BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN LỊCH SỬ ĐẢNG
Giảng viên:
Cơ Đỗ Lâm Hồng Trang
Mã lớp học phần:
22DHIS51002601
Khóa lớp:
K2021 VB1/TP4 TMDT
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Kim Phượng
MSSV:
88214020172
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022
download by :
MỤC LỤC
Trang bìa
Mục lục
Mở đầu
I. Đặt vấn đề....................................................................................................................................... 1
1. Vì sao lịch sử Việt Nam bấy giờ lại đặt ra nhiệm vụ phải tìm bằng được con đường
đấu tranh mới?.................................................................................................................................. 1
2. Cụ thể con đường mới để giải phóng dân tộc này
cần đáp ứng những tiêu chí nào?............................................................................................. 1
II. Giải quyết vấn đề........................................................................................................................ 1
1. Đi tìm con đường cách mạng đúng đắn
cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản........................................................................ 2
2. Từng bước chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng - tổ chức trực tiếp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.................................................................................................................................. 2
3. Xác định giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam - giai cấp công nhân ...............3
III. Đánh giá vấn đề......................................................................................................................... 3
IV. Q trình tìm tịi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản
Việt Nam qua ba bước đột phá tư duy về kinh tế (1976 - 1986) ................................. 4
1. Nỗ lực khôi phục kinh tế từ đống hoang tàn sau chiến tranh .................................. 4
2. Ba bước đột phá về tư duy tạo cú hích trong phát triển kinh tế ............................. 4
3. Ý nghĩa quá trình đổi mới tư duy về kinh tế giai đoạn 1976 - 1986 ...................... 5
4. Những bài học lịch sử............................................................................................................... 6
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
Mở đầu
Những năm đầu thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam đứng trước khơng ít các con đường
lựa chọn cho cách mạng giải phóng dân tộc. Nhưng rồi tất cả đều đi vào ngõ cụt do
không đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của cách mạng Việt Nam. Duy chỉ Nguyễn
Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cách mạng vô sản con đường đúng đắn trong rất nhiều con đường. Từ đây, tư tưởng của Người và di
sản của vĩ đại của Người là Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra thời đại độc lập
dân tộc và kỷ nguyên mới của Việt Nam là đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Sau chiến thắng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam vốn
là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội cịn thấp nay lại phải
khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Cùng với những sai lầm nặng
tính chủ quan duy ý chí trong chủ trương, chính sách đã khiến đất nước lâm vào
cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng. Sản xuất nơng - cơng nghiệp đình
đốn, khơng lưu thơng được hàng hóa dẫn đến tình trạng cung khơng đủ cầu.
Xuất phát từ thực tế cấp bách đó, chúng ta nhận thấy không thể tiếp tục cuộc sống
như vậy nữa. Tất yếu phải có sự đổi mới về tư duy, phương thức và mơ hình hoạt
động của nhà nước chủ nghĩa xã hội. Trong bài tiểu luận này, em xin phép được
trình bày những hiểu biết hạn hẹp về các vấn đề: sự lựa chọn con đường cách
mạng vô sản làm tiền đề thành lập Đảng Cộng sản, mở ra cho cách mạng Việt
Nam một trang mới và q trình tìm tịi, khảo nghiệm, đường lối đổi mới kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam qua ba bước đột phá tư duy về kinh tế (1976 - 1986)
Do chưa có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu đề tài cũng như những hạn chế về
kiến thức, trong bài tiểu luận chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em
mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Cơ để bài tiểu
luận được hồn thiện hơn.
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
I.
Đặt vấn đề: Sự thất bại của những phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt
Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiệm vụ lịch sử cấp thiết cho
cách mạng Việt Nam là phải tìm ra con đường đấu tranh mới với một tổ chức
cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn.
1.
Vì sao lịch sử Việt Nam bấy giờ lại đặt ra nhiệm vụ phải tìm bằng được con
đường đấu tranh mới?
