Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

hân tích đặc điểm tâm lý của hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại trong giai đoạn điều tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107 KB, 3 trang )

Phân tích đặc điểm tâm lý của hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại trong giai đoạn điều tra.
Trả lời:
Hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại là một dạng
hoạt động điều tra sử dụng các phương pháp tác động tâm lý đến tư duy, tình cảm, ý chí của
bị can, người làm chứng, người bị hại trong khuôn khổ pháp luật thông qua giao tiếp bằng
ngôn ngữ và các phương tiện biểu cảm khác nhau như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt … giữa Điều
tra viên với bị can, người làm chứng, người bị hại nhằm thu thập chứng cứ, góp phần giải
quyết vụ án hình sự.
Hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại là giao tiếp
tâm lý hai chiều. Đó là giao tiếp giữa điều tra viên với bị can, với người làm chứng, với
người bị hại. Q trình giao tiếp là q trình có tổ chức, có kế hoạch, có dự đốn trước và
được thực hiện bằng những phương pháp nhất định.
Điều tra viên luôn chủ động định hướng và điều khiển giao tiếp để đạt được các mục
đích đã đề ra. Bị can, người làm chứng, người bị hại ln đóng vai trị bị động trong giao
tiếp. họ không thể xác định được mục đích của giao tiếp và cũng khơng biết được chính xác
những thơng tin mà điều tra viên sẽ trao đổi với mình trong giao tiếp. Quá trình tư duy ở bị
can, người làm chứng, người bị hại luôn diễn ra rất căng thẳng và phức tạp.
Đặc điểm tâm lý của bị can trong hoạt động hỏi cung.
Trong hoạt động hỏi cung bị can, đặc điểm tâm lý chung của bị can là luôn rơi vào
trạng thái tâm lý rất căng thẳng và phức tạp, thường xuyên có những mâu thuẫn, xung đột
gay gắt về mặt nội tâm. Mâu thuẫn ở đây được hiểu là sự mẫu thuẫn giữa cái thiện và cái ác,
cái cao thượng và cái thấp hèn khi thực hiện hành vi xấu và ác, luôn luôn có sự dằn vặt, lo
sợ, sợ bị ảnh hưởng uy tín, địa vị xã hội, sợ phải đối mặt với búa rìu dư luận xã hội …
Ngồi ra, bị can cịn có tâm lý bi quan, chán trường, tuyệt vọng. Đây là biểu hiện tâm
lý đặc trưng của bị can. Họ cho rằng việc mình bị khởi tố bị can là cuộc đời coi như đã hết,
khơng cịn tương lai, mọi hi vọng sụp đổ, chịu sự trừng phạt của pháp luật là điều khơng thể
tránh khỏi. Do đó, ở những bị can này ln có thái độ phó mặc cho số phận, không quan tâm
đến hoạt động điều tra, thậm chí có thể thúc đẩy họ có phản ứng tiêu cực đó là tự sát.



Trạng thái tâm lý sốt ruột, nóng vội, mong muốn tìm hiểu sự hiểu biết của Cơ quan
điều tra về vụ án và diễn biến hoạt động điều tra về bị can bị tạm giam trong vụ án hình sự.
Sự lo sợ sẽ phải chịu hình phạt thúc đẩy bị can tìm hiểu xem Cơ quan điều tra đã biết những
gì, tiến trình điều tra như thế nào… để căn cứ vào đó đưa ra những lời khai có lợi cho họ.
Từ chỗ muốn tìm hiểu sự hiểu biết của Cơ quan điều tra để quyết định lời khai, ở bị can nảy
sinh một loạt nhu cầu: Muốn gặp gia đình, người thân, muốn liên lạc với bên ngồi, dị hỏi
tình hình thơng qua việc gặp gỡ Luật sư…
1


Bên cạnh đó, bị can trong giai đoạn này thường tự xây dựng cho mình nhiều mơ hình
tư duy khác nhau về vụ án hình sự để đối phó với Cơ quan điều tra, có sự pha trộn giữa thật
và giả, có xu hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đến mức thấp nhất bằng cách thức như đổ
lỗi cho nạn nhân, đỗ lỗi cho hồn cảnh... hoặc tìm mọi cách để khoái thác trách nhiệm bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Riêng đối với những bị can phạm tội lần đầu và đối với tội phạm ít nghiêm trọng thơng
thường họ tỏ ra ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, xúc động và mong muốn vụ án sớm
được giải quyết. Ngược lại đối với bị can phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm, người phạm tội
có tổ chức thì đối tượng này thường quanh co, chối tội, bất hợp tác, im lặng khơng khai báo.
Có thể nhận thấy, những đối tượng này có kinh nghiệm trong khai báo (tức là có tiền sử
phạm tội), có kinh nghiệm trong đối phó với Cơ quan điều tra.
Còn đối với bị can là người chưa thành niên, do chủ thể nhận thức còn hạn chế nên
việc khai báo không đúng bản chất của sự việc, mang tâm lý thiếu sự tự tin, rất dễ bị xúc
động, tổn thương, tâm lý căng thẳng và thường bị ảnh hưởng bởi những đồng phạm khác khi
khai báo, sợ bị trả thù từ phía người bị hại hoặc đồng phạm khác.

