Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nhân văn số và vai trò của thư viện trong hỗ trợ cộng đồng học thuật số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.74 KB, 16 trang )

NHÂN VĂN SỐ VÀ VAI TRÒ CỦA THƯ VIỆN TRONG HỖ TRỢ
CỘNG ĐỒNG HỌC THUẬT SỐ

Đỗ Văn Hùng, Email:
Trưởng khoa-Khoa Thông tin thư viện
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn-Đại học quốc gia HN
Ủy viên Ban chấp hành Hội Thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam
&Trần Hồng Hạnh, Email:
Trường ĐHKXH&NV
Tóm tắt: Nhân văn số (digital humanities) là một lĩnh vực nghiên cứu mới
nổi, có đặc trưng sử dụng công nghệ thông tin để khai phá tri thức của nhân
loại, tối đa hóa sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu. Bài viết làm rõ khái niệm
và vai trò của nhân văn số trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cũng như
đối với các nhà nghiên cứu. Khái quát vai trò của thư viện trong việc thúc đẩy
nhân văn số và cơ hội phát triển nhân văn số tại Việt Nam.
Từ khóa: Nhân văn số, Học thuật số, Thư viện số, Khoa học xã hội và
nhân văn, Học liệu số
1. Khái niệm và vai trò của nhân văn số
Nhân văn số (digital humanities) là một khoa học mới nổi mang tính liên
ngành, tích hợp giữa cơng nghệ số, khoa học lưu trữ và sức mạnh tính tốn của
máy tính để phân tích và sử dụng thơng tin một cách có hệ thống trong các khoa
học xã hội và nhân văn. Khởi đầu của thuật ngữ này bắt nguồn từ nhu cầu của
cộng đồng học thuật muốn ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
chuyên môn như nghiên cứu, xuất bản, hợp tác, giảng dạy và đào tạo. Thuật ngữ
Nhân văn số cũng ra đời với thuật ngữ học thuật số (digital scholarship).
Đến nay nhân văn số đã có sự mở rộng ra đối với cộng đồng với phạm vi
không giới hạn. Thực tế thì nội hàm của Nhân văn số vẫn cịn có những tranh cãi
trong cách tiếp cận, lý do là đây là một lĩnh vực mới đang có sự thay đổi và phát
triển rất nhanh chóng, cũng như việc sử dụng và ứng dụng nhân văn số dưới
nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên dù tiếp cận dưới khía cạnh nào
thì cũng có một điểm chung đó là: nhân văn số tạo ra cộng đồng hợp tác trên cơ


sở chia sẻ thông tin số với các công cụ của công nghệ thông tin để khai thác
thông tin và tạo ra những tri thức mới.
50


Klein và Gold cho rằng, cùng với lưu trữ số, phân tích định lượng và các
dự án xây dựng cơng cụ xử lý đã làm rõ nét hơn về nhân văn số. Lĩnh vực này
tích hợp một cách đa dạng các phương pháp và ứng dụng khác nhau như: trực
quan hóa dữ liệu, mơ hình 3D của các hiện vật lịch sử, các nghiên cứu (ví dụ
như luận án) ở định dạng số, gắt thẻ (hashtag) và phân tích chúng, các mơ hình
trị chơi, …Nhân văn số là một khái niệm rộng, do vậy đơi khi khó khăn để xác
định chính xác và cụ thể nó là cái gì, và cơng việc của nhân văn số là gì (Klein
& Gold, 2016).
Đề cấp đến nhân văn số là nói đến các bộ sưu tập trực tuyến về các nguồn
tài liệu gốc, khai phá dữ liệu trên cơ sở các tập dữ liệu lớn về văn hóa, đến mơ
hình hóa dữ liệu và tri thức. Nhân văn số là sự kết hợp giữa các tài liệu số (số
hóa và sinh ra đã ở định dạng số) với các phương pháp nghiên cứu từ nhiều lĩnh
vực khác nhau của khoa học nhân văn truyền thống (như lịch sử, triết học, ngôn
ngữ, văn học, nghệ thuật, khảo cổ, âm nhạc, nhân học, nghiên cứu văn hóa, lưu
trữ và khoa học thư viện) với khoa học xã hội được hỗ trợ bởi máy tính với các
công cụ chuyên dụng (như siêu văn bản, đa phương tiện, mơ hình hóa dữ liệu,
thu thập thơng tin, khai phá dữ liệu, thống kê, xử lý và trích xuất thông tin trong
văn bản, vẽ sơ đồ tri thức số) và kết hợp với xuất bản số. Một trong những lĩnh
vực có liên kết chặt chẽ với nhân văn số đó là khoa học về thơng tin
(information science) với việc thu thập, xử lý, tổng chức, lưu trữ và phân phối
thông tin. Khoa học thông tin sẽ cùng với nhân văn số sẽ được sử dụng một cách
đặc thù trong mỗi lĩnh vực khoa học khác nhau.
Nhân văn số tạo điều kiện để các học giả ở các lĩnh vực khác nhau có thể
tập hợp, tương tác, trao đổi một các hiệu quả và cùng triển khai những dự án
nghiên cứu mang tính liên ngành, cùng giải quyết các vấn đề tồn tại trong lĩnh

vực khoa học xã hội và nhân văn. Mang lại những công cụ hiện đại để giải quyết
các bài toán truyền thống của giới học thuật nhân văn. Sử dụng các cơng cụ tính
tốn siêu cấp để nghiên cứu văn học, lịch sử, triết học, văn hóa và những vấn để
truyền thống.
Để làm được điều này, tất cả các tư liệu đều được số hóa. Tuy nhiên nếu
chỉ dừng ở các bộ sưu tập số (digital collection) thì chưa đây chỉ là một kho lưu
trữ dạng số hóa. Nhân văn số hướng tới tất cả các tư liệu từ tài liệu tồn văn, âm
thanh, hình ảnh, video đều được dữ liệu hóa – mơ hình hóa dữ liệu chính là đặc
trưng cơ bản của khai thác dữ liệu số trong bối cảnh học thuật số. Trong khi số
hóa tài liệu tập trung vào việc chuyển tài liệu sang định dạng số, thì nhân văn số
nhấn mạnh đến dữ liệu hóa các tài liệu đã được số hóa. Ở mức đơn giản là nhận
dạng ký tự quang học để có thể tìm kiếm tồn văn tài liệu đó, cao hơn là xử
51


