MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp theo nghĩa rộng và cung cấp 
chứng cứ cho hoạt động của tòa án theo nghĩa hẹp, nhằm góp phần bảo đảm 
quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, 
tổ chức xã hội; có tác dụng góp phần chủ động phòng ngừa các tranh chấp và 
vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ phục vụ việc giải 
quyết các tranh chấp, đồng thời góp phần vào việc duy trì kỷ cương pháp luật 
trong xã hội.
Việc tăng cường công tác công chứng trong tình hình hiện nay là yêu 
cầu bức xúc của quản lý kinh tế, quản lý xã hội, hình thành một bước quan 
trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn 
định chính trị và trật tự an toàn xã hội [107, tr. 262]. Để phát huy hiệu quả 
của hoạt động công chứng, tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật và giúp 
đỡ pháp lý cho công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. 
Với một thời gian ngắn trong vòng 10 năm, Nhà nước ta đã ban hành ba 
Nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng (Nghị định 45/HĐBT ngày 
27/2/1991, Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996; Nghị định 75/2000 ngày 
8/12/2000), điều đó chứng tỏ tổ chức và hoạt động công chứng là một lĩnh 
vực không những được xã hội chú ý mà còn được Nhà nước luôn quan tâm 
để hoàn thiện pháp luật về công chứng ở nước ta.
Thực tiễn hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua 
cho thấy, hoạt động công chứng là "hàn thử biểu" của sự phát triển kinh tế xã 
hội [23. tr. 3]. Nền kinh tế thị trường, trình độ xã hội hóa ngày càng cao, các 
quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi tổ 
5
chức và hoạt động công chứng cần phải đáp ứng kịp thời những nội dung của 
quá trình đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đề ra là "cải cách nền hành chính 
nhà nước là trung tâm của việc xây dựng hoàn thiện nhà nước trong những năm 
trước mắt" [67, tr. 31]. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp 
và các cơ quan bổ tạo tư pháp, tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức 
sự nghiệp, khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận 
mà vì nhu cầu lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức 
thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng [107, tr. 217].
Hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua, chừng mực 
nào đó đã đóng góp một phần tích cực vào việc lập lại trật tự trong lĩnh vực 
giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, đã đi vào cuộc sống và có ý nghĩa thiết 
thực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Song, tình hình hiện 
nay đang đặt ra cho tổ chức và hoạt động công chứng nhiều vấn đề cần phải 
được giải quyết bằng việc tổ chức lại hệ thống công chứng theo hướng thực 
hiện dịch vụ cộng với sự giám sát của cộng đồng, kiện toàn bộ máy và tinh 
giảm biên chế một cách cơ bản [107, tr. 217]. Chuyên môn hóa các hoạt động 
hỗ trợ tư pháp nói chung và công chúng nói riêng nhằm giải quyết kịp thời, 
khách quan, chính xác các việc công chứng mà nhân dân và tổ chức yêu cầu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thể chế công chứng là nội dung quan trọng và cần thiết trong đời 
sống kinh tế và xã hội của tất cả các nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế 
thị trường phát triển.
Ở nước ta, thể chế này còn rất mới, mặc dù thời Pháp thuộc đã có cơ 
quan quản lý văn khế, nhưng những năm sau đó chúng ta không triển khai, 
đến nay mới bắt đầu thiết lập lại, do đó việc nghiên cứu về công chứng có thể 
nói là đang ở giai đoạn bắt đầu, còn thiếu nhiều cả lý luận và thực tiễn.
6
Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về công chứng. Các 
tác giả chủ yếu nghiên cứu nhiều nội dung khác nhau, một số công trình 
nghiên cứu một cách khái quát hoặc mang tính chất giới thiệu pháp luật về 
công chứng ở Việt Nam và của các nước trên thế giới, cụ thể là: Nguyễn Văn 
Yểu - Dương Đình Thành "Những điều cần biết về công chứng nhà nước'' 
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1992); Đề tài khoa học "Cơ sở lý 
luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở 
Việt Nam" (Mã số 92-98-224 của Bộ Tư pháp, 1993); Giới thiệu vài nét về 
xây dựng và hoàn thiện công chứng nhà nước ở Thành phố Hà Nội (Thông 
tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 1995); "Công chứng nhà nước và những 
vấn đề đặt ra hiện nay" của TS. Trần Thất (Thông tin khoa học pháp lý, Bộ 
Tư pháp, 1995); "Công chứng nhà nước Thành phố Hà Nội những vấn đề cần 
quan tâm" của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước, 
số 11, tháng 6 năm 1995; "Tình hình công chứng hiện nay và những vấn đề 
đặt ra" của tác giả Trần Kiên, đăng trên Tạp chí Pháp luật, số chuyên đề 
tháng 7 năm 1995; "Công chứng nhà nước công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền, 
lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức" của tác giả Dương Đình 
Thành, đăng trên Tạp chí Pháp luật, số chuyên đề tháng 7 năm 1995; "Một số 
vấn đề công chứng các giao dịch về tài sản ở Việt Nam - thực trạng và giải 
pháp", Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Xuân Hòa, hoàn thành năm 
1998; "Một số vấn đề về công chứng nhà nước của TS. Nguyễn Ngọc Hiến'' 
(tài liệu nghiệp vụ về công chứng - Bộ Tư pháp phát hành tháng 10/1996); 
"Tập bài giảng công chứng, luật sư, giám định tư pháp, hộ tịch" của Trường 
Đại học Luật Hà Nội, 1997; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc 
xác định phạm vi nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản 
công chứng ở nước ta hiện nay", (Luận án Tiến sĩ Luật học của Đặng Văn 
Khanh, Hà Nội 2000). 
7
Các đề tài nghiên cứu nói trên đã có những giải quyết nhất định về 
các lĩnh vực công chứng ở nước ta trong những năm trước đây, song các nội 
dung nghiên cứu chưa cập nhật đầy đủ và chưa đảm bảo tính hệ thống về tổ 
chức và hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua và tình 
hình đổi mới theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 
IX hiện nay. Trong các quy định của pháp luật về công chứng trong dư luận 
xã hội cũng như quan điểm của các tác giả thì lĩnh vực công chứng dường 
như vẫn còn là một lĩnh vực thiếu nhất quán và còn nhiều mâu thuẫn.
