Mục lục
Phần mở đầu..............................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................2
5. Giới thiệu đề tài nghiên cứu.............................................................................3
Phần nội dung............................................................................................................4
Chương 1. Khái quát lý luận về cạnh tranh và độc quyền.....................................4
1.1. Cạnh tranh..................................................................................................4
1.2. Độc quyền..................................................................................................5
1.3. Quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền......................................................6
Chương 2. Ảnh hưởng của độc quyền đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế........................................................................................................7
2.1. Các tổ chức độc quyền dựng rào cản ngăn chặn doanh nghiệp Việt Nam
xuất khẩu.............................................................................................................7
2.2. Tư bản tài chính chi phối thị trường tồn cầu, trong đó có Việt Nam..........7
2.3. Các tổ chức độc quyền lớn xuất khẩu tư bản sang Việt Nam chi phối thị
trường nội địa......................................................................................................9
2.4. Các nước lớn phân chia ảnh hưởng trên thế giới, chi phối chính sách của
nước khác, trong đó có Việt Nam......................................................................10
Chương 3. Một số khuyến nghị để ứng phó với áp lựa của Chủ nghĩa tư bản độc
quyền trên thế giới................................................................................................12
3.1. Mục tiêu.....................................................................................................12
3.2 Một số khuyến nghị.....................................................................................12
Phần kết luận...........................................................................................................13
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................14
1
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai
đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Cạnh tranh là một trong
những quy luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những quy luật của
nền kinh tế thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế. Nhưng bên cạnh những
thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn, thách thức to
lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế nước ta còn yếu kém.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành viên của
ASEAN, APEC, WTO, AFTA) thì nước ta cần có một nền kinh tế để đạt được mục
đích trở thành nước cơng nghiệp vào năm 2022. Muốn như vậy, chúng ta cần phải
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phải phát
huy các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta cần một chính sách cạnh tranh đúng đắn. Để
nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn về những vấn đề đó, nhóm chúng em chọn đề tài “Mối
quan hệ giữa cạnh tranh với độc quyền và những ảnh hưởng đến Việt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam.
Đánh giá tiến trình thế giới và đất nước Việt Nam hiện nay cũng như hiểu rõ hơn
về những ảnh hưởng đến Việt Nam. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đối
tượng nghiên cứu lớn nhất của bài tiểu luận là: Phân tích về mặt cạnh tranh và độc
quyền, qua đó đánh giá tình hình khu vực và Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
3. Phạm vi nghiên cứu
2
Vấn đề về cạnh tranh và độc quyền là một vấn đề rất lớn. Trong phạm vi bài
tiểu luận, chúng em chỉ nghiên cứu được một số vấn đề, nội dung chủ yếu về cạnh
tranh và độc quyền cũng như đi sâu hơn về mối quan hệ giữa chúng và ảnh hưởng
đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các nguyên
lý, chính sách, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, những nguyên
lý của Mác – Lênin về kinh tế chính trị, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc lý luận
vào việc nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề.
Phương pháp chung: phương pháp logic – lịch sử, quy nạp diễn dịch, phân
tích lịch sử, …
Phương pháp cụ thể: ngoài những phương pháp trên, bài tiểu luận còn sử
dụng những phương pháp khác như tổng hợp, nghiên cứu tài liệu, phân tích tài
liệu, sắp xếp, tổng kết, … để đánh giá vấn đề.
5. Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo,
còn gồm các nội dung chi tiết sau:
Chương 1. Khái quát lý luận về cạnh tranh và độc quyền
Chương 2. Ảnh hưởng của độc quyền đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế
Chương 3. Một số khuyến nghị để ứng phó với áp lực của chủ nghĩa tư bản
độc quyền trên thế giới
3
Phần nội dung
Chương 1. Khái quát lý luận về cạnh tranh và độc quyền
1.1.
Cạnh tranh
Sự đua tranh về kinh tế giữa các nhà kinh doanh có những lợi ích giống nhau
trên cùng thị trường bằng các phương thức khác nhau để giành được nhiều nhất về
phía mình khách hàng, thị trường và thị phần của một thị trường, qua đó thu lợi
nhuận nhiều hơn.