Tuy không chấp nhận cúi đầu làm nô lệ nhưng các phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc thời này theo cả hai khuynh khướng phong kiến và dân chủ tư sản diễn ra
oanh liệt nhưng đều thất bại. Bởi chúng chỉ bùng lên một cách đơn lẻ, tự phát mà
thiếu đưịng lối chính trị đúng đắn; thiếu một giai cấp tiên tiến có sức mạnh tập hợp
đơng đảo nhân dân. Giai cấp phong kiến đã thỏa hiệp làm tay sai cho đế quốc. Giai
cấp nông dân chiếm đến 90% dân số nhưng phải chịu đủ áp bức từ địa chủ phong
kiến và thực dân, sớm bị chính sách ngu dân của Pháp tổn thương nặng nề. Các
thất bại đã chỉ ra: hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản đều bất lực trước yêu
cầu lịch sử đặt ra: lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Do đó,
cách mạng Việt Nam đang địi hỏi được đổi mới hết sức cấp thiết.
2.
Cụ thể con đường mới để giải phóng dân tộc này cần đáp ứng những tiêu
chí nào? Các phong trào đấu tranh trong nước trước đây thất bại ở ba điểm sau:
một, chưa có một tổ chức cách mạng tiên phong; hai, chưa hoạch địch ra được
đường lối cứu nước phù hợp; ba, chưa có một giai cấp đủ sức quy tụ sức mạnh
toàn dân. Như vậy, con đường cứu nước mới phải khắc phục được ba lỗ hổng
này trong quan điểm cứu nước của các bậc tiền nhân.
AI. Giải quyết vấn đề: Sinh ra và lớn lên trong cảnh vong quốc, Nguyễn Ái Quốc
sớm đã nung nấu quyết tâm tìm con đường cứu nước, cứu dân. Dù bấy giờ,
câu hỏi về con đường cứu nước vẫn là bài toán lớn của thời đại, nhưng Nguyễn
Ái Quốc với lòng nhiệt thành yêu quê hương và nhãn quan chính trị sắc bén đi
trước quan điểm của chí sĩ đương thời, đã quyết chí ra đi để từng bước tìm lời
giải cho nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra.
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
1.
Đi tìm con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản
Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra “muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ” nên Người đã lên
đường sang Pháp để xem xét, quyết tâm tìm ra con đường trả lại nhân dân sự tự do,
nền độc lập vốn có. Đào sâu nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, Người nhận thấy:
cách mạng tư sản, như cách mạng tư sản Pháp (1776) và cách mạng tư sản Mỹ (1789)
tuy vĩ đại nhưng chưa đến nơi đến chốn. Sở dĩ nói như vậy, vì nó phá tan gơng xiềng
phong kiến nhưng bản chất của giai cấp tư sản cầm quyền lại là không gì ngồi bóc lột.
Lúc này, cách mạng tháng Mười Nga thành cơng đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc: rằng
chỉ có cách mạng Nga là hình mẫu của cách mạng triệt để, đến nơi. Vì nhân dân sau
cách mạng được hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự. Bước ngoặt đến vào tháng
7/1920, khi Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo Luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa trên báo L'Humanité. Đây là văn bản chính thức đầu tiên bênh vực cho
nhóm các dân tộc nhược tiểu và thể hiện sự quan tâm đến vấn đề giải phóng các dân
tộc thuộc địa. Người đã tìm thấy lời giải đáp cho con đường giải phóng đất nước và
nhân dân mình. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
2.
Chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng - tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Cách mạng Việt Nam từ đây đi theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Điểm mấu chốt là sau
khi xác định được con đường cứu nước phù hợp thì phải có một tổ chức tiên phong trực
tiếp lãnh đạo cách mạng. Do đó, Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu chuẩn bị mọi tiền đề cho sự
thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc kiên trì tố
cáo, lên án bản chất tàn bạo của chế độ thực dân. Người chỉ rõ kẻ thù chung của dân tộc
các nước thuộc địa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên tồn thế giới khơng ai
khác ngồi chủ nghĩa thực dân nói chung. Về chính trị: Người chỉ rõ con đường cách mạng
của các dân tộc bị áp bức là phải giải phóng cho giai cấp, giải phóng cho dân tộc. Sự
nghiệp đó phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về tổ chức: Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên thành lập vào tháng 6/1925 là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa
Marx Lenin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng để tiến tới thành lập chính
đảng cách mạng. Sự truyền bá chủ nghĩa Marx Lenin vào phong trào quần chúng và công
nhân đã làm cho các phong trào này phát triển mạnh
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
mẽ, từ đó nảy sinh yêu cầu về một tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Lần lượt,
các tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng
(11/1929), Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (1/1930) được thành lập nhưng
hoạt động chia rẽ, tách rời nhau. Yêu cầu của thực tiễn cách mạng đặt ra là
phải hợp nhất ba tổ chức thành một đảng duy nhất để lãnh đạo phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc chủ trì có vai trị lịch sử lịch sử
như là Đại hội thành lập Đảng. Từ đây lịch sử cách mạng Việt Nam đi đến bước
ngoặt trọng đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.
3. Xác định giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam - giai cấp cơng nhân
Giai cấp thích hợp lãnh đạo cách mạng Việt Nam lúc này nhất chỉ có thể là giai cấp
cơng nhân. Bởi thứ nhất, sự thất bại của các phong trào yêu nước trước đó cũng là
sự thất bại của giai cấp nông dân và giai cấp tư sản trên vũ đài chính trị. Thứ hai,
cách mạng Việt Nam có chung nền tảng tư tưởng với cách mạng tháng Mười Nga,
điều then chốt nhất là đảm bảo giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo tiên phong.
Tuy vậy, làm sao để giai cấp công nhân Việt Nam tin tưởng đi theo con đường đấu
tranh vô sản là một vấn đề. Sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc áp dụng
con đường cách mạng vô sản Nga vào thực tiễn cách mạng Việt Nam thể hiện ở
điểm này. Dưới chính sách ngu dân của Pháp, Người hiểu rõ khơng thể thành lập
Đảng ngay với 95% dân số mù chữ, khó tiếp cận với tư tưởng tiến bộ. Do đó,
Người thành lập trước Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để truyền bá rộng rãi
chủ nghĩa Marx Lenin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân. Hội cũng
thực hiện phong trào “vơ sản hóa”, đưa hội viên của mình thâm nhập vào trong
những nhà máy, hầm mỏ, xí nghiệp để rèn luyện lập trường của giai cấp công
nhân, lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô
sản; làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước.
BI. Đánh giá vấn đề: Ý nghĩa việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản đối
với cách mạng Việt Nam
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc kéo dài 2/3 thế kỷ. Đường lối
đúng đắn đó đã đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam với sự thành công
của cách mạng tháng Tám, sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày
2/9/1945 và đi đến thắng lợi cuối cùng vào mùa mùa xuân 1975 - kỷ nguyên đất nước
ta hoàn toàn độc lập, nhân dân ta hoàn toàn tự do tiến bước lên chủ nghĩa xã hội.
IV. Q trình tìm tịi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản
Việt Nam qua ba bước đột phá tư duy về kinh tế (1976 - 1986)
1. Nỗ lực khôi phục kinh tế từ đống hoang tàn sau chiến tranh
Cuối tháng 12/1976, Đại hội Đảng lần thứ IV được triệu tập, mở đầu cho quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên việc chúng ta áp dụng
mơ hình xã hội chủ nghĩa với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp cho cả miền Nam là q nóng vội và khơng thấu đáo. Phải hiểu rằng, cơ chế
kinh tế này có thể phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh, nhưng trong
thời bình lại bộc lộ nhiều hạn chế phương hại nghiệm trọng đến nền kinh tế: thủ
tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học cơng nghệ, khơng khuyến khích tính
năng động sáng tạo của các đơn vị - chủ thể trong nền kinh tế. Điều này khiến cơng
thương nghiệp đình đốn, sản xuất ngưng trọng, những vật phẩm lương thực thiết
yếu chỉ đáp ứng được 1/10 nhu cầu khiến cuộc sống người dân vơ cùng khó khăn.