Với đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ giải quyết được một phần hạn 
chế nói trên. Chúng tôi có những thuận lợi hơn các tác giả trước đây là: Bản 
thân đã có 10 năm trực tiếp thực hiện các việc công chứng và làm quản lý tổ 
chức và hoạt động công chứng ở một Phòng công chứng nhà nước. Đã 
nghiên cứu cụ thể đề tài của các tác giả về các vấn đề có liên quan đến tổ 
chức và hoạt động công chứng, có kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. 
Các giáo viên giảng dạy và hướng dẫn khoa học là những người có kiến thức 
sâu rộng, trực tiếp làm công tác nghiên cứu khoa học và quản lý tổ chức hoạt 
động công chứng trên phạm vi toàn quốc, đã từng hướng dẫn nhiều đề tài về 
lĩnh vực này. Song, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn là: Nguồn tài liệu 
tham khảo còn hạn chế, pháp luật về công chứng nước ta vừa thiếu, vừa 
không ổn định, nhận thức chung về công chứng không được thống nhất. Với 
tinh thần say mê nghiên cứu chúng tôi đã cố gắng để luận án đạt được kết 
quả như mong muốn. 
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận 
án
- Mục đích: 
Trước yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp nói chung và cải cách hệ 
thống các cơ quan bổ trợ tư pháp nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của đời 
8
sống xã hội trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các hoạt động kinh tế, 
thương mại dân sự, yêu cầu cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử của Tòa 
án. Mục đích của luận án là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có hệ thống 
và toàn diện những vấn đề về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà 
nước, để từ đó góp phần giải quyết các vướng mắc về tổ chức và hoạt động 
công chứng ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Về mặt lý luận: Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của khái niệm 
công chứng trong quá trình lịch sử lập pháp hành chính - nhà nước Việt 
Nam, đồng thời so sánh với pháp luật công chứng của một số nước trên thế 
giới.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật về 
tổ chức và hoạt động công chứng được áp dụng trong thực tiễn hoạt động của 
các phòng công chứng cũng như hoạt động của các cơ quan khác có thẩm 
quyền thực hiện công chứng, đồng thời trên cơ sở những vướng mắc, thiếu 
sót mà thực tiễn hoạt động công chứng đặt ra để phân tích về mặt lý luận và 
đề xuất những giải pháp nhằm kiện toàn lại tổ chức công chứng ở nước ta.
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu về khái niệm công chứng nói chung và khái niệm 
công chứng theo mô hình tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta hiện 
nay; nghiên cứu về tổ chức công chứng, hoạt động công chứng; nghiên cứu 
về cơ quan quản lý công chứng; đặc biệt là nghiên cứu về công chứng viên - 
chủ thể của hoạt động công chứng; nghiên cứu về các cơ quan có liên quan 
đến hoạt động công chứng ở nước ta.
- Phạm vi nghiên cứu:
9
Luận án nghiên cứu việc tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta 
gồm các vấn đề về khái niệm công chứng, việc tổ chức các cơ quan thực hiện 
công chứng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác 
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp 
luật. Trên cơ sở phương pháp luật duy vật biện chứng và quan điểm lịch sử 
để khẳng định vị trí vai trò chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và hoạt 
động công chứng. 
- Tác giả dựa vào đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về kinh 
tế, về quản lý nhà nước, về cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp và 
đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp, hỗ trợ tư pháp. Nghiên cứu các 
chế định về công chứng nói chung, trong đó đáng chú ý là các quy định về tổ 
chức công chứng trong các thời kỳ lịch sử cụ thể ở nước ta và của các trường 
phái công chứng trên thế giới. 
- Trong quá trình nghiên cứu tác giả đặc biệt chú ý sử dụng phương 
pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, sử dụng phương pháp điều tra, 
phân tích thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Phòng công chứng trong toàn 
quốc thời gian từ năm 1992 đến năm 2000. Tác giả đặc biệt chú ý đến hoạt 
động của các phòng công chứng số 2, số 3 và ở các địa bàn khác để so sánh 
và tìm ra giải pháp xác định mô hình tổ chức công chứng trên địa bàn cả 
nước.
- Luận án đặc biệt chú ý đến nguyên lý đời sống kinh tế, xã hội, quá 
trình giao lưu dân sự, kinh tế ở các vùng, miền trong cả nước để xác định mô 
hình tổ chức và phân bổ lực lượng công chứng viên.
5. Những đóng góp mới của luận án
10
Để góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải 
cách nền hành chính quốc gia, cải cách hệ thống các cơ quan hỗ trợ tư pháp, 
những nội dung sau đây là những vấn đề có ý nghĩa của luận án.
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về lý 
luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta, một loại 
hình hoạt động có tính đặc thù và còn mới ở Việt Nam. 
- Luận án đã đưa ra được khái niệm mới về công chứng trên cơ sở 
phân tích và chứng minh để làm rõ những hạn chế trong việc xác định khái 
niệm về công chứng nhà nước trước đây. Tác giả đã nghiên cứu, phân tích, so 
sánh vói các loại hình công chứng của các nước trên thế giới. Khái niệm mới 
về công chứng đảm bảo các yêu cầu về mặt pháp lý, phù hợp với tình hình, 
đặc điểm về tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta cũng như phù hợp 
với thông lệ quốc tế về công chứng.
- Tác giả đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và 
hoạt động công chứng ở nước ta trong những năm vừa qua và chỉ ra được 
những bất cập về tổ chức bộ máy, về phạm vi thẩm quyền hoạt động, về thủ 
tục thực hiện công chứng. Đặc biệt, tác giả đã phân biệt được sự khác nhau 
cơ bản giữa hoạt động của cơ quan có thẩm quyền thực hiện công chứng với 
hoạt động của công chứng viên và những người có thẩm quyền thực hiện 
hành vi công chứng.
- Luận án đã đưa ra được mô hình tổ chức và quản lý công chứng trên 
cơ sở nghiên cứu về lịch sử phát triển công chứng, chứng thực ở nước ta qua 
các thời kỳ, dựa trên nền tảng của văn hóa dân tộc, thói quen ứng xử trong 
giao lưu dân sự, quá trình phát triển của quan hệ sở hữu, kết hợp với việc 
nghiên cứu có chọn lọc không áp đặt, rập khuôn máy móc, giáo điều mô hình 
công chứng của bất cứ quốc gia nào. Cơ cấu tổ chức bộ máy công chứng mà 
tác giả đưa ra là phù hợp, hoạt động có hiệu quả phù hợp với tiến trình cải 
11
cách nền hành chính quốc gia, phù hợp với tình hình đặc điểm của nước ta kể 
cả hiện tại và trong tương lai.