dụng việc gắn thẻ cho nội dung, sử dụng các siêu dữ liệu mô tả để quản lý tài
liệu, coi thơng tin trong các tài liệu đó dưới dạng các dữ liệu để có thể sử dụng
các phần mềm xử lý dựa trên sức mạnh tính tốn của máy tính cho ra những tri
thức mới mà thông thường nếu không có cơng nghệ thì nhà nghiên cứu sẽ mất
rất nhiều cơng sức và thậm chí là khơng có khả năng để cho ra kết quả được.
Có thể nói nhân văn số là sự kết hợp giữa khoa học xã hội và nhân văn
với khoa học máy tính để tạo ra các công cụ và tài nguyên số cho phép các nhà
nghiên cứu có thể phối hợp cùng nhau triển khai các nghiên cứu sâu hơn và quy
mô hơn mà trước đây họ chưa thể tiếp cận được.
Theo Presner (2009) nhân văn số khơng phải là một lĩnh vực có sự thống
nhất trong khái niệm và cách tiếp cận, tuy nhiên về mặt thực tiễn thì có những
điểm được cơng nhận rộng rãi đó là: (1) tài liệu in ấn khơng còn là độc quyền
hoặc là phương tiện chủ yếu để tri thức tạo lập và phổ biến; thay vào đó, tài liệu
in được chuyển hóa sang định dạng đa phương tiện mới; và (2) các công cụ, kỹ
thuật và phương tiện số đã làm thay đổi việc sáng tạo và phổ biến tri thức trong

nghệ thuật, khoa học xã hội và nhân văn. Nhân văn số đóng vai trị khởi xướng
cho một thế giới mà khơng cịn sự độc quyền trong sản xuất, quản lý và phổ biến
tri thức hay văn hóa, thay vào đó các trường đại học kêu gọi việc hiện thực hóa
các mơ hình khoa học số cho giới học thuật thông các công cụ như www, blogs,
thư viện số để thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới, đồng thời tạo điều kiện cho việc
hình thành mạng lưới sản xuất, trao đổi và phổ biến tri thức ở mức độ toàn cầu
cũng như ở khu vực hoặc địa phương.
Nhân văn số không phải là một lĩnh vực khơng có tính thống nhất mà là
một chuỗi tập hợp các ứng dụng công nghệ và những liên kết nhằm khám phá
những giá trị tiềm ẩn của tri thức nhân loại dựa trên những tư liệu tích lũy của
cịn người từ trước đến nay. Các thành phần của nhân văn số có thể chia thành 4
nhóm như sau: các công cụ số để lưu trữ và xử lý dữ liệu; nội dung số bao gồm
bộ sưu tập số, dữ liệu liên kết, và chuẩn dữ liệu; cộng đồng học thuật số kết nối;
và khả năng khai thác với việc xử lý vấn đề bản quyền và truy cập mở (xem
Hình 1).
Nhân văn số là một khoa học mang tính đa ngành, kết hợp nhiều lĩnh vực
khách nhau để tạo nên một tiếp cận mới và công cụ mới trong nghiên cứu và
khai phá tri thức (xem Hình 2). Cụ thể, Theo Underwood (2015) thì nhân văn số
có sự tham gia của các ngành khoa học như: ngôn ngữ học tính tốn trong việc
mơ hình hóa từ ký tự và đo lường các đặc trưng của văn bản (ví dụ như tiêu đề,
chỉ mục, nội dung bản biểu, thuật ngữ, đề mục trang, ảnh, nhãn…); ngôn ngữ
học ngữ liệu trong việc nhận dạng được các từ đặc biệt; khoa học thư viện và
lịch sử sách trong việc tìm kiếm và tổ chức các tác phẩm; lịch sử văn học với
52


việc mơ hình hóa các thể loại và hình thức văn học để hiểu được sự truyền đạt
sắc thái lời nói của con người thơng qua văn bản viết; xã hội học và khoa học
thống kê để mơ hình hóa được các bối cảnh xã hội, bởi vì các văn bản cũng tham
gia vào tất cả các giao dịch xã hội và những bối cảnh xã hội đó thường dễ nhận

ra trong chính văn bản; và khoa học máy tính với việc xây dựng các mơ hình tự
học của máy tính để hiểu được ngơn ngữ tự nhiên trong các văn bản.

Siêu dữ liệu

Bộ sưu tập số

NHÂN VĂN SỐ
Truy cập mở

Dữ liệu liên kết

Ý tưởng Công cụ

Nguồn lực

Cộng đồng kết nối

Học thuật số

Bản quyền

Các cơng cụ số

Hình 1. Các thành phần của nhân văn số
Vậy tại sao nhân văn số lại quan trọng và các nhà nghiên cứu khoa học xã hội
và nhân văn cần có sự quan tâm trong bối cảnh hiện nay? Keating (2012) dựa trên lý
thuyết hoạt động (activity thoery) để mơ tả vai trị của nhân văn số như sau: một hoạt
động được thực hiện bởi một người/nhóm cụ thể, người đó được thúc đẩy để tìm ra
giải pháp cho một vấn đề của thể hoặc một mục tiêu định sẵn, bằng việc sử dụng các

công cụ để hợp tác với những người khác - tạo ra một cộng đồng. Nhân văn số quan
trọng bởi nó hỗ trợ cộng đồng học thuật số bằng việc cung cấp các công cụ để khai phá
53


dữ liệu và tạo ra tri thức, đồng thời cung cơ hội và mội trường để các nhà khoa học
hợp tác ở các quy mô khác nhau. Hiện nay, nghiên cứu trong khoa học xã hội nhân văn
đã mở rộng hơn bất cứ nghiên cứu truyền thống nào trước đây. Các nhà sử học đang
xây dựng các bản đồ kỹ thuật số tương tác, các học giả văn học đang sử dụng máy tính
để tìm kiếm các mẫu nghiên cứu trên hàng triệu cuốn sách, và các học giả trong tất cả
các ngành đang tận dụng Internet để làm cho công việc của họ trở nên năng động, mới
mẻ và trực quan hơn. Có thể tóm tắt vai trị quan trọng của nhân văn số như sau:
Ngôn ngữ
học ngữ liệu
Khoa học thư
viện

Nhận diện các
từ vựng đặc
thù

Ngơn ngữ
học tính tốn
Đo lường các đặc
trưng văn bản

Tìm kiếm và tổ
chức các tác phẩm
Lịch sử sách
Mơ hình hóa

các ký tự đơn
lẻ
Lịch sử
văn học

Mơ hình hóa các thể
loại và hình thức văn
học

Xã hội học

Mơ hình
máy tự học

Mơ hình hóa
bối cảnh xã hội

Khoa
học máy
tính

Thống

Hình 2. Bảy cách để các nhà khoa học nhân văn hiểu
được dữ liệu văn bản (Underwood, 2015)

Hỗ trợ nhà khoa học phối hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng - nhà nghiên cứu có thể trình bày và liên kết các văn bản số, hình ảnh và tài
liệu đa phương tiện thành bản đồ, tiến trình, dữ liệu, mơ hình.


