tranh, nước ta còn phải
chịu nhiều dư chấn, hậu quả của chiến tranh như: nghèo đói, chât độc màu da cam,
… Nhân tình cảnh khó khăn đó, các thế lực phản động quốc tế ngấm ngầm cấu kết
với nhau để chống phá quyết liệt cách mạng nước ta. Và sau mục đích thơn tính
11/05/2022

Trang 18


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

nước ta không thành, Mỹ đã tiến hành các cuộc bao vây, cấm vận Việt Nam khiến
cho đất nước ta khó khăn càng thêm chồng chất và khắc nghiệt hơn. Và cuối cùng,
nước ta gặp nhiều khó khăn trong quan hệ đối ngoại, vị thế của đất nước ta bị giảm
sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân chủ quan, cùng vì hồn cảnh đặc biệt vừa thốt ra khỏi cuộc
chiến tranh với Mỹ, chúng ta rập khuôn theo mơ hình Xơ Viết vào Việt Nam một
cách máy móc, thiếu sáng tạo mặc dù cố gắng vận dụng phép biện chứng duy vật

vào thực tiễn cách mạng mà không nhận ra xuất phát điểm của nước ta quá thấp, đi
lên xây dựng xã hội từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, kinh tế chậm phát triển. Bên
cạnh đó, hoạt động của Nhà nước đồn thể chỉ mang tính hình thức. Và Đảng thì
chưa cụ thể hóa được đường lối kinh tế, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, nóng
vội và bảo thủ.
Và ngun nhân trên, chúng ta hồn tồn có thể nhìn thấy qua những biện hiện,
cụ thể, nước ta cố gắng đẩy qua hệ sản xuất lên một bước, đẩy nhanh việc cải tạo
giai cấp tư sản, đẩy mạnh hợp tác hóa nơng nghiệp, đưa hợp tác cấp thấp lên bậc
cao một cách ồ ạt. Bên cạnh đó, vào thời kí đó, nước ta lại quản lí bằng phương
pháp tập trung, quan liêu, kế hoạch hóa, xóa bỏ thị trường, phân phối bao cấp một
cách tràn lan, bộ máy quan liêu, xa rời quần chúng. Cuối cùng, bộ máy nhà nước
Việt Nam vào những năm 80 tổ chức quá cồng kênh, nặng nề mà hiệu lực thấp, chế
độ trách nhiệm khơng rõ ràng, xuất hiện tình trạng tham nhung, sự tha hóa, cứng
nhắc, thiếu trung thực, thiếu kỉ luật ở khơng ít cán bộ và đảng viên
c. Hậu quả và Bài học.
Và chính những nguyên nhân và biểu hiện đã dẫn đến những hậu quả khôn
lường. Thứ nhất, đất nước ta khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, tốc độ tăng
trưởng kinh tế thấp. Tiếp theo, hệ thống chính trị bị xơ cưng, kém hiệu quả, kèm
theo đó là tình trạng lạm phát kéo dài, sản xuất định trệ. Cuối cùng, đời sống nhân
dân hết sức khó khăn, lịng tin vào xã hội chủ nghĩa bị suy giảm nghiệm trọng.
11/05/2022

Trang 19


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002


Đứng trước những hậu quả đó, chúng ta đã rút ra được bài học rằng: phải khắc
phục bệnh chủ quan, duy ý chí, bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ý
lại ngồi chờ.
2.2 Thời kì sau đổi mới.
Nhận thức được những khó khăn và tồn tại của việc thay đổi “chóng vánh”
mà không xem xét đến bản chất đối tượng trong những cuộc đại hội lần III, IV, V,
cuộc Đại hội Đảng lần thứ VI đã được tổ chức vào năm 1986. Sau quá trình xem
xét kỹ lưỡng, tự phê bình một cách nghiêm khác và phân tích đúng nguyên nhân
của tình hình kinh tê xã hội, nước ta đã đề ra được các định hướng mới để thay đổi
cục diện đất nước, đặc biệt là trong kinh tế. Sau đó, nước ta đã đi vào tiến hành
thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế, cụ thể là: lương thực- thực phẩm,
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, hình thành nên kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu tư sản, sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản, tư
nhân, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng đúng dắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Chúng ta phải thừa nhận, những diễn biến phưc tạp đã khiến cho tình hình kinh tế
xã hội của chúng ta có những chuyển biến xấu. Tuy vậy, nhà nước ta đã rất nỗ lực
khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tịi và khai phá ra những con đường mới nhằm
giúp nước ta có những chuyển biến tích cực hơn. Kết quả là, sau bốn năm thực
hiện đúng và nghiêm khắc những kế hoạch đã đề ra trước đó, cơng cuộc đổi mới
của chúng ta bước đầu đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Tiếp nối những thành công của Đại hội Đảng lần thứ VI, Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VII) đã đề ra các nghị quyết hội nghị Trung ương 2,3,4
và 5 góp phần cụ thể hóa và phát triển đường lối Đại hội VI. Và chính những nước
đi được tính toán kĩ càng ấy đã giúp nước ta giải quyết một loại các vấn đề trên
lĩnh vực cả đối nội và đối ngoại. Và một sự kiện quan trọng- hội nghị đại biểu
tồn quốc giữa nhiệm kỳ đó đã đánh dấu một bước ngoặt to lớn có ý nghĩa hàng
11/05/2022