- Luận án đã có những đề xuất cụ thể để sửa đổi, bổ sung và hoàn 
thiện những văn bản pháp luật về công chứng, chứng thực, về chức năng, 
nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan quản lý công chứng, về quy chế hoạt 
động của công chứng viên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện và có hệ 
thống đầu tiên về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện 
nay. Với những đóng góp mới về mặt khoa học đã được nêu trên, trong quá 
trình viết luận án, tác giả đã công bố những kết quả nghiên cứu trong các tạp 
chí chuyên ngành.
- Về thực tiễn: Luận án góp phần vào việc xác định khái niệm công 
chứng, chủ thể thực hiện hành vi công chứng cũng như việc nâng cao hiệu 
quả trong việc hạn chế bớt các tranh chấp xảy ra trong giao dịch dân sự, kinh 
tế, thương mại, lao động 
Ngoài ra, với những đóng góp mới của luận án sẽ tạo điều kiện thuận 
lợi cho việc tiếp tục nghiên cứu về tổ chức và hoạt động công chứng cũng 
như làm tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy ở các trường đại học, nhất là 
phục vụ cho việc đào tạo chức danh công chứng ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác 
giả và danh mục tài liệu tham khảo; luận án chia làm 3 chương, 9 tiết. 
12
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG 
CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC 
1.1.1. Khái niệm công chứng nhà nước
 Lịch sử công chứng hay nói chính xác hơn là yêu cầu chứng nhận, 
xác nhận, làm chứng đã có từ hàng nghìn năm, đã trải qua những biến đổi 
cùng với những quan điểm, quan niệm về chứng cứ. Các chế độ chính trị, 
kinh tế, xã hội khác nhau thì tổ chức và hoạt động công chứng cũng được 
quy định khác nhau. 
Hoạt động công chứng, chứng thực, làm chứng gắn liền với sự phát 
triển của xã hội. Suốt từ thời kỳ cổ đại đến trung cổ, giữa người làm công 
chứng (công chứng viên) và người lập văn tự thuê, chưa được phân biệt rõ 
ràng. Ở thời kỳ cổ đại người ta đã thấy những viên thư lại tiến hành soạn 
thảo các khế ước (hợp đồng) theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, khó có thể bị 
thay đổi về sau, khác hẳn với những khế ước không thành văn theo truyền 
thống (giao kết miệng) [24, tr. 21]. 
 Lịch sử Nhà nước đã có thời kỳ chưa có khái niệm công chứng, một 
số tác giả nghiên cứu về công chứng cho rằng có hai loại hình thực hiện công 
chứng là tư chứng thư và công chứng thư'. Các tác giả đã đưa ra các khái 
niệm ''công'' và "tư", giữa cá nhân tự do làm chứng với các chức danh được 
Nhà nước giao cho nhiệm vụ thực hiện hành vi công chứng hoặc Nhà nước 
trực tiếp thực hiện các việc công chứng [7], [98, tr. 95]. Vấn đề này phải 
được lý giải một cách cụ thể như sau: 
- Tư chứng thư (người làm chứng tự do): Trong nhân dân ta tồn tại 
một truyền thống là mỗi khi có các giao dịch quan trọng đều phải nhờ những 
13
người có uy tín trong gia tộc, trong thôn xóm đứng ra làm chứng để xác 
nhận. Khi có tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa 
vào hình thức chứng nhận trên để chứng minh sự thật, lấy đó làm cơ sở để giải 
quyết 
vụ việc tranh chấp. Những văn tự được lập ra do các cá nhân công dân thực 
hiện và có người thứ ba làm chứng với tư cách cá nhân nên được gọi là "tư 
chứng thư" [54, tr. 31]. Đây là một dạng chứng nhận của bất kỳ một cá nhân 
nào, thực hiện một cách tự do, làm chứng không phải là nghề chuyên môn 
mà họ được giao, Nhà nước không những không cấm mà còn có phần 
khuyến khích nhân dân tham gia cung cấp chứng cứ khi có yêu cầu. Loại 
hoạt động này chúng ta thấy xuất hiện từ thời cổ đại và tồn tại cho đến tận 
ngày nay. Ở Việt Nam trong Quốc triều thư khế (Thể thức giấy tờ, khế ước 
dùng trong triều) như chúc thư, văn khế bán ruộng đất, văn khế cầm cố ruộng 
đất, văn ước vay nợ, giấy giao kèo, văn ước bán trâu, bò đều quy định người 
chứng kiến, người bảo lãnh, người viết thay phải điểm chỉ vào văn tự [54, tr. 
61], [69], [78]. Đây là những quy định nhằm bảo đảm hiệu lực pháp lý, hạn 
chế tranh chấp kiện tụng. 
Trong xã hội phong kiến ở Việt Nam chính vì có những bảo 
đảm trong quan hệ giao dịch nên nhân dân đã tìm đến với Quốc 
triều hình luật, Quốc triều thư kế vốn có chứa đựng những chuẩn 
mực sinh hoạt đời thường. Một điều lý thú trong đời sống hàng 
ngày từ xa xưa ở Việt Nam đã có câu "Nói có sách, mách có 
chứng" phần nào như một luật tục. Cho đến nhà Nguyễn Gia Long 
ban hành Hoàng Việt luật lệ vẫn tiếp tục được nhân dân và quan lại 
chính quyền nhà Nguyễn vận dụng [53, tr. 21]. 
Bộ luật dân sự của nước ta hiện nay vẫn quy định trong quan hệ dân 
sự các bên phải thiện chí, trung thực Nếu một bên cho rằng bên kia không 
14
trung thực thì phải có chứng cứ [1], [11], chứng cứ ở đây bao hàm cả những 
chứng cứ do cơ quan chuyên trách cung cấp và cả chứng cứ do bất kỳ tổ 
chức, cá nhân nào cung cấp.