Hỗ trợ quản trị nội dung và phân tích dữ liệu – nhà nghiên cứu có thể
khai thác, vẽ bản đồ, tổ chức lại các nguồn thông tin theo cách mình muốn để có thể
khám phá ra các xu thế, chủ đề và những tri thức mới có thể học hỏi được.
54



Có thể truy cập thơng tin một cách nhanh chóng và thuận lợi thông qua
truy cập số mở - điều này có nghĩa là càng có nhiều người có thể khai thác và học hỏi
được từ các nguồn thông tin, các dự án nghiên cứu trước đó. Nhà nghiên cứu có thể dễ
dàng tìm kiếm thơng tin qua các dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, từ các siêu liên kết
có liên quan đến tài liệu mà họ quan tâm, qua đó khám phá những tri thức mới.

Tăng cường hợp tác: môi trường số và nguồn thông tin số cố thể cung
cấp một nền tảng cộng đồng mở cho phát triển dự án nghiên cứu, tập hợp các nguồn
lực tài liệu, hỗ trợ sự hợp tác giữa các đối tác, các nhà nghiên cứu ở cấp độ địa
phương, khu mực và thế giới.

Hỗ trợ giảng dạy và học tập - nhân văn số hỗ trợ sinh viên học tập thông
qua việc hỗ trợ họ khám phá nhiều hơn, trải nghiệm nhiều hơn và công tác cùng nhau
trong học tập và nghiên cứu. Giảng viên đóng vai trị là người dẫn dắt và định hướng,
gợi mở các vấn đề cần tìm hiểu, cung cấp cho sinh viên nguồn học liệu số và công cụ
để họ tự khai phá tri thức.
Vậy đâu là sự khác nhau giữa thư viện số, nhân văn số và học thuật số, có mối
liên hệ nào giữa các yếu tố này? Bảng 1 so sách các yếu tố này.
Bảng 1. So sánh giữa thư viện số, học thuật số và nhân văn số
Thư viện số
Thư viện số bao gồm con
người, cơ sở hạ tầng công
nghệ cần thiết để xây dựng

và duy trì các kho lưu trữ
có cấu trúc của siêu dữ liệu
và các đối tượng kỹ thuật
số, được thiết kế để các
nhà nghiên cứu khai thác
và tái sử dụng không giới
hạn nhằm giải quyết các
vấn đề/câu hỏi mà họ đặt ra
trong dự án nghiên cứu của
mình. Thư viện số rất đa
dạng về kích thước, nội
dung và đối tượng.

Học thuật số
Học thuật số là tập hợp các
kỹ năng, phương pháp và
công cụ cần thiết cho các
nhà nghiên cứu để làm việc
với các tài liệu số và cộng
tác trên môi trường số. Các
kỹ năng của học thuật số
bao gồm như: hệ thống
thông tin địa lý; sử dụng
đúng cách và áp dụng phân
tích thống kê (dữ liệu, văn
bản, số hoặc hình ảnh),
quản lý trích dẫn, quản lý
dữ liệu, trực quan hóa dữ
liệu.


Nhân văn số
Nhân văn số là một lĩnh
vực nghiên cứu mới nổi, có
đặc trưng sử dụng cơng
nghệ thơng tin để làm sáng
tỏ và khám phá tri thức của
nhân loại, tối đa hóa sự
hợp tác giữa các nhà
nghiên cứu. Các nhà khoa
học nhân văn số sử dụng
công cụ và kỹ năng của
học thuật số, dựa trên siêu
dữ liệu và đối tượng số của
thư viện số để trả lời các
câu hỏi nghiên cứu mà họ
đặt ra cho nghiên cứu của
mình.

2. Nhân văn số trên thế giới
Nhân văn số được triển khai trên toàn cầu từ rất sớm và trải rộng từ châu Âu,
Bắc Mỹ, đến châu Á với sự tham gia đầu tư phát triển của các chính phủ, tổ chức và
55


các trường đại học. Có thể kể đến tổ chức nhân văn số lớn nhất thế giới đó là Liên
minh các tổ chức nhân văn số (ADHO) bao gồm các thành viên là hiệp hội nhân văn
số trên thế giới như: Hiệp hội nhân văn số châu Âu (EADH), Hiệp hội nhân văn số Úc
(aaDH), Hiệp hội Khoa học máy tính và Nhân văn (ACH), Hiệp hội nhân văn số
Canada (CSDH/SCHN), Hiệp hội nhân văn số Nhật Bản, Mạng lưới quốc tế các trung
tâm nhân văn số (centerNet) và Hiệp hội nhân văn số các nước nói tiếng Pháp

(Humanistica). Sứ mệnh của ADHO là thúc đẩy và hỗ trợ nghiên cứu và giảng dạy kỹ
thuật số trên tất cả các lĩnh vực nghệ thuật và khoa học nhân văn, hoạt động như cộng
đồng chuyên gia tư vấn và hỗ trợ một cách tốt nhất cho nghiên cứu, xuất bản, hợp tác
và đào tạo.
Một trong những thành viên có bề dày phát triển của Liên minh này là Hiệp hội
nhân văn số châu Âu (EADH), được thành lập từ năm 1973 với nhiệm vụ nghiên cứu,
phát triển và ứng dụng các phương pháp và công nghệ nhân văn số vào trong nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn. Các lĩnh vực ứng dụng bao gồm lịch sử nghệ thuật,
nghiên cứu văn hóa, lịch sử, xử lý hình ảnh, nghiên cứu ngôn ngữ và văn học, nghiên
cứu bản thảo và âm nhạc.
Tại Phần Lan, Trung tâm nhân văn số của Đại học Helsinki (HHELDIG được thành lập với
mục tiêu tạo lập một mạng lưới nghiên cứu, tạo lập cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ
để giải quyết các vấn đề trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn với các phương
pháp tính tốn mới và coi nghiên cứu số hóa như một hiện tượng. HELDIG xây dựng
một hệ sinh thái thúc đẩy sự hợp tác giữa các nhóm nghiên cứu học thuật, tổ chức,
cơng ty và cộng đồng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
Đại
học
Berkeley
triển
khai
dự
án
nhân
văn
số
() nhằm phát triển các công cụ và phương pháp
trong triển khai nghiên cứu khao học nhân văn thông qua các dự án, tọa đàm và quý hỗ
trợ phát triển. Berkeley triển khai các khóa học cấp chứng chỉ về nhân văn số nhằm
nghiên cứu nghệ thuật và văn hóa bằng việc sử dụng cơng cụ số. Trung tâm nhân văn