Cạnh tranh là quy luật của kinh tế thị trường. Cạnh tranh không những là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, điều tiết hệ thống thị trường, mà còn là yếu tố
quan trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh
doanh phải luôn đổi mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng hiệu quả
các nguồn tài nguyên, áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ thuật trong sản xuất để tăng
năng suất lao động, tìm cách thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của người tiêu dùng và
vì vậy mang lại sự tăng trưởng và cải thiện hiệu quả kinh tế. Cạnh tranh phải được
diễn ra trong mơi trường pháp lí tự do và bình đẳng cho mọi chủ thể kinh doanh,
nếu khơng có mơi trường pháp lí đó, cạnh tranh có thể đưa đến những hậu quả tiêu
cực về mặt xã hội. Cạnh tranh có thể biểu hiện bằng các hình thức với những tính
chất khác nhau như cạnh tranh tự do, cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh
tranh hoàn hảo, cạnh tranh khơng hồn hảo, cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh
không lành mạnh.
Căn cứ theo phạm vu ngành kinh tế cạnh tranh được phân thành hai loại:
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong q trình
này có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giuqã các nghành, kết quả là hình
thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
4
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là
diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Nhờ có cạnh tranh, với sự thay
đổi liên tục về nhu cầu và với bản tính tham lam của con người mà nền kinh tế thị
trường đã đem lại những bước phát triển nhảy vọt mà lồi người chưa từng có
được trong các hình thái kinh tế trước đó. Sự ham muốn khơng có điểm dừng đối
với lợi nhuận của nhà kinh doanh sẽ mau chóng trở thành động lực thúc đẩy họ
sáng tạo không mệt mỏi, làm cho cạnh tranh trở thành động lực của sự phát
triển.Theo đó, cạnh tranh có những vai trò cơ bản sau đây: Cạnh tranh đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng; Cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh
trên thị trường; Cạnh tranh đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một
cách hiệu quả nhất; Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ
khoa học, kỹ thuật trong kinh doanh; Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn
gốc của sự đổi mới liên tục trong đời sống kinh tế – xã hội.
1.2. Độc quyền
Độc quyền là thuật ngữ trong kinh tế học chỉ về trạng thái thị trường chỉ có
duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm khơng có sản phẩm thay thế gần
gũi. Trong tiếng Anh monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp monos (nghĩa là
một) và polein (nghĩa là bán). Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường,
là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. Mặc dù trên thực tế
hầu như khơng thể tìm được trường hợp đáp ứng hồn hảo hai tiêu chuẩn của độc
quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là khơng tồn tại nhưng những dạng
độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội. Độc
quyền được phân loại theo nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của
độc quyền, cấu trúc của độc quyền... Độc quyền là hiện tượng trên thị trường chỉ
có một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp câu kết với nhau chiếm vị trí
độc tơn trong việc cung cấp sản phẩm nhất định nào đó, cho phép họ kiểm sốt
trọn vẹn giá cả sản phẩm để thu lợi nhuận tối đa và ngăn chặn các đối thủ cạnh
tranh khác thâm nhập thị trường.
Độc quyền là hậu quả tất yếu của q trình cạnh tranh khơng được định
hướng và điều chỉnh: từ cạnh tranh lành mạnh chuyển sang cạnh tranh không lành
mạnh dẫn tới cạnh tranh mang tính độc quyền và cuối cùng xuất hiện độc quyền.
Độc quyền làm tê liệt cạnh tranh lành mạnh, kìm hãm sự phát triển kinh tế, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng, tác động xấu đến cơng bằng xã hội,
tạo sức ì đối với chính bản thân các doanh nghiệp độc quyền. Cạnh tranh không
lành mạnh và độc quyền là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để kiểm
5
sốt độc quyền: chính sách thuế, quản lí giá sản phẩm, điều chỉnh độc quyền,
chống các-ten, tơ-rớt...
Giá độc quyền là Giá hàng hoá, dịch vụ chỉ do một tổ chức, cá nhân bán,
mua trên thị trường hoặc là giá hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân liên kết
độc quyền chiếm phần lớn thị phần, có sức mạnh chi phối giá thị trường. Lợi
nhuận độc quyền cao là lợi nhuận mà tư bản độc quyền thu được trong thời kì đế
quốc chủ nghĩa do các tổ chức độc quyền có địa vị chi phối nền kinh tế. Đây là
hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong thời kì đế quốc chủ
nghĩa; lợi nhuận siêu ngạch cao hơn lợi nhuận bình quân mà các tổ chức độc quyền
thu được do quy định được giá bán cao hơn giá trị và giá mua thấp hơn giá trị.
Tác dụng của độc quyền: Tiết kiệm chi phí nhờ quy mơ sản xuất lớn. Khả
năng chi phí thấp hơn nhờ có nghiên cứu và đầu tư nhiều hơn. Khả năng tạo phát
minh và sản phẩm mới. Lợi nhuận độc quyền là mong muốn lớn nhất đổi với các
nhà sản xuất. Vì vậy các nhà độc quyền ln tìm mọi cách để duy trì vị trí độc
quyền. Khác với trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sự tồn tại của lợi nhuận độc
quyền không cho phép các hãng khác tham gia vào ngành. Nhà độc quyền luôn cố
gắng ngăn chặn các nhà sản xuất mới xâm nhập vào thị trường.