Khi nghiên cứu về khái niệm công chứng thì đồng thời phải nghiên 
cứu đến cơ sở hình thành khái niệm, lịch sử truyền thống, thói quen trong 
việc làm chứng ở mỗi thời kỳ lịch sử và mỗi quốc gia riêng biệt. Nghiên cứu 
mối liên hệ giữa tục và luật, niềm tin trong giao tiếp cư xử hàng ngày; cả 
trong mua, bán tài sản có giá trị lớn. Nghiên cứu đặc điểm của tư tưởng chính 
trị, pháp lý cổ truyền của mỗi quốc gia. Một số quốc gia thuộc hệ thống pháp 
luật Ăng-lô Sắc-xông, "công chứng" là một nghề tự do hoàn toàn, Nhà nước 
không thừa nhận thể chế công chứng có nghĩa là không thừa nhận thể chế 
người lập văn bản hoạt động chuyên nghiệp, không có sự can thiệp của 
quyền lực hành pháp, hoạt động công chứng này chỉ thuần túy là hoạt động 
dịch vụ, tư vấn, thảo văn bản kiện tụng do các luật sư làm dịch vụ. Người 
soạn thảo văn bản không phải là công chứng viên chuyên nghiệp, hoạt động 
chứng nhận có tính chất linh hoạt và mềm dẻo hơn, giá trị pháp lý của văn 
bản do người làm chứng lập ra chỉ có giá trị chứng cứ [7, tr. 62], [35, tr. 183].
Như vậy, cho đến nay vẫn tồn tại một loại hoạt động chứng nhận, xác 
nhận, cung cấp chứng cứ của bất kỳ một cá nhân tổ chức nào, nhằm phản ánh 
một sự kiện, hiện tượng mà họ cho là có thật, ví dụ: Cung cấp chứng cứ cho 
Tòa án, xác nhận thời gian công tác, xác nhận ngày mất, làm chứng cho việc 
giao tiền mua bán nhà Đây là một loại chứng nhận vẫn tồn tại và có ý nghĩa 
thiết thực trong đời sống xã hội, nhưng không phải là hoạt động công chức với 
danh nghĩa là một tổ chức được Nhà nước công nhận hoặc cho phép hoạt động.
Hoạt động tư chứng thư là một hình thức hoạt động phong phú và đa 
dạng, dù ở giai đoạn lịch sử hay điều kiện xã hội nào cũng phải cần đến như 
một nhu cầu tất yếu cho xã hội. Thiết nghĩ, pháp luật về công chứng ở nước 
15
ta phải nghiên cứu để thực hiện đa dạng hóa các loại hình hoạt động chứng 
nhận và cung cấp chứng cứ.
- Công chứng thư (Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền): Đây là hoạt 
động chứng nhận, chứng thực, xác nhận có tính chất công, phục vụ lợi ích 
công, do Nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý. Vì vậy, được gọi là công 
chứng. Tổ chức công chứng và người thực hiện hành vi công chứng được 
Nhà nước ra quyết định công nhận và cho phép hoạt động nhằm bảo đảm 
tính xác thực trong hoạt động giao dịch và các quan hệ khác theo quy định 
của pháp luật hoặc theo yêu cầu của công dân, tổ chức, được thể hiện bằng 
các hình thức Nhà nước trực tiếp thực hiện (công chứng nhà nước) hoặc Nhà 
nước ủy quyền (công chứng tự do). 
Hiện tại có những quan điểm cho rằng, công chứng có nghĩa là lấy công 
quyền mà làm chứng (Attestation), sự chứng nhận của Nhà nước, sự chứng 
nhận của quyền lực công [1, tr. 102]. Công chứng ở nước ta được hình thành 
(hiểu theo nghĩa hình thành một tổ chức) từ thời Pháp thuộc, lúc đó gọi là 
chưởng khế, hoạt động theo quy chế chưởng khế của người Pháp [7, tr. 63]. 
Thuật ngữ chưởng khế được hiểu như sau: Chưởng có nghĩa là chức vụ, chức 
tước mà mình đang nắm giữ (chức mình giữ), một người được Nhà nước giao 
cho một chức vụ nào đó. Khế có nghĩa là khế ước, hợp đồng, sự thể hiện ý 
chí với nhau, ý chí này phù hợp với các chủ thể (bày tỏ, tự nguyện). Thuật 
ngữ chưởng khế có nghĩa là: Các việc công chứng do người có chức vụ hoặc 
được Nhà nước giao nhiệm vụ chứng nhận các hợp đồng (khế ước, văn khế) 
hoặc là người lập hoặc giữ các khế ước, cấp bản sao khế ước cho các đương 
sự [97], [102, tr. 99]. Chứng nhận là cái dựa vào đó, để đảm bảo những sự 
kiện, hiện tượng diễn ra là có thật, là đúng sự thật.
Có một số tài liệu nghiên cứu về công chứng cho rằng, thuật ngữ 
Notariat (tiếng Pháp), Notary (tiếng Anh), Notariat (tiếng Đức), Hotapiat 
16
(tiếng Nga) đều có gốc La tinh là Notarius, có nghĩa là ghi chép lập văn bản 
[8, tr. 20]. Có quan điểm cho rằng, bản thân thuật ngữ công chứng đã mang ý 
nghĩa là sự làm chứng công khai, có dấu ấn của công quyền, công chứng viên 
là người được Nhà nước bổ nhiệm thực hiện một công vụ. Thuật ngữ công vụ 
ở đây được hiểu là không hoàn toàn lệ thuộc vào những quy định của pháp 
luật về nền hành chính công. Công chứng là một hoạt động hành chính công, 
lấy lẽ công để làm chứng, là sự nhận thực, xác thực hoặc xác nhận một sự 
kiện, một hiện tượng đúng như là như thế. 
Có một số nhà nghiên cứu cho rằng, hoạt động công chứng thể hiện 
vai trò của quần chúng (công chúng, dân chúng), hoạt động phục vụ lợi ích 
công cộng, thể hiện tính công khai do Nhà nước cho phép và thừa nhận 
(Public hoặc Notary public). Hoạt động công chứng không phải là hoạt động 
thực thi công quyền, không phải lấy quyền công, lẽ công mà chứng như quan 
điểm vừa nêu trên, chúng tôi tán thành với quan điểm này.
Quan niệm công chứng ở nước ta hiện nay là Nhà nước chứng nhận, 
thể hiện khá đậm nét về dấu ấn của quyền lực nhà nước. Vấn đề này sẽ được 
trình bày rõ hơn ở chương 3, phần nói về đổi mới quan niệm về công chứng.