Để khắc phục những hạn chế này, đáp ứng lại nhu cầu nguyện vọng của người
dân, Đảng ta đã có những bước đột phá đầu tiên trong việc đổi mới tư duy về kinh
tế trước khi tiến hành đổi mới toàn diện vào năm 1986.
2. Ba bước đột phá về tư duy tạo cú hích trong phát triển kinh tế
Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) là bước đột phá đầu tiên với chủ trương khắc phục
khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, phá bỏ những rào cản cho sản xuất “bung
ra”; xóa bỏ trạm kiểm sốt để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi
ngoài thị trường. Từ đây nền kinh tế mới bắt đầu có khơng gian để phát triển thông qua
việc thị trường tự do được cho phép thiết lập. Về nơng nghiệp: Ban Bí thư đã ban hành
Chỉ thị số 100-CT/TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
tác xã nơng nghiệp. Theo đó, mỗi xã viên lao động dựa trên mức khốn theo diện tích. Nếu
có thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán, tức là nơng dân đã có
động lực gia tăng sản xuất. Sản lượng lương thực bình quân vì thế từ 13,4 triệu tấn/năm
tăng lên 17 triệu tấn/năm. Về cơng nghiệp: Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP về
quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp
quốc doanh và Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khốn, lương sản
phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Những chủ
trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế
hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong
q trình tìm tịi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ
trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền
là khâu đột phá để chuyển sang cơ sở hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Kết quả lớn nhất sau Hội nghị Trung ương 8 là sự thừa nhận sản xuất hàng hóa
và những quy luật sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân.
Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc
về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời
cũng là bước quyết định cho sự ra đời đường lối mới của Đảng. Về cơ cấu sản
xuất: Cần điều chỉnh theo hướng lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy
mơ và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh. Về cải tạo
xã hội chủ nghĩa: Xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về cơ chế quản lý kinh tế: Đổi mới kế hoạch
hóa theo ngun tắc phát huy vai trị chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa - tiền tệ;
làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
3. Ý nghĩa quá trình đổi mới tư duy về kinh tế giai đoạn 1976 - 1986
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tịi, thử nghiệm, đấu
tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những bước đột
phá của Đảng ta về đổi mới tư duy kinh tế trong giai đoạn này là những nhận thức
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
có được thơng qua q trình khảo nghiệm, đúc kết từ thực tiễn, từ những sáng kiến,
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân để có thể hình thành đường lối đổi mới đối với
việc phải giải phóng mạnh mẽ về lực lượng sản xuất khỏi sự yếu kém, tạo ra những
động lực thiết thực cho người lao động. Những tư duy này tuy chỉ mang tính chất từng
mặt, từng bộ phận, chưa có cơ bản và tồn diện nhưng đây là những bước chuẩn bị
quan trọng và tạo ra tiền đề cho đường lối đổi mới toàn diện ở đại hội VI sau này.
4. Những bài học lịch sử
Nhìn lại chặng đường 10 năm thay đổi tư duy kinh tế của Đảng ta từ 1976 đến
1986, có thể nói chúng ta đã vấp phải rất nhiều hạn chế trong quản lý kinh tế, khiến
cho những khó khăn vốn có khi vừa bước ra khỏi cuộc chiến càng thêm trầm trọng.
Nhưng cũng chính từ đây mà chúng ta rút ra được nhiều bài học quý giá.