1.3. Quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự
do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền khơng thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại cịn
làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh
giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, mà cịn có thêm các loại cạnh tranh sau:
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngồi độc
quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối thơn tính các xí
nghiệp ngồi độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu,
nguồn nhân cơng, phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống... để đánh bại
đối thủ.
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này
có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết
thúc bằng một sự thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên; cạnh tranh giữa các
tổ chức độc quyềnkhác ngành có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ
thuật...
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản
tham gia cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi
hoặc giành tỷ lệ sản xuất cao hơn. Các thành viên của tơrớt và cơngxcxiom cạnh
tranh với nhau để chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân
6
chia lợi nhuận có lợi hơn.
Chương 2. Ảnh hưởng của độc quyền đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế
2.1. Các tổ chức độc quyền dựng rào cản ngăn chặn doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu.
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền
là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Trong thời kỳ này, số
lượng các xí nghiệp lớn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng nằm các lĩnh vực sản xuất chủ
yếu của nền kinh tế, lượng lớn số công nhân và tổng sản phẩm xã hội.
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí
nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn 3% tổng số
máy hơi nước và điện lực. Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã
trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do số lượng
các thí nghiệm lớn ít nên có thể dễ dàng thỏa thuận với nhau, mặt khác, các xí
nghiệp có quy mơ lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ khá gay gắt, quyết liệt, khó
đánh bại nhau, do đó dẫn đến khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để dẫn đến vị trí
độc quyền.
Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn, tập trung
vào tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định
ra giá cả độc quyền nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả ở những nước đang phát
triển. Đó là kết quả của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các nước
này và sự ứng dụng những thành tựu khoa học -kỹ thuật hiện đại khiến cho chỉ một
xí nghiệp hay một cơng ty cũng đủ sức mạnh chi phối việc sản xuất và tiêu thụ của
cả một ngành mới ra đời ở một nước đang phát triển và tới mức độ nhất định có thể
bành trướng ra bên ngồi.Các tổ chức độc quyền ln ln có xu hướng
bành trướng quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, xu hướng vận động của chúng là
trở thành các công ty xuyên quốc gia và liên minh với nhà nước hình thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là biểu hiện mới của độc quyền và là hình
thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử
mới.
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, ngoại thương
hoàn toàn do nhà nước độc quyền, mọi hoạt động xuất khẩu đều do công ty nhà
nước thực hiện. Bên cạnh đó, Việt Nam cịn bị các tổ chức độc quyền dùng mọi rào
cản để ngăn chặn Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Mối quan hệ giữa chính sách của một số nước nhập khẩu và quyền lợi của các nhà
sản xuất trong nước có thể chứa đựng những yếu tố phức tạp và mâu thuẫn bởi vì
7
Hoa Kỳ thường đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật trong thương mại có liên quan đến
nhiều vấn đề.
2.2. Tư bản tài chính chi phối thị trường tồn cầu, trong đó có Việt Nam.
Cùng với q trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp, trong
ngân hàng cũng diễn ra q trình tích tụ, tập trung tư bản, dẫn đến hình thành các
tổ chức độc quyền trong ngân hàng.
Quy luật tích tụ, tập trung tư bản cũng giống như trong cơng nghiệp, do q
trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị thơn tính, dẫn đến hình thành các
ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ cao, thì các
ngân hàng nhỏ khơng đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho cơng việc kinh doanh của
các xí nghiệp cơng nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm đến các ngân hàng
mạnh hơn hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh
tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.
Sản xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay
đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng có
vai trị mới; từ chỗ chỉ là trung gian trong việc thanh tốn và tín dụng, nay đã nắm
được hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quy quyền lực “vạn năng”, khống chế mọi
hoạt động của nền kinh tế xã hội. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền
ngân hàng “cử” đại diện của nó vào các cơ quan quản lý của độc quyền công
nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay hoặc các tổ chức độc quyền ngân hàng có
trực tiếp đầu tư vào cơng nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng mạnh
mẽ của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các ngân hàng
lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho
mình. Q trình độc quyền hóa trong cơng nghiệp và trong ngân hàng có quan hệ
chặt chẽ với nhau và thúc đẩy lẫn nhau để phát triển làm nảy sinh một loại hình tư
bản mới gọi là tư bản tài chính. Tư bản tài chính là sự hợp nhất giữa tư bản ngân
hàng của một số ít ngân hàng gọi là tư bản độc quyền ngân hàng và công nghiệp.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền chi phối tồn bộ đời sống kinh tế và chính trị của tồn xã hội, gọi là bọn đầu
sỏ tài chính (trùm tài chính, trùm tài phiệt).
Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thơng qua “chế độ tham
dự”. Thực chất của “chế độ tham dự” là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đồn
chỉ tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất
-công ty lớn gọi là “công ty mẹ”; công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế
thống trị các “cơng ty con”, … Nhờ có “chế độ tham dự” và phương pháp tổ chức
tập đồn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà
tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn
gấp nhiều lần.
8
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, tư bản tài chính đã có sự thay đổi và những biểu
hiện mới: Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt
là các ngành thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm... ngày càng chiếm tỷ trọng
lớn. Thích ứng với sự biến đổi đó, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản
tài chính đã thay đổi. Ngày nay, phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau giữa tư
bản ngân hàng và tư bản công nghiệp được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập
đồn tư bản tài chính thường tồn tại dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu: cơng
-nơng -thương -tín -dịch vụ hay cơng nghiệp -qn sự -dịch vụ quốc phịng; ... Nội
dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn và phức tạp hơn. Vì những lợi
thế và tính chất như vậy, tư bản tài chính đã chi phối thị trường tài chính tồn cầu,
trong đó có Việt Nam.
2.3. Các tổ chức độc quyền lớn xuất khẩu tư bản sang Việt Nam chi phối thị trường
nội địa.
V.I.Lênin vạch rõ xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị và ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngồi) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận
khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, xuất khẩu trở
thành tất yếu vì: Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một số khối lượng tư
bản lớn và có một số tư bản thừa tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận
hơn so với đầu tư ở trong nước. Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự
giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, bán giá đất ruộng tương đối hạ,
tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, hấp dẫn đầu tư tư bản và
thị trường Việt Nam là con mồi béo bở cho các nhà tổ chức độc quyền lớn nên đã
đầu tư xuất khẩu tư bản sang Việt Nam. Điều này làm cho thị trường nội địa Việt
Nam bị chi phối.
Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai loại hình thức chủ yếu là đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp
Về đầu tư trực tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí
nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư (Việt
Nam) biến nó thành một chi nhánh của cơng ty mẹ (ví dụ là cơng ty Samsung) ở
chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song
phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp nhận tồn bộ vốn của
cơng ty nước ngồi.
Vốn đầu tư gián tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu
lãi. Đó là hình thức xuất khẩu tư bản cho vay. Vì vậy, nhiều nhà độc quyền đã làm
chi phối thị trường nội địa rất nhiều.
9
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản có những biến đổi
lớn:Thứ nhất,trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát
triển sang các nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%). Nhưng những thập
kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển
với nhau.
Thứ hai,chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trị của các
công ty xuyên quốc gia (TNCs) trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt
là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất
khẩu tư bản từ các nước đang phát triển.
Thứ ba,hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất khẩu tư
bản và xuất khẩu hànghoá tăng lên. Chẳng hạn trong đầu tư trực tiếp xuất hiện
những hình thức mới như BOT (xây dựng -kinh doanh -chuyển giao), BT (xây
dựng -chuyển giao), ... Sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng bn
bán hàng hố, dịch vụ, chất xám, ... khơng ngừng tăng lên.
Thứ tư,sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ
bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
2.4. Các nước lớn phân chia ảnh hưởng trên thế giới, chi phối chính sách của nước
khác, trong đó có Việt Nam.
Q trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng
lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế
giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức chức độc quyền quốc
tế. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng minh thị trường trong nước
luôn luôn gắn với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
độc quyền, thị trường ngoài nước cịn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các
nước tư bản. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao địi hỏi ngày càng phải
có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do mục đích lợi nhuận cao
thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngồi, cần có thị
trường ổn định thường xuyên.
VI.Lênin nhận xét: “Bọn tư sản chia nhau thế giới khơng phải do tính độc ác
đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức buộc chúng phải đi vào con
đường ấy để kiếm lời”.
Cùng với xu hướng tồn cầu hóa kinh tế lại diễn ra xu hướng khu vực hóa
kinh tế, hình thành nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên minh châu Âu (EU)
ra đời từ ngày 1/1/1999 với đồng tiền chung Châu Âu (EURO). Đến nay liên minh
đã gồm 27 quốc gia (ngoại trừ Anh tách ra khỏi EU năm 2017) tham gia.