Nhà nước ủy quyền thực hiện công chứng: Đây là thể chế công chứng 
của người La Mã. Được gọi là thể chế công chứng phỏng theo luật La Mã 
hay còn gọi là hệ thống công chứng La tinh (UINL) mà điển hình là công 
chứng của Cộng hòa Pháp. Theo thể chế này thì công chứng viên do Nhà 
nước bổ nhiệm (Tổng thống hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Được Nhà nước ủy 
quyền thực hiện chức năng trong khuôn khổ một nghề tự do.
Đặc điểm nổi bật của loại hình hoạt động này là công chứng viên 
người lập hợp đồng, là chuyên gia pháp lý tinh thông về nghiệp vụ, hoạt 
động bằng nguồn tài chính của riêng mình, tự quản và chịu trách nhiệm về 
mọi hành vi công chứng. công chứng viên là người được Nhà nước ủy quyền 
17
đem lại tính đích thực cho hoạt động của các bên và bảo đảm cho nó có hiệu 
lực thi hành [91, tr. 20]. Văn bản công chứng có giá trị pháp lý rất cao, là 
bằng chứng không thể chối cãi được, buộc Tòa án phải thừa nhận và nhiều 
khi nó có giá trị như một bản án. Ở các nước thuộc hệ thống công chứng theo 
luật viết, các hoạt động công chứng phát triển, số lượng công chứng viên 
đông đảo (Pháp 7.600 công chứng viên, 4.600 văn phòng công chứng, Nhật 
Bản có 546 công chứng viên, 306 văn phòng công chứng. Có bộ máy từ cơ 
sở quận huyện, đến khu vực tỉnh hoặc liên tỉnh, có Hội đồng công chứng 
Trung ương, đặt bên cạnh Bộ Tư pháp để quản lý hoạt động công chứng) [31, 
tr. 65].
Ở một số nước quy định, trong vòng một tháng kể từ khi được bổ 
nhiệm công chứng viên phải tuyên thệ tại Tòa rộng quyền và chỉ được hoạt 
động sau ngày tuyên thệ, trước khi hoạt động công chứng công chứng viên 
phải đăng ký chữ ký tại Tòa rộng quyền, nơi đặt trụ sở của văn phòng. 
Nhược điểm của thể chế công chứng này là trong chừng mực nào đó bị chi 
phối bởi yếu tố dịch vụ, thiếu sự kiểm tra giám sát của Nhà nước. Tính chất 
"công" trong hoạt động chứng thực bị chi phối [88, tr. 92].
Tương tự như loại hình này còn có một số quốc gia thuộc hệ thống 
pháp luật Ăng-lô Sắc-xông quan niệm công chứng là một nghề tự do hoàn 
toàn, Nhà nước không thừa nhận thể chế công chứng [7], [34].
 Nhà nước thực hiện công chứng: Đây là loại hình công chứng nhà 
nước, Nhà nước trực tiếp tổ chức và thực hiện công chứng chứ không ủy 
quyền cho tổ chức hay cá nhân thực hiện. Là mô hình công chứng được tổ 
chức chặt chẽ hoạt động chuyên nghiệp bằng kinh phí của Nhà nước. Tổ 
chức công chứng là cơ quan nhà nước nằm trong bộ máy hành pháp [108]. 
Công chứng viên là công chức hưởng lương từ ngân sách của Nhà nước. 
Điển hình của hệ thống này được áp dụng ở nước ta và các nước trong hệ 
18
thống xã hội chủ nghĩa trước đây, công chứng nhà nước ở các nước xã hội 
chủ nghĩa trước đây tuy có những nét riêng biệt, phụ thuộc vào điều kiện 
hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Song, có những nét nổi bật là hoạt động mang 
tính chất nhà nước. Công chứng viên là viên chức nằm trong bộ máy nhà 
nước. Cơ quan công chứng được thành lập theo lãnh thổ hành chính, những 
nơi chưa có Phòng công chứng nhà nước thì giao cho Ủy ban nhân dân 
chứng nhận, ý nghĩa của văn bản công chứng chưa được coi trọng. Vai trò 
của công chứng viên không được đề cao, trách nhiệm bồi thường dân sự 
trong hoạt động công chứng hầu như không được nhắc đến [87]. Công chứng 
ở nước ta hiện nay được tổ chức theo loại hình này, công chứng đã xuất hiện 
ở nước ta từ những năm 1930, do đặc điểm lịch sử và điều kiện phát triển 
kinh tế, xã hội của đất nước, trong một thời gian dài nước ta không thành lập 
tổ chức công chứng. Ngày 27/2/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) 
đã ban hành Nghị định 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà 
nước. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên của nước ta sử dụng thuật ngữ công 
chứng nhà nước. Văn bản quy phạm pháp luật này đã thừa nhận thể chế 
công chứng nhà nước và đưa ra khái niệm về công chứng nhà nước như sau: 
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của 
hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ 
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức 
kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, 
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã 
được công chứng có giá trị chứng cứ [63].
Sau 5 năm hoạt động, Nghị định 45/HĐBT (27/2/1991) đã được sửa 
đổi bổ sung bằng Nghị định 31/CP (18/5/1996) của Chính phủ về tổ chức và 
hoạt động công chứng nhà nước. Tại Điều 1 của Nghị định này cũng đưa ra 
khái niệm về công chứng: 
19
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp 
đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, 
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, 
tổ chức xã hội góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng 
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước 
chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có 
giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô 
hiệu [65].
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức về công 
chứng, chứng thực, góp phần phục vụ sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, 
đồng thời tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng 
thực, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng, chứng 
thực. Ngày 08/12/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP 
về công chứng, chứng thực. Nghị định này đã quy định về tổ chức của Phòng 
công chứng và công tác chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã. 
Khác với Nghị định 31/CP/1996 (18/5/1996), Nghị định 75/2000/NĐ-CP 
(8/12/2000) lần này xác định khái niệm công chứng và khái niệm chứng 
thực: 
Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác 
thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập 
trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác 
(sau đây gọi là hợp đồng và giao dịch) và các việc khác theo quy 
định của nghị định này.
Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác 
nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân 
20
trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ 
theo quy định của nghị định này [66].