Phàm làm việc gì cũng khơng thể nóng vội, nhìn người khác làm mà ham làm
nhanh làm lớn. Chằng hạn như xuất phát từ ước muốn nhanh chóng tiến lên chủ
nghĩa xã hội nên Đại hội IV đề ra đường lối phát triển công nghiệp hóa theo hướng
ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng trong khi thực tiễn xã hội không đáp ứng được
các điều kiện về vốn đầu vào, trình độ khoa học kỹ thuật và cả chất lượng nhân
công. Ta không thể chỉ nhìn thấy Liên Xơ đã rất thành cơng với mơ hình này mà
khơng nhận thấy đằng sau thành cơng đó cần sức mạnh tổng hợp của cả ba yếu tố
trên. Về vốn, Liên Xơ bấy giờ có trữ lượng vàng lớn nhất thế giới và kinh tế nội bộ
tích lũy từ 15 nước trong cộng hịa liên bang. Về trình độ khoa học kỹ thuật và nhân
lực, họ đứng đầu trên thế giới về lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản, có đội ngũ
các nhà khoa học đầu ngành. Thay vì như vậy, ta có thể dựa trên cơ sở những
điểm mạnh trước nay của kinh tế Việt Nam để phát triển, tức là phát triển nền nông
nghiệp sở trường và cơng nghiệp nhẹ với tốc độ quay vịng vốn nhanh.
Dù vậy, sai lầm có đáng sợ đến mức nào cũng khơng thể bằng biết sai mà khơng sửa.
Nhìn lại giữa lúc tưởng như đất nước khơng có lối đi ấy, lạm phát tới mức 774,4%, sản
xuất đình đốn, Đảng ta đã "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật",
gấp rút trưởng thành trong tư tưởng để có thể nhìn nhận sai lầm đồng thời chỉ ra nguyên
nhân là do “bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và cơng tác
cán bộ của Đảng” (trích văn kiện Đại hội VI). Từ đây, các nhà hoạch định
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
mới đề ra hàng loạt quan điểm đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm
xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
Kết luận
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng tội ác đó khơng cho phép người Việt Nam nào có
thể qn được. Song chúng ta không đay nghiến quá khứ mà phấn đấu xây
dựng đất nước vì cuộc sống tươi sáng hơn và để những điều vô đạo đức, tàn
khốc của chiến tranh mà chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã gây ra cho nhân dân
ta, không bao giờ được phép lặp lại.
Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong cơng cuộc đổi mới đã khẳng
định tính đúng đắn của hệ thống lý luận Marx Lenin và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội mà Đảng ta đã kiên trì theo đuổi. Từ tháng 12/1986 đến nay, trong
35 năm của công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng đã nhận thức và
tiếp tục vận dụng sáng tạo lý luận về giá trị hàng hóa, quy luật giá trị của kinh tế
chính trị Marx Lenin để định hướng được đường lối phát triển đúng đắn nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực tiễn.
Quá trình đổi mới trong thực tiễn ngày nay vẫn nảy sinh nhiều vấn đề cần được
giải quyết và những khiếm khuyết còn tồn đọng, để đi tiếp con đường này một cách
đúng đắn địi hỏi Đảng phải khơng ngừng đổi mới tư duy, sáng tạo vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Marx Lenin, những lý luận khoa học xã hội để ta học lấy cái tinh hoa
để xây dựng đất nước. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, dân tộc ta sẽ phát
triển nhanh hơn, đi đến phồn vinh hạnh phúc đúng với nguyện vọng nhân dân.
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
Tài liệu tham khảo
1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010). Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2.
GS,TS Lê Hữu Nghĩa: Kiên định con đường đã chọn, Tạp chí Lý luận chính
trị số 1-2010
3.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
4.
Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2006, tập 1
5.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập. Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000
6.
C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :
Nguyễn Kim Phượng
MSSV: 88214020172
download by :