số tại Berkeley được tài trợ bởi Quỹ Andrew W. Mellon Foundation và được sự hỗ trợ
tích của Phịng nghiên cứu đại học Berkeley và quản lý trực tiếp bởi Khoa Nhân văn
và Nghệ thuật. Trung tâm tập hợp được đội ngũ chuyên gia khoa học xã hội và nhân
văn, nghệ thuật, âm nhạc, ngôn ngữ, lịch sử, văn học, chính trị, cơng nghệ, kiến trúc,
thiết kế, lịch sử, nhân học, khoa học thông tin và thư viện.
Tại đại học Stanford, nhân văn số được coi là một khoa học liên ngành
( là nơi giao thoa giữa khoa học máy tính và
khoa học nhân văn. Nhân văn số được triển khai bởi Trung tâm Khoa học nhân văn từ
đầu những năm 1980, khi đó các cơng cụ tính tốn đã giúp các nhà khoa học về nhân
văn triển khai các nghiên cứu ơ quy mô là được cho là khơng thể thực hiện nếu khơng
có máy tính hỗ trợ. Nhân văn số thúc đẩy sự hợp tác và kết nỗi giữa các ngành học và
định hướng phương pháp nghiên cứu mới dựa trên công nghệ. Các dự án liên quan đến
nhân văn số đó là số hóa tài liệu để lưu giữ cho thế hệ sau, tạo lập bản đồ để trao đổi
và truyền tải ý tưởng trong nghiên cứu lịch sử, và nghiên cứu sự biến đổi của các từ
phổ biến trong nhiều thế kỷ qua. Tại Stanford, các nhà nghiên cứu thử nghiệm và
tương tác với các nguồn tài liệu để khám phá ra những kết quả mới, đồng thời xây
56


dựng cộng đồng và chia sẻ thông tin. Đại học Stanford đã xây các trung tâm nghiên
cứu liên quan đến nhân văn số bao gồm: Trung tâm phân tích khơng gian và văn bản
(CESTA), Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật số liên ngành (CIDR), Trung tâm nghiên
cứu máy tình về âm nhạc và âm học, và Nhóm nghiên cứu trọng điểm về nhân văn số
(DHFG) với sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực văn học, văn hóa và ngôn
ngữ.
Hiệp hội nhân văn số nhật bản (JADH) với Tạp chí nhân văn số Nhật Bản được
thành lập với mong muốn kết nối các chuyên gia về nhân văn số và thúc đẩy lĩnh vực
này phát triển, tạo ra môi trường cộng tác quốc tế về nhân văn số. Một trong những
khó khăn mà các chuyên gia nhân văn số phải đối mặt đó là số hóa các ký tự và văn
bản từ các nguồn tài liệu tiếng Nhật. Họ nhận ra rằng những nỗ lực trong số hóa trong

các ngành khoa học nhân văn vẫn chưa tương xứng với chi phí khổng lồ đã được đầu
tư. Chính vì vậy hiệp hội nhân văn số ra đời nhằm thúc đẩy ứng dụng hiệu quả hơn
nữa về công nghệ số trong khoa học nhân văn.
Đài Loan đã triển khai một chương trình đầy tham vọng với chương trình lưu
trữ số quốc gia (NDAP) trong giai đoạn 2002-2012, tiếp theo đó là dự án quản lý bền
vững lưu trữ số quốc gia 2013-2015. Trong đó đã số hóa được 320 ngàn hiện vật, tranh
và mẫu vật; 94 ngàn bộ sưu tập về sách, văn bản và kinh thánh; 156 triệu trang về bản
đồ và hình ảnh; và hơn 9 ngàn giờ dữ liệu video. Việc chuyển đổi từ hình ảnh dưới
dạng viết tay sang nhận dạng chữ viết đồng thời dữ liệu hóa và dịch sang các ngơn ngữ
tương đồng là một việc cần có sự đầu tư lớn. Vấn đề đặt ra khi một nhà nghiên về khoa
học xã hội và nhân văn tiếp cận đến kho dữ liệu số khổng lồ này, họ bị lạc lối trong
kho dữ liệu, làm thế nào để họ tìm thấy dữ liệu mình cần. Việc ứng dụng mô tả siêu dữ
liệu, gắng thẻ cho từ khóa, phân loại tri thức, xây dựng các công cụ nhân văn số sẽ
giúp cho dữ liệu được tổ chức tốt và người khai thác có cơng cụ để khai thác hiệu quả
nguồn trị thức này, đó chính là mục tiêu của nhân văn số. Đại học Quốc gia Đài Loan
là một trong nhữn đơn vị đi đầu trong triển khai nhân văn số và đã thành lập Trung
tâm nghiên cứu nhân văn số ( />Các trung tâm nhân văn số là nơi ứng dụng các phương tiên và công nghệ mới
cho nghiên cứu, giảng dạy và thử nghiệm về khoa học xã hội và nhân văn. Mục tiêu
của các trung tâm là hỗ trợ nghiên cứu về khao học xã hội và nhân văn, tao ra định
dạng tri thức mớ, và khám phá tác động của công nghệ đối với các ngành khoa học xã
hội và nhân văn. Để thực hiện các mục tiêu này, một trung tâm nhân văn số cam kết
thực hiện một số hoặc tất cả các hoạt động sau:

Xây dựng các bộ sưu tập số dành cho học thuật hoặc dùng là nguồn để
giảng dạy

Tạo ra các cơng cụ cho nhà nghiên cứu có thể: quản lý (tạo lập các sản
phẩm đa phương, các ứng dụng mà không cần hiểu biết nhiều về công nghệ cũng như
phải qua đào tạo); xây dựng các bộ sưu tập số; phân tích dữ liệu; xây dựng và quản lý
các quy trình nghiên cứu; sử dụng bộ sưu tập số cùng các cơng cụ phân tích để tạo ra

tri thức mới.