Như vậy, cả ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng đều 
xác định công chứng ở nước ta là Nhà nước thực hiện công chứng, mặc dù 
Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) có thay đổi tên gọi và tách bạch phạm 
vi công chứng và chứng thực song, nghị định này vẫn điều chỉnh các lĩnh 
vực hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện công chứng, 
chứng thực, chứ không điều chỉnh riêng về hành vi công chứng, chứng thực 
hoặc hành vi yêu cầu công chứng, chứng thực của cá nhân và tổ chức như 
pháp luật về công chứng của các nước thuộc hệ thống pháp luật Ăng-lô Sắc-
xông.
Dựa trên những quy định của Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) 
về công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay thì khái niệm công chứng theo 
Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 đã được sửa đổi và phân định rõ trên cả hai 
phương diện về tổ chức và hoạt động công chứng, chứng thực. Những việc 
chứng nhận hợp đồng, giao dịch và các quan hệ xã hội khác do công chứng 
viên của Phòng công chứng thực hiện thì được gọi là các việc công chứng. 
Những việc chứng nhận bản sao văn bản giấy tờ, chứng nhận chũ ký của cá 
nhân và một số việc khác do những người có thẩm quyền của Ủy ban nhân 
dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thì gọi là chứng thực. Phòng công chứng và 
cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước giao 
cho nhiệm vụ thực hiện các việc công chứng. Để tránh tình trạng nhầm lẫn 
giữa hoạt động của Phòng công chứng và hoạt động của Ủy ban nhân dân 
cấp huyện, cấp xã không phải là cơ quan có chức năng công chứng, văn bản 
chứng nhận của cơ quan công chứng khác với văn bản chứng thực của Ủy 
ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Ranh giới để phân biệt sự khác nhau giữa 
công chứng và chứng thực là tiêu chí chủ thể thực hiện các loại công việc 
21
công chứng, chứng thực; chủ thể thực hiện hành vi công chứng là công 
chứng viên của Phòng công chứng hoạt động chuyên trách và các chuyên 
viên của cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài hoạt động 
kiêm nhiệm, chủ thể thực hiện hành vi chứng thực là những người có thẩm 
quyền chứng thực ở Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa, các hoạt động giao dịch và yêu cầu chứng nhận các việc công chứng 
khác ngày một nhiều, để đáp ứng được yêu cầu nói trên việc giao cho các 
cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện công 
chứng và Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện các việc chứng thực 
là cần thiết. Mặt khác, như một tiền lệ ở nước ta từ năm 1945 đến nay các việc 
công chứng, chứng thực đều do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện 
là chủ yếu. Bên cạnh những ưu thế thuận lợi nói trên là những bất cập cần 
phải được giải quyết là phân định cụ thể các việc công chứng và các việc chứng 
thực. Nội hàm của khái niệm công chứng và chứng thực là sự khác nhau của 
các loại việc về công chứng và chứng thực chứ không phải chỉ phân định về 
thẩm quyền thực hiện cùng một loại công việc. Không thể tách bạch một 
cách thuần túy là cùng một việc nếu phòng công chứng hoặc cơ quan đại 
diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện thì gọi là công chứng, 
nếu cũng việc ấy mà do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thì gọi 
là chứng thực.
Như vậy, công chứng và chứng thực là hai khái niệm khác nhau cả về 
phương diện tổ chức, phạm vi hoạt động, chủ thể thực hiện hành vi công 
chứng, chứng thực. Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) trong chừng mực 
nào đó đã khắc phục được những thiếu sót về đồng nhất khái niệm công 
chứng và chứng thực, khắc phục được sự nhầm lẫn giữa văn bản của công 
22
chứng và văn bản của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã mà các nghị định 
về công chứng trước đây chưa giải quyết được.
Tuy nhiên, hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện, 
cấp xã không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án, song việc xác định thẩm 
quyền, phạm vi hoạt động công chứng, chứng thực, giá trị pháp lý của văn 
bản công chứng, chứng thực có mối quan hệ với nhau và nhiều vấn đề cần 
phải làm rõ, chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò của công chứng nhà nước 
Đặc điểm hoạt động công chứng nhà nước: Hoạt động công chứng ở 
nước ta do Nhà nước quản lý về tổ chức, hoạt động công chứng là hoạt động 
dịch vụ công, công chứng có nhiệm vụ giúp công dân, tổ chức thực hiện và 
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ bằng các biện pháp pháp lý. Hoạt động 
này khác hoàn toàn với hoạt động của cơ quan tư pháp (Tòa án) là nhằm thực 
thi công quyền, lập lại trật tự pháp luật khi đã bị rối loạn. Hoạt động công 
chứng là hoạt động hỗ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hoạt động tư pháp.
Công chứng ở nước ta có đặc điểm khác biệt so với công chứng của 
các quốc gia trên thế giới, là do các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước 
thực hiện, hoạt động công chứng được xem là một nghề trong số các nghề tư 
pháp [22, tr. 3], công chứng viên là một chức danh do Nhà nước quy định về 
tiêu chuẩn chuyên môn, đạo đức. Văn bản công chứng thể hiện khá đậm nét 
về dấu ấn của quyền lực công, đó là con dấu của công chứng nhà nước mang 
hình Quốc huy, một biểu tượng đặc trưng của các cơ quan quyền lực. Công 
chứng viên là người được giao nhiệm vụ chứng nhận các giao dịch và những 
yêu cầu của công dân và tổ chức, nhằm tạo ra một loại chứng cứ bất khả 
phản bác loại trừ có phán quyết của Tòa án, đem lại niềm tin chắc chắn cho 
các bên đương sự. 
23
Công chứng viên là công chức nhà nước, được hưởng lương do Nhà 
nước đài thọ theo ngạch bậc công chứng viên. Lệ phí thu được phải nộp vào 
ngân sách Nhà nước. Khi công chứng viên gây ra thiệt hại đối với đương sự 
thì Nhà nước chịu trách nhiệm dân sự đối với đương sự, công chứng viên 
chịu trách nhiệm vật chất đối với Nhà nước theo quan hệ Luật lao động.