Trang 20



Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

đầu là khắc phục được tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, khắc phục được sự
tri trệ, ách tắc và suy thoái cái mà đã xuất hiện ở nước ta trong suốt ba năm qua.
Để chứng minh cho luận điểm đó, chúng ta có thể kể đến những dẫn chứng tiêu
biểu như: tình trạng lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống còn 17,5%
năm 1992 và cụ thể còn 5,2 % vào năm 1993, GDP tăng bình qn 8,2% vượt
ngồi chỉ tiêu đề ra cho khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 1995 là 5,5-6,5%.
Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hóa và
đa phương hóa, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng, nguồn vốn
đầu tư nước ngoài tăng mạnh, kinh ngạch xuất khẩu tăng, trong năm năm 19911995 đã đạt trên 17 tỷ USD.
Tóm lại, bằng cách vận dụng đúng đắn phương pháp duy vậy biện chứng về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta ngày hôm
nay, nước ta đã có những chuyển biến tích cực, cụ thể là, sản xuất phát tiển, đời
sống nhân dân nói chung được cải thiện, mức độ khủng hoảng đã giảm bớt, những
sự thay đổi ấy đã góp phần bình định lại nền chính trị của đất nước và việc phát
huy dân chủ trong xã hội. Chúng ta phải thừa nhận những chỉ đạo đúng đắn và kịp
thời của Đảng khi tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo tiền đề đề và điều kiện để
đối mới trong lĩnh vực chính trị. Từ đó, chúng ta rút ra được những bài học quý
giá, rằng khi đứng trước những diễn biến đầy phức tạp của thế giới, Đảng và Nhà
nước ta cần xem xét, đánh giá và chủ động thích ứng với tình hình thực tế biến đổi
khơng ngừng của xã hội để từ đó đề ra các phương pháp giải quyết đúng đắn và tối
ưu nhất. Chỉ có như vậy, nền kinh tế của Việt Nam ta mới tiếp tục phát triển hơn
nữa và tạo nên những dấu ấn đỏ son trên bản đồ thế giới.


11/05/2022

Trang 21


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

LỜI KẾT
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, chúng ta rút ra được bài học rằng phải biết
khắc phục căn bệnh chủ quan, duy ý chí, cùng thái độ bị động, bảo thủ, trì trệ, thái
độ tiêu cực và ỷ lại. Chính vì vậy, khi đứng trước một vấn đề, chúng ta cần phải
cẩn trọng, xem xét, đánh giá và tìm ra hướng giải quyết sao cho đúng đắn và tối ưu
nhất. Bên cạnh đó, vận dụng vào công cuộc đổi mới của Việt Nam. Khi đứng trước
những diễn biến phức tạp của thế giới, đảng và nhà nước cần phải sáng suốt, quan
sát, cân nhắc và quyết đoán đưa ra những giải pháp kịp thời để khắc phục và giải
quyết vấn đề, có như vậy, nước ta mới có thể sánh vai cùng các cường quốc năm
châu, như Hồ chủ tịch đã nói trong “thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu
tiên của nước việt nam dân chủ cộng hòa” vào ngày 15-9-1945 : “Non sơng Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang
để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần
lớn ở cơng học tập của các em”.
Trên đây là phần trình bày tiểu luận về vấn đề: “Quan điểm duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới
ở nước ta hiện nay”. Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và phân tích nhưng chắc chắn vẫn

cịn nhiều thiếu sót. Em mong cơ có thể xem xét và chỉnh sửa để giúp bài tiểu luận
của em được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn.

11/05/2022

Trang 22


Giáp Huy Công

Lớp: TRI 114.6

MSSV: 2114120002

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Marx – Lenin (Bộ GD & ĐT)
2. Văn kiện Đại hội Đảng khóa IV, V, VI, VII
3. Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kì Đại hội (Báo đảng Cộng sản Việt
Nam)
4. Tháng 12 -1986: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (Tuyên
giáo- Tạp chí của ban tuyên giáo trung ương, 21/1/2021)
5. Vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình xây dựng và thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (Tạp chí tổ chức nhà
nước, 18/03/2019)
6. Và một số tài liệu khác.
-----------------------------------------HẾT---------------------------------------

11/05/2022


Trang 23



×