Đề xuất và cung cấp các hoạt động đào tạo về nhân văn số (tọa đàm,
khóa học ngắn, các chương trình đào tạo cấp bằng, đào tạo giảng viên, trao đổi học
giả).
57



Cung cấp các bài giảng, chương trình, hội thảo, xemina về chủ đề nhân
văn số cho giới học thuật và cộng đồng.

Có cơ sở vật chất và nhân lực riêng để triển khai hoạt động (nhân lực
không sử dụng chung với các khoa và đơn vị trong nhà trường).

Cung cấp hỗ trợ và hợp tác cho các giảng viên/nhà nghiên cứu giữa các
khoa trong trường đại học, giữa trường đại học với các tổ chức khác ngoài trường: các
dịch vụ miễn phí; tham gia và các dự án liên ngành.

Triển khai các nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn dựa trên công nghệ,
tạo lập thế hệ học giả số (digital scholarship)

Tạo lập khơng gian cho những thực nghiệm và sáng tạo của nhà khoa
học nhân văn.

Phục vụ như là một cổng thông tin cho một lĩnh vực khoa học xã hội
nhân văn cụ thể.

Phục vụ như là một nơi lưu trữ các bộ sựu tập số về khoa học xã hội và
nhân văn.


Cung cấp các giải pháp về cơng nghệ cho các đơn vị nghiên cứu về khoa
học xã hội và nhân văn.
3. Thư viện đối với nhân văn số
Thư viện không chỉ là nơi được coi là trung tâm của nhân văn số mà đó chính là
khởi nguồn của nhân văn số. Có thể nói trong bối cảnh công nghệ hiện nay, phát triển
nhân văn số được là một công việc đương nhiên của thư viện. Posner (2013) cho rằng
các thư viện đang từng bước hỗ trợ mạnh mẽ cho nhân văn số như là một dịch vụ cao
cấp, và đây được coi là một công việc mới của người làm thư viện. Tuy nhiên vấn đề
đặt ra là nhân văn số khá phức tạp, có sự tham gia của nhiều bên với sự hợp tác rất
chuyên sâu, có sự hợp tác khơng biên giới giữa các thư viện trong, các công nghệ tổ
chức, lưu trữ và khai thác thông tin hiện đại, cùng với sự liên thông giữa các thư viện
trong và ngoài nước (Rockenbach, 2013).
Các thư viện đóng góp rất nhiều trong q trình chuyển đổi số khi nói đến việc
mở rộng các mơ hình để hỗ trợ nghiên cứu. Mơ hình của Sula (2013) cho thấy mối liên
hệ chặt chẽ giữa thư viện với việc cung cấp thơng tin trong mơi trường số. Ở đó các dữ
liệu được tổ chức, liên kết và truy cập mở để người dùng có khai thác dễ dàng; thư
viện cung cấp công nghệ, hỗ trợ tập huấn để tăng cường năng lực khai thác thông tin
của người dùng.
Thư viện không chỉ là nơi được coi là trung tâm của nhân văn số mà đó chính là
khởi nguồn của nhân văn số. Có thể nói trong bối cảnh cơng nghệ hiện nay, phát triển
nhân văn số được là một công việc đương nhiên của thư viện. Posner (2013) cho rằng
các thư viện đang từng bước hỗ trợ mạnh mẽ cho nhân văn số như là một dịch vụ cao
cấp, và đây được coi là một công việc mới của người làm thư viện. Tuy nhiên vấn đề
đặt ra là nhân văn số khá phức tạp, có sự tham gia của nhiều bên với sự hợp tác rất
chuyên sâu, có sự hợp tác không biên giới giữa các thư viện trong, các công nghệ tổ
chức, lưu trữ và khai thác thông tin hiện đại, cùng với sự liên thông giữa các thư viện
trong và ngoài nước (Rockenbach, 2013).

58



Các thư viện đóng góp rất nhiều trong q trình chuyển đổi số khi nói đến việc
mở rộng các mơ hình để hỗ trợ nghiên cứu. Mơ hình của Sula (2013) cho thấy mối liên
hệ chặt chẽ giữa thư viện với việc cung cấp thông tin trong môi trường số. Ở đó các dữ
liệu được tổ chức, liên kết và truy cập mở để người dùng có khai thác dễ dàng; thư
viện cung cấp công nghệ, hỗ trợ tập huấn để tăng cường năng lực khai thác thông tin
của người dùng.
Máy tính
Dữ liệu liên kết
Số hóa

Phân tích ký tự

Bảo quản số

Khai phá dữ liệu
Hệ
thống
Truyền thông xã hội thông tin địa
Mô hình hóa

Siêu dữ liệu
u cầu
Học thuật số
nội dung
Phát triển bộ sưu tập số
lần hai
Biên mục
Khả năng khai

Phân loại

Tập dữ liệu
Yêu cầu
nội dung
lần đầu

Bảo quản vật lý

Hướng dẫn khai thác
các nguồn nhân văn số
Truy cập mở
Phổ biến thông tin

thác và sử
dụng

Quản lý quyền
Đào tạo và
tập huấn

Hỗ trợ về
cơng nghệ

Con người
Hình 3. Mối liên hệ giữa thư viện và nhân văn số (Sula, 2013)
Cây hỏi đặt ra là nếu chúng ta có thể định nghĩa và thiết kế lại một thư viện
trong thế kỷ 21, nó sẽ trơng như thế nào? Chức năng cốt lõi hoặc vai trị của nó sẽ là
gì? Nhiệm vụ học tập, nghiên cứu hoặc các phần của nhiệm vụ học tập, nghiên cứu mà
thư viện sẽ hỗ trợ là gì ? Những vai trị truyền thống của thư viện bao gồm bảo tồn, với

trọng tâm là giải quyết các thách thức của bảo tồn và bảo quản số; duy trì các bộ sưu
tập và kho lưu trữ đặc biệt; cung cấp các dịch vụ và giảng dạy kỹ năng tìm kiếm thơng
tin hiệu quả cho người dùng tin. Có thể hình dung thư viện trong bối cảnh chuyển đổi
số như sau:

Thư viện thế kỷ 21 sẽ phản ánh những thay đổi cơ bản trong cách các
nhà nghiên cứu làm việc với sự phát triển từng bước các phương pháp nghiên cứu mới
và một môi trường học thuật kết nối. Làm việc trong phạm vi của các ngành và vượt
qua các ranh giới liên ngành, các thư viện sẽ có sự linh hoạt, chun mơn và năng lực
59


tổ chức cần thiết để trở thành đối tác trong nghiên cứu liên quan đến các bộ dữ liệu lớn
và khơng đồng nhất. E-research chính là một mơi trường hợp tác c chặt chẽ giữa thư
viện và nhân văn số.