Nghị định 31/CP (27/2/1991) quy định công chứng viên là công chức 
nhà nước hoạt động chuyên trách, không được hành nghề tự do. Đến Nghị 
định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2001) không có điều nào cấm công chứng viên 
hành nghề tự do, song cũng không có quy định nào cho phép công chứng 
viên hành nghề tự do. Đây là một bước phát triển mới trong tổ chức hoạt 
động công chứng ở nước ta. 
Với những đặc điểm trên, công chứng ở nước ta là hoạt động dịch vụ 
mang tính công, không hoạt động theo nguyên tắc tự hạch toán hoặc theo 
nguyên tắc tự trang trải. Công chứng còn là một khâu trong quá trình quản lý 
của Nhà nước đối với các hoạt động giao dịch. Hoạt động công chứng ở nước 
ta hiện nay là hoạt động nghề nghiệp, do công chứng viên là công chức nhà 
nước thực hiện, đồng thời là hoạt động của các chức danh không chuyên 
nghiệp. Mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công 
dân, củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa và trật tự pháp luật, ngăn ngừa các 
tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ khi cần 
thiết để phục vụ việc giải quyết các tranh chấp. 
 Vai trò của công chứng nhà nước: Đối với nước ta việc thiết lập lại 
hệ thống công chứng trong những năm gần đây là phù hợp với điều kiện phát 
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị 
trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng kinh tế đối ngoại, thực hiện đổi mới kinh tế, 
xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII và lần thứ IX của Đảng; 
24
phù hợp với chủ trương của Nhà nước phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành 
phần với các hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, trong đó sở hữu toàn 
dân và tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Chính cơ 
sở kinh tế này đã quyết định tới việc xây dựng hệ thống công chứng và xác 
định vị trí vai trò chức năng nhiệm vụ của công chứng ở nước ta [2], [93], 
[107], [135]. Phòng công chứng với tính cách là cơ quan bổ trợ tư pháp, đã 
có một vị thế mới, hoạt động công chứng lần đầu tiên trong văn bản của 
Chính phủ được thừa nhận là một nghề tư pháp (Nghị định 75/2000 NĐ-CP 
ngày 8/12/2000 của Chính phủ). Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị 
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động công chứng ở nước ta 
đang chứng tỏ là một công cụ đắc lực phục vụ quản lý Nhà nước có hiệu quả, 
góp phần tích cực phòng ngừa tranh chấp, tạo ra sự an toàn pháp lý cho các 
quan hệ giao dịch trong xã hội [22].
Hoạt động chứng nhận của các cơ quan thực hiện công chứng nhằm 
bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế và các quan hệ xã hội 
khác, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan Nhà 
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, có tác dụng chủ động phòng ngừa các 
tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp các tài liệu có giá trị chứng cứ phục 
vụ cho việc giải quyết các tranh chấp. Một nội dung hết sức quan trọng vượt 
ra khỏi vai trò hỗ trợ và phòng ngừa là giá trị thi hành đối với các bên giao 
kết, sự hiện diện của công chứng viên, người có trình độ chuyên môn hiểu biết 
pháp luật chứng nhận các bên đưa ra những điều khoản cam kết đúng pháp 
luật đã làm cho hiệu lực thi hành của văn bản công chứng có giá trị tuyệt đối. 
 Sự đáng tin cậy và không thể phản bác của văn bản công chứng buộc 
tổ chức, công dân phải tự nguyện thi hành những nghĩa vụ và giúp họ đương 
nhiên được hưởng những quyền lợi mà văn bản công chứng đã xác nhận mà 
không phải nhờ đến phán xét của Tòa án. Ở những nước có hoạt động công 
25
chứng phát triển, những vụ tranh chấp, kiện cáo về dân sự giảm đi đáng kể. 
Ở nước ta, qua xem xét nguyên nhân dẫn tới các vụ tranh chấp dân sự cho 
thấy, hầu hết các bên tham gia ký kết hợp đồng không tuân thủ các quy định 
của pháp luật, nội dung hợp đồng quá sơ sài, đa số các hợp đồng không có 
chứng nhận của cơ quan công chứng. Điều này gây rất nhiều khó khăn, tốn 
kém thời gian cho Tòa án khi xem xét, giải quyết tranh chấp [5].
Hoạt động công chứng là hoạt động dịch vụ công, tuy không phải là 
hoạt động quản lý Nhà nước, nhưng nó góp phần hỗ trợ tích cực để Nhà nước 
thực hiện quản lý các hoạt động giao dịch. Trong nền kinh tế thị trường, khi 
các quan hệ sở hữu được mở rộng, nhất là sở hữu bất động sản thì vai trò của 
công chứng trở nên đặc biệt quan trọng. Việc đổi mới công chứng hiện nay 
thực sự là một yêu cầu cấp bách. Bất cứ ai, cho dù hiểu biết rất ít về công 
chứng hoặc có những ý kiến chê trách công chứng ở góc độ này hay góc độ 
khác, cũng phải thừa nhận rằng, nếu không có sự tồn tại của công chứng thì 
không ai có thể hình dung được giá trị pháp lý hay nói cách khác là "đời 
sống" của các hợp đồng, giao dịch sẽ như thế nào [44, tr. 32]. 
Với những vai trò nêu trên, công chứng được coi là một trong các 
hoạt động bổ trợ tư pháp, với nghĩa hẹp là bổ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa 
án, với nghĩa rộng là hỗ trợ (góp phần) vào việc duy trì kỷ cương pháp luật 
trong xã hội.
Trong một thế giới ngày càng văn minh, khi mà các quan hệ xã hội 
được pháp luật bảo hộ bằng những quy định rất chi tiết, trong một xã hội dân 
chủ nơi mà cá nhân luôn luôn có nhu cầu cần được Nhà nước bảo vệ, trong 
một môi trường luôn biến động, nơi mà an toàn pháp lý trở thành vấn đề cần 
thiết thì ngành công chứng thực sự có vai trò trọng yếu trong đời sống xã hội. 
Mục đích của hoạt động công chứng: Mục đích của hoạt động công 
chứng hay nói cách khác là việc công chứng nhằm đạt được cái gì? Điều 1 
26
Nghị định 45/HĐBT (27/2/1991), Điều 1 Nghị định 31/CP (18/5/1996) và 
Điều 2 Nghị định 75/2000 NĐ-CP (8/12/2000) đều xác định mục đích của 
hoạt động công chứng là chứng nhận "tính xác thực của các hợp đồng được 
giao kết hoặc giao dịch khác và giấy tờ theo quy định của pháp luật".