Quan hệ quốc tế ngày càng được dân chủ hóa, được điều chỉnh bởi Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, nhưng chính trị dựa trên sức mạnh vẫn
là bản chất cốt lõi của chính trị quốc tế và ngoại giao. Theo đó, các nước lớn ln
có ảnh hưởng chi phối đến các nước nhỏ, cũng như đóng vai trò xu thế, chi phối,
10
thậm chí quyết định sự vận động, phát triển của các các xu thế quốc tế. Tư bản độc
quyền quốc tế là thế lực đang chi phối q trình tồn cầu hố thơng qua các tổ chức
kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu vực.
Do vị trí của mình mà Việt Nam luôn phải đối mặt với việc xử lý mối quan
hệ với các nước lớn. Từ lịch sử đến hiện tại, các nước lớn thường ảnh hưởng đến
an ninh và sự thịnh vượng của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam được xây dựng
mối quan hệ kinh tế tốt. Vì vậy, các nước lớn phân chia ảnh hưởng đến thị trường
tồn cầu, chi phối chính sách của các nước khác cũng như chi phối đến Việt Nam.
Điều này cũng phần lớn ảnh hưởng độc quyền đến Việt Nam trong tính tiến trình
hội nhập quốc tế quốc tế.
11
Chương 3. Một số khuyến nghị để ứng phó với áp lựa của Chủ nghĩa tư bản độc
quyền trên thế giới
3.1. Mục tiêu
Thứ nhất, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ sự nghiên cứu của các nước
trong quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng của các nhà kinh
điển về một xã hội tương lai, Việt Nam đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận
kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó khơng đối
lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Có thể nói đây là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, độc lập và phù
hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới. Qúa trình đổi mới nhận
thức này diễn ra từng bước và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn phát triển của nền
kinh tế và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với thực tiễn nền kinh tế nước
nhà.
Thứ hai, cùng với quá trình, bước đi đổi mới hợp lý, đó là sự độc lập, sáng
tạo, có cơ sở khoa học, trong đó xác định mơ hình kinh tế mới – mơ hình kinh tế
định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất
xã hội chủ nghĩa, thể hiện trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói
cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh
3.2 Một số khuyến nghị
Xuất phát từ cơ chế hình thành, tồn tại của độc quyền, từ mối liên hệ hữu cơ
giữa độc quyền và cạnh tranh trong kinh doanh, để có sự cạnh tranh lành mạnh và
trống độc quyền, cần có những khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới về cạnh tranh, phải thống nhất quan điểm đánh
giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh tranh trong nền kinh tế,
pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ rang và hợp lí vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà nước độc quyền kinh
12
doanh, cần được tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành sản suất, tăng năng lực cạnh
tranh chung.
Thứ hai, cần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động,
đặc biệt là người lao động ở các khu cơng nghiệp, khu chế xuất. Từng bước thực
hiện chính sách tiền lương đảm bảo đời sống cho người lao động. Nâng cao chất
lượng đào tạo, có kĩ năng lao động, tác phong công nghiệp, ý thức kỉ luật
Phần kết luận
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền là sự kết hợp sức mạnh của các tổ
chức độc quyền tự nhiên với sức mạnh của các nhà tư bản. Do đó việc ảnh hưởng
của các tổ chức độc quyền ở một đất nước đang trong thời kì quá độ như nước ta
chính là phương thức để chúng ta huy động mọi sức mạnh của dân tộc, kết hợp với
các yếu tố bên ngoài để đưa nước ta lên nền kinh tế tư bản. Nền kinh tế thị trường
nước ta mới phát triển, do đó, trong nhận thức cũng như thực tiễn, một số hiện
tượng của nền kinh tế thị trường còn được hiểu khác nhau và thậm chí chưa phù
hợp với thơng lệ quốc tế, trong đó có khái niệm độc quyền. Để góp phần nhận thức
đúng vấn đề, bài viết nêu lên những nét cơ bản xung quanh khái niệm độc quyền,
thực trạng độc quyền và nêu ra một số mục tiêu và giải pháp để giải quyết vấn đề
độc quyền trong tình hình hiện nay ở nước ta.
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng em cũng đã tổng hợp và tổng
kết được một số nội dung cơ bản về mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền,
bên cạnh đó cũng làm rõ được một số vấn đe ảnh hưởng đến Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế
13
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Leenin, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2012
2. CMác-PhĂngghen, Toàn tập, Nxb CTBG, H.1995, tr19, tr33
3. Voer.edu.vn/m/Khai-niem-ve-canh-tranh-va-suc-canh-tranh/8b26a225
4. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mastxcova, 1980
5. V.I.Leenin: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005, tr27, tr402
14