Cán bộ thư viện có kinh nghiệm sâu sắc về các vấn đề như cấu trúc
thông tin, cung cấp thông tin theo nhu cầu chuyên biệt của cộng đồng thông tin. Cán
bộ thư viện tham gia tích cực vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng để
người học tự khai phá tri thức dựa trên việc cung cấp cho người học khả năng truy cập
đến nguồn học liệu số khơng giới hạn và năng lực tìm kiếm, đánh giá và xử lý thơng
tin.

Thư viện sẽ đóng một vai trị quan trọng trong việc đảm bảo tính xác
thực và tồn tại của thông tin số (định danh thông tin số), bao gồm thông tin trên Web –
điều này rất quan trọng đối với các học giả trong tương lai.

Mở rộng ý tưởng hợp tác và hành động tập thể: trên thực tế, vai trò của
thư viện đã trở nên hấp dẫn hơn, do nhiều thách thức hiện tại trong giao tiếp học thuật
xuất phát từ nhu cầu giải quyết các vấn đề liên ngành trong việc chia sẻ tài nguyên số.

Các thư viện có vị trí độc đáo để làm việc tại mối liên kết của các ngành. Thư viện
phải có khả năng tham gia vào những cách nghiên cứu mới với các ngành khoa học và
tương tác rộng hơn với giảng viên, nhà xuất bản. Thư viện có thể đóng một vai trị
thiết yếu trong việc giúp tổ chức thơng tin, họ cũng có thể giúp tạo ra các cấu trúc dữ
liệu mới. Xu thế chung trong thế giới số: phá bỏ rào cản về mặt vật lý (không gian và
thời gian) trong tiếp cận tri thức.

Hỗ trợ sáng tạo: Vai trị chính của thư viện. Càng ngày, giá trị không
được đặt vào (các) ấn phẩm do dự án nghiên cứu tạo ra mà là các giai đoạn tạo mơ
hình dữ liệu và tạo dữ liệu xảy ra trước đó trong vịng đời nghiên cứu. Sự chuyển đổi
này sang một quá trình làm khoa học năng động và hợp tác hơn đã dẫn đến một
phương thức giao tiếp ít chính thức hơn. Cán bộ thư viện và người cung cấp thông tin
phải tham gia vào các giai đoạn lập kế hoạch và mơ hình hóa dữ liệu sớm của EResearch để đảm bảo việc thu thập, bảo quản, tính dễ sử dụng và có sẵn dữ liệu trong
hiện tại và tương lai. Chính ở giai đoạn sáng tạo ban đầu này, việc thiết lập các chính
sách liên quan đến mô tả, quản lý, truy cập và chia sẻ dữ liệu cần được giải quyết, đặc
biệt chú ý đến nhu cầu truy cập vào các tài liệu nghiên cứu. Cần có mức độ kiến thức
và sự tham gia cần thiết để hồn thành hiệu quả vai trị này. Mơ hình mới này đòi hỏi
phải chuyển trọng tâm thư viện từ việc quản lý các bộ sưu tập chuyên ngành sang nhấn
mạnh sự tiếp cận và tham gia chủ động của thư viện.
Tóm lại, sự xuất hiện của nghiên cứu số, học thuật số với kho lưu trữ dữ liệu
lớn đi kèm, đây không chỉ là một cách làm khoa học mới mà còn là một thế giới mới
đầy thách thức đối với các thư viện, với điều kiện là các thư viện cần tích cực nắm bắt
các cơ hội. Vai trò thư viện truyền thống trong việc tổ chức, truy cập và bảo quản phải
được tăng cường bởi các khả năng mới trong việc tự động mơ tả, chú thích và thao tác
với một loạt các tài nguyên thông tin chuyên sâu, hợp tác dữ liệu liên kết.
Để hiểu rõ hơn vai trò của thư viện trong nhân văn số, hãy xem xét mục tiêu
của nhân văn số, đó là: cung cấp quyền truy cập rộng rãi vào nguồn thông tin khoa
học; cho phép thao tác vào nguồn dữ liệu đó - quyền được đóng góp, chia sẻ kiến thức
và sử dụng dữ liệu; chuyển đổi hình thức giao tiếp học thuật - trực tuyến, đa kênh và
60



quy mô lớn; và tăng cường hiệu quả giảng dạy và học tập - tự khai phá tri thức, tự
kiểm chứng tri thức. Rõ ràng, những mục tiêu này trùng lặp với những khả năng tốt
nhất của thư viện. Có thể cho rằng vì thư viện đã hoạt động như một tác nhân liên
ngành trong môi trường học thuật và nghiên cứu, nó có thể và nên trở thành địa điểm
trung tâm nơi mà Nhân văn số được triển khai thực hiện hiệu quả. Các dự án của nhân
văn số liên quan đến các bộ sưu tập số, câu hỏi về việc sử dụng bản quyền, sự công
bằng về lợi ích của các bên liên quan, tổ chức thông tin, công nghệ mới tiến bộ và ý
tưởng mới về vai trò của dữ liệu số trong xã hội, tất cả các lĩnh vực chuyên môn tiềm
năng trong lĩnh vực thư viện. Thư viện phải hoạt động như một nơi mà các học giả có
thể thử những điều mới, khám phá các phương pháp mới và thường trải nghiệm các
cách thức mới để tạo ra thành tựu nghiên cứu.
Vai trò của thư viện trong nhân văn số là hỗ trợ quá trình nghiên cứu như một
phương tiện hữu ích, khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm nghiên cứu mới và thúc
đẩy trí tưởng tượng, sáng tạo của các nhà nghiên cứu. Giá trị cốt lõi của nhân văn số
chia sẻ mục tiêu cơ bản nhất với thư viện đó là khả năng tiếp cận thông tin. Các dự án
nhân văn số đã được thực hiện trên thế giới nhằm mục đích giúp các học giả có thể lấy
các tài liệu mà trước đây khơng thể phát hiện nếu khơng có công nghệ số, các học giả
nhân văn rất quan tâm và sử dụng cho công việc của họ, và kết nối chúng với các lĩnh
vực mới, rộng lớn hơn.
Theo Showers (2012) đưa ra vai trò chủ đạo của các thư viện trong nhân văn số
như sau:
Quản lý dữ liệu: Các nhà nghiên cứu nhân văn đang ngày càng có nhu cầu
tương tác với cộng đồng nghiên cứu lớn; vậy làm thế nào để các thư viện hỗ trợ họ
trong việc này và dữ liệu là đầu ra của loại nghiên cứu này? Điều này có thể liên quan
đến các thư viện hỗ trợ cơ sở hạ tầng quản lý dữ liệu hoặc cung cấp hỗ trợ một - một
cho các lĩnh vực khoa học và nhà nghiên cứu về thực tiễn tốt nhất. Các thư viện đóng
vai trị trong việc thu thập, tái sử dụng và tổ chức dữ liệu, điều mà sẽ dẫn đến sự phân
tích sâu hơn bởi các nhà nghiên cứu riêng lẻ hoặc cả một ( hoặc các) lĩnh vực nghiên