Đặc điểm tâm lý của người bị hại trong hoạt động lấy lời khai
Giai đoạn này do việc tội phạm xâm hại chỉ mới xảy ra chưa lâu nên ở người bị hại
tình trạng xúc cảm, cảm xúc còn khá mạnh mẽ và sâu sắc, tâm lý căng thẳng hoang mang có
thể lên đến đỉnh điểm hoặc thậm chí xuất hiện các biểu hiện rối loạn tâm lý (đặc biệt đối với

các tội phạm có sử dụng bạo lực, với tính cơn đồ, man rợn hoặc các tội phạm tình dục). Do
vậy, thơng thường trong giai đoạn đầu của hoạt động lấy lời khai, đối tượng này luôn trong
trạng thái căm phẫn, bức xúc cao độ đối với hành vi phạm tội đã xâm hại đến mình nên tích
cực khai báo. Nhưng cũng có trường hợp do họ bị ám ảnh về hành vi phạm tội đã xâm hại
đến mình hoặc người thân của mình nên đối khi khơng muốn khai báo. Bên cạnh đó là trạng
thái tâm lý lo lắng, sợ sệt có thể bị trả thù do tiếp xúc và cung cấp chứng cứ cho Cơ quan
điều tra.
Tuy nhiên qua nghiệp vụ của Điều tra viên, tâm lý của người bị hại có thể ổn định dần
và thay đổi theo hướng can đảm cung cấp thơng tin hoặc cũng có trường hợp người bị hại
thay đổi cảm xúc từ căm phẫn sang trạng thái cảm xúc thơng cảm, thương hại đối với hồn
cảnh, nhân thân của bị can, từ đó xin bãi nại cho bị can hoặc cũng có thể diễn biến tâm lý
theo chiều hướng quanh co, bất hợp tác với cơ quan điều tra.


Tâm lý của người làm chứng trong hoạt động lấy lời khai

Người làm chứng nói chung có tâm lý sợ phiền hà, không muốn mất thời gian ảnh
hưởng tới công việc và sinh hoạt của mình, tốn kém tiền của hoặc bị phía đối tượng trong vụ
án mua chuộc. Người làm chứng có thể được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời
khai, nhận diện, đối chất vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án theo quy
định của pháp luật… Điều đó ảnh hưởng đến thời gian làm việc, học tập, sinh hoạt, ảnh
hưởng đến thu nhập kinh tế thậm chí phải mất chi phí cho việc làm chứng (chi phí đi lại, ăn
2


ở). Do vậy, trong hoạt động lấy lời khai của người làm chứng, đối tượng này tâm lý thường
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tác động như: Hoàn cảnh khi tiếp xúc với người tiến hành tố
tụng, tiếp xúc với cơ quan tố tụng với phương tiện cưỡng chế; Họ phải đối mặt với các bị
can của vụ án có sự quen biết, có tình cảm hoặc mâu thuẫn, hung hãn hoặc sự báo thù. Hoặc
có thể chịu tác động từ lời khai của những người làm chứng khác.

Những yếu tố trên tác động dẫn đến những đặc điểm tâm lý tiêu cực của đối tượng này
như: người làm chứng quên một số tình tiết cụ thể của vụ án nên khai thiếu thống nhất. Do
sợ bị trả thù hoặc có thể đã chịu những tác động từ phía bị can và thân nhân của bị can điều
này làm cho nhiều người trong xã hội có tâm lý sợ bị bọn tội phạm trả thù, không dám tố
cáo hoạt động phạm tội của chúng, không muốn làm chứng cho vụ án. Tâm lý đó sẽ làm cho
việc lấy lời khai người làm chứng gặp khó khăn và kết quả khó đạt được như mong muốn.
Ngồi ra, họ có thể chịu những tác động đến từ những người làm chứng khác trong vụ án.
Hơn thế nữa, người làm chứng thường có tâm lý sợ bị phiền hà do phải “dính dáng” tới pháp
luật, sợ bị mất thời gian ảnh hưởng đến công việc hàng ngày, ảnh hưởng tới thu nhập về
kinh tế, sợ phải chi phí tốn kém cho việc đi lại, ăn uống, sinh hoạt trong quá trình làm
chứng... Động cơ tâm lý này có tác động khơng nhỏ tới người làm chứng. Bằng lý do nào
đó, họ sẽ tìm cách lẩn tránh việc làm chứng; hoặc sẽ khai báo qua loa, đại khái cho xong
việc, không quan tâm tới việc làm sáng tỏ vụ án cũng như các đối tượng phạm tội.
Bỏ qua những tác động tiêu cực nên trên, vẫn có những trường hợp xuất phát từ niềm
tin vào công lý, tôn trọng sự thật khách quan, cùng với ý thức đấu tranh chống tội phạm,
muốn góp phần bảo vệ an ninh và trật tự xã hội của nơi mình sinh sống, của đất nước nhiều
người làm chứng vẫn cam đảm, tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra cung cấp thơng tin
khách quan, chính xác cho Cơ quan điều tra, góp phần khơng nhỏ trong việc truy tìm tội
phạm, thu thập chứng cứ, góp phần giải quyết vụ án hình sự.

3



×