Vấn đề tranh luận nhiều hiện nay là hiểu như thế nào về tính xác 
thực, bản chất của vấn đề xác thực là như thế nào?
Nội dung của Điều 2 Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2000) đã đề 
cập tới khái niệm về công chứng. Mặt khác, đề cập tới mục đích của hành vi 
công chứng là chứng nhận tính xác thực của hợp đồng và giấy tờ và nhằm 
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần phòng ngừa 
vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Cái mà pháp luật công chứng nhằm vào là bảo vệ lợi ích của các chủ 
thể, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ 
nghĩa [92, tr. 6]. Một số quan điểm cho rằng đây là mục đích của hành vi 
công chứng. Song mục đích của hành vi công chứng không phải là như vậy 
vì nó chưa phản ánh đúng đặc thù của hoạt động công chứng. Bảo vệ lợi ích 
của các chủ thể, phòng ngừa vi phạm pháp luật là mục đích quan trọng và 
thể hiện chung cho tất cả các hoạt động khác của các cơ quan nhà nước, các 
tổ chức xã hội đều hướng tới chứ không riêng gì công chứng nhà nước. Vì 
vậy, chúng tôi đồng ý cho đây là yêu cầu của việc thực hiện công chứng. 
Tính xác thực có nghĩa là, người được Nhà nước giao nhiệm vụ làm 
chứng phải phản ánh đúng sự thật khách quan diễn ra trong một không gian, 
thời gian nhất định. Sự vật hiện tượng luôn diễn ra một cách khách quan đòi 
hỏi công chứng viên phải đủ các điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ, hiểu 
biết xã hội, để phản ánh một cách chính xác [91, 5].
Nói đến hoạt động công chứng là nói đến việc yêu cầu chứng nhận và 
việc chứng nhận. Quá trình chứng nhận là quá trình diễn ra giữa các chủ thể 
27
yêu cầu chứng nhận và chủ thể chứng nhận cùng hoạt động chung, cùng phối 
hợp hài hòa với mục đích là phản ánh chính xác nội dung sự việc diễn ra.
Công chứng nhà nước, nói chính xác hơn là công chứng viên - chủ 
thể của hoạt động công chứng là người chủ động tổ chức hoạt động chứng 
nhận. Mục đích của hành vi công chứng ngoài việc bảo đảm tính xác thực, còn 
hướng cho các hoạt động giao dịch phù hợp pháp luật, bảo đảm cho quyền và 
lợi ích hợp pháp của bên không bị xâm phạm. Điều 6 Nghị định 75/2000/NĐ-
CP (8/12/2000) tại khoản 2 có quy định: 
Khi thực hiện công chứng, chứng thực người thực hiện 
công chứng, chứng thực phải thực sự khách quan trung thực và 
phải chịu trách nhiệm về việc công chứng, chứng thực do mình 
thực hiện; trong trường hợp biết hoặc phải biết việc công chứng, 
chứng thực là trái pháp luật, đạo đức xã hội thì không được thực 
hiện công chứng, chứng thực [66]. 
Tuy nhiên, để xác định cụ thể trường hợp nào người thực hiện công 
chứng, chứng thực biết và phải biết là vấn đề hết sức phức tạp. Trên thực tế 
chúng ta chỉ có thể xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như trình độ hiểu 
biết pháp luật, kinh nghiệm hoạt động của người thực hiện công chứng, 
chứng thực để xem xét vấn đề biết hoặc phải biết khi họ thực hiện hành vi công 
chứng.
Để đảm bảo tính xác thực mà hoạt động công chứng nhằm vào, nội 
dung của vấn đề này hoàn toàn không đơn giản. Cho đến nay, chúng ta chưa 
có một cơ sở pháp lý nào để nói rằng người thực hiện hành vi công chứng 
xác thực nội dung hay xác thực hình thức của hợp đồng và giấy tờ. Như thế 
nào là xác thực về nội dung và như thế nào là xác thực về hình thức cũng 
chưa được quy định. Hiện nay có nhiều tác giả cho rằng: 
28
- Chứng nhận mang tính hình thức (công chứng hình thức): Là loại công 
việc mà công chứng viên chỉ chứng nhận năng lực hành vi và sự hiện diện, chữ 
ký của đương sự vào văn bản trước mắt mình. Còn nội dung, tính hợp pháp của 
văn bản, ý chí của đương sự thể hiện trong việc thỏa thuận, công chứng viên 
không cần kiểm tra. Văn bản loại này có giá trị chứng minh việc đương sự đã 
ký tên vào văn bản, giấy tờ là có thật. Chữ ký trong văn bản đúng là của đương 
sự còn ý chí của đương sự có đúng với sự thực khách quan và có phù hợp với 
đánh giá của cơ quan có thẩm quyền hay không thì công chứng viên không 
quan tâm.
- Chứng nhận về nội dung: Là loại công việc mà công chứng viên tiến 
hành kiểm tra, xác minh để xác định năng lực hành vi, năng lực pháp luật trong 
việc ký kết văn bản. Công chứng viên tiến hành kiểm tra nội dung của văn 
bản, kiểm tra sự việc xem có đúng với ý chí của đương sự hay không, các 
quyền và nghĩa vụ của các bên có phù hợp với quyền năng pháp lý của họ hay 
không. 
Trong hai loại công chứng trên thì công chứng về mặt hình thức đơn 
giản hơn, đây là loại công việc đặc trưng của các nước dựa vào chế độ pháp 
luật theo án lệ của Tòa án (Ăng-lô Sác-xông). Còn công chứng nội dung là 
đặc trưng của các nước theo trường phái công chứng ''theo luật viết'' hình 
thành từng bước qua hoạt động công chứng của người La Mã. Các nước lục 
địa châu Âu, châu Phi đều theo hệ thống thể chế công chứng này. Liên Xô 
(cũ) và các nước Đông Âu trước đây cũng áp dụng theo trường phái công 
chứng "theo luật viết". Tuy nhiên, vì trước đây nền kinh tế của Liên Xô và 
các nước Đông Âu không chấp nhận chế độ sở hữu của các thành phần kinh 
tế ngoài quốc doanh và tập thể, nên hoạt động công chứng không phát triển, 
hoạt động tương đối đơn giản vì ít phải chứng thực các quan hệ thuộc sở hữu 
29