cứu. Điều quan trọng nhất là các thư viện làm việc cộng tác với các nhà nghiên cứu:
Đây không phải là “bán” dịch vụ thư viện; đó là về sự thấu hiểu nhu cầu của các nhà
nghiên cứu và cung cấp sự hỗ trợ phù hợp.
Kết nối chặt chẽ: Cung cấp sự hỗ trợ cho dù nhà nghiên cứu ở đâu; một cách
tiếp cận phân tán đối với các dịch vụ thư viện. Vai trị tích cực này tham gia vào hoạt
động của đô thị học thuật, trong khi ln duy trì một sự hỗ kịp thời. Cán bộ thư viện sẽ
cung cấp các hỗ trợ ngay lập tức khi nhà nghiên cứu cần và luôn luôn theo dõi sự phát
triển của thực tiễn nghiên cứu để cung cấp các hỗ trợ có liên quan.
Số hóa và kiểm soát dữ liệu số: phần lớn dữ liệu được quản lý bởi thư viện, theo
đặc trưng của hoạt động nghiên cứu thì dữ liệu sẽ được tạo ra bởi chính nhà nghiên
cứu. Các thư viện ln là nguồn nội dung tốt nhất và điều này có nghĩa là họ thường
nắm giữ chuyên môn và cơ sở hạ tầng để số hóa. Thư viện có một vai trị rất có ý
nghĩa trong việc số hóa và kiểm sốt những nội dung đó.
Bảo quản số: Thư viện là nơi hơn bất cứ nơi nào khác hiểu về việc bảo quản.
Lưu trữ bền vững và đảm bảo định danh tài liệu số chính là cách thư viện thể hiện vai
61


trị của mình. Tài ngun số có xu hướng trở nên phức tạp và việc bảo quản chúng
không hề đơn giản. Đây là một lĩnh vực mà các thư viện có thể xây dựng và bắt đầu có
tác động thực sự đến các kết quả nghiên cứu và bảo tồn tính liên tục của các nghiên
cứu này.
Khám phá và Phổ biến: Các thư viện ngày càng được đánh giá bởi các dịch vụ
mà họ cung cấp, chứ không phải là một kho nội dung lớn. Điều này có nghĩa là đối với
các nhà học giả số trong lĩnh vực khoa học nhân văn, thư viện có thể đóng một vai trò
quan trọng trong việc cho phép họ khám phá nội dung từ các thành tựu nghiên cứu và
di sản văn hóa và phổ biến các kết quả nghiên cứu. Cho dù điều này có thể cần thơng
qua việc xuất bản hoặc tổng hợp các kết quả nghiên cứu, tư vấn về siêu dữ liệu và định
dạng để có thể cho phép phổ biến, khám phá và theo dõi tác động trên các nền tảng và
tương tác mới.

Một số vai trò khác của các thư viện trong việc hỗ trợ nhân văn Số:

Tư vấn phát triển cho những dự án ban đầu;

Cung cấp cơ sở hạ tầng cho kho kỹ thuật số;

Quản lý dự án số;

Tiếp cận và quảng bá cho nhân văn số;

Giúp các học giả lập kế hoạch cho nhu cầu bảo quản dữ liệu;

Tạo phương thức để sử dụng tri thức và nâng cao nguồn siêu dữ liệu, làm
cho dữ liệu được liên kết, có thể trao đổi và tái sử dụng liên tục;

Phân chia định danh số để thúc đẩy khám phá;

Phổ biến truy cập mở các tài liệu và kết quả nghiên cứu;

Tư vấn về bản quyền, quản lý quyền kỹ thuật số và áp dụng các tiêu
chuẩn;

Tham gia vào các dự án khai thác văn bản, phân tích dữ liệu và hệ thống
thơng tin địa lý (GIS).....

Cung cấp khơng gian, cơng cụ, thiết bị và đào tạo cho nhân văn số.

Làm việc để thúc đẩy đầu tư vào nhân văn số.

Ủng hộ hỗ trợ thực hiện Nhân văn số.

4. Phát triển nhân văn số tại Việt Nam
Gắn kết sức mạnh của thư viện (dữ liệu và công nghệ), con người và các ý
tưởng để tạo ra các sản phẩm hữu hình của hoạt động nghiên cứu học thuật - đó chính
là bước đi trong tương lai của các thư viện Việt Nam. Bước đầu các thư viện Việt Nam
nên tiếp cận với nhân văn số như một công việc cần phải làm chứ không phải là một
dịch vụ để cung cấp. Tham gia, ủng hộ và quản lý các cơng cụ xung quanh các mơ
hình truyền thông học thuật mới nổi là một cơ hội khác để thư viện xác định vị trí của
nó trong lĩnh vực nhân văn số. Truy cập mở (giao tiếp học thuật) đối với nhân văn số
cũng như là truy cập mở (khả năng tiếp cận thông tin) đối với thư viện – đó là mục tiêu
và bối cảnh mà thơng qua đó các thư viện có thể xác định và phát huy giá trị của mình.
Thư viện cần chuẩn bị sẵn các yếu tố cần thiết để hỗ trợ, tham gia và thực hiện các
hoạt động nhân văn số.
Các thách thức chính cho sự phát triển nhân văn số tại thư viên bao gồm: thiếu
hụt các khóa đào tạo về nhân văn số, khơng có chính sách khuyến khích và thúc đẩy,
62


cơ sở hạ tầng chưa linh hoạt, sự lan tỏa các nỗ lực về nhân văn số chưa được sâu rộng,
sự phối hợp giữa các bên liên quan, thiếu hụt nguồn lực, thiếu sự hỗ trợ từ phía người
đứng đầu đơn vị và các cơ chức năng (Gibson et al., 2015; Posner, 2013; Rockenbach,
2013).
Thành lập một tổ chức về nhân văn số tại Việt Nam cũng là một bước đi mới
trong việc thúc đẩy phát triển nhân văn số. Trung tâm này có thể nằm trong trường đại
học, học viên hoặc là một trung tâm nghiên cứu độc lập cấp quốc gia. Trung tâm có
các nhiệm vụ cơ bản: tạo ra các cơng cụ cho nhà nghiên cứu có thể tổ chức, sử dụng và
khai thác các nguồn học liệu số; cung cấp các hoạt động đào tạo về nhân văn số bao
gồm các khóa học, các bài giảng, các chương trình hội thảo về chủ đề nhân văn số cho
giới học thuật và cộng đồng; Triển khai các nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn dựa
trên công nghệ, tạo lập thế hệ học giả số; tạo lập không gian cho những thực nghiệm
và sáng tạo của nhà khoa học nhân văn; cung cấp các giải pháp về công nghệ cho các

đơn vị nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn; kết nối, hỗ trợ các thư viện trong
việc tham gia phát triển nhân văn số tại Việt Nam; và đề xuất các chính sách liên quan
đến phát triển nhân văn số.
Như đã phân tích ở trên, thư viện đóng vai trị như là nơi khởi nguồn của nhân
văn số. Trong đó với nguồn lực thơng tin và nhân lực của mình các thư viện đã có hai
phần ba yếu tố để triển khai nhân văn số. Việc cịn lại của các thư viện là tìm kiếm và
ứng dụng công nghệ trong việc tổ chức, xử lý và phân tích thơng tin, biến thơng tin
thành số liệu có thể tính tốn, liên kết và kết xuất. Tức là chủ động hợp tác với giới
học thuật để xây dựng các công cụ cần thiết để hỗ trợ nhà nghiên cứu, khai thác thông
tin ở quy mô lớn, đa chiều mà bình thường con người khó có thể thực hiện nếu thiếu
công nghệ hỗ trợ. Thúc đẩy sáng tạo trên cơ sở cung cấp các công cụ và nguồn lực
thơng tin tối ưu chính là cách thức căn bản để thư viện thực hiện vai trò thúc đẩy phát
triển nhân văn số.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Berry D.M. (2012) Introduction: Understanding the Digital Humanities. In:
Berry D.M. (eds) Understanding Digital Humanities. Palgrave Macmillan, London
Brannock, J., Carey, C., & Inman, J. O. (2018). Starting from the Archives.
Digital Humanities, Libraries, and Partnerships, 163–176. doi:10.1016/b978-0-08102023-4.00012-4
Gibson, K., Ladd, M. and Presnell, J. (2015), “Traversing the gap: subject
specialists connecting humanities researchers and digital scholarship centers”, in
Hartsell-Gundy, A., Braunstein, L. and Golomb, L. (Eds), Digital Humanities in the
Library: Challenges and Opportunities for Subject Specialists, Association of College
and Research Libraries, Chicago, IL, pp. 3-17.

63


Gold, M. K. and Klein, L.F. eds (2016) Debates in the Digital Humanities
2016. University of Minnesota Press, Minneapolis. Bản điện tử truy cập tại
/>Honn, J. (2015). A Guide to Digital Humanities: Values Methods. Northwestern

University Library
Keating, J. (2012). The importance of digital humanities. Realising the
Opportunities of Digital Humanities Croke Park Stadium, Dublin. Truy cập tại
/>Klein, L.F & Gold M.K. (2016). Digital humanities: the expanded field. Truy
cập tại />Millson-Martula, C., & Gunn, K. (2017). The digital humanities: Implications
for librarians, libraries, and librarianship. College & Undergraduate Libraries, 24(24), 135–139. doi:10.1080/10691316.2017.1387011
Miller, K., Champion, E., Summers, L., Lugmayr, A., & Clarke, M. (2018). The
Role of Responsive Library Makerspaces in Supporting Informal Learning in the
Digital Humanities. Digital Humanities, Libraries, and Partnerships, 91–105.
doi:10.1016/b978-0-08-102023-4.00007-0
Poole, A. H. (2017) The conceptual ecology of digital humanities. Journal of
Documentation, Vol. 73 No. 1, pp. 91-122
Posner, M. (2013), “No half measures: overcoming common challenges to
doing digital humanities in the library”, Journal of Library Administration, Vol. 53
No. 1, pp. 43-52.
Presner, T. et al. (2009) Humanities Blast. Digital Humanities Manifesto 2.0.
2009. Truy cập tại />Rockenbach, B. (2013), Introduction, Journal of Library Administration, Vol.
53 No. 1, pp. 1-9.
Sabharwal, A. (2015). Archives and special collections in the digital
humanities. Digital Curation in the Digital Humanities, 27–47. doi:10.1016/b978-008-100143-1.00002-7
Sabharwal, A. (2015a). Defining digital curation in the digital humanities
context. Digital Curation in the Digital Humanities, 11–25. doi:10.1016/b978-0-08100143-1.00001-5
Sabharwal, A. (2015c). Information architecture and hypertextuality. Digital
Curation in the Digital Humanities, 69–93. doi:10.1016/b978-0-08-100143-1.00004-0
Showers, B. (2012). Does the library have a role to play in the Digital
Humanities?. Truy cập tại: />64


Schuster, K. M., & Gillis, S. L. (2018). Digital Humanities and Image
Metadata. Digital Humanities, Libraries, and Partnerships, 107–123.

doi:10.1016/b978-0-08-102023-4.00008-2
Schuster, K. M., & Gillis, S. L. (2018). Digital Humanities and Image
Metadata. Digital Humanities, Libraries, and Partnerships, 107–123.
doi:10.1016/b978-0-08-102023-4.00008-2
Sula, C. A. (2013). Digital humanities and libraries: A conceptual model.
Journal of Library Administration, 53(1), 10–26. doi:10.1080/01930826.2013.756680
Susan Schreibman, Ray Siemens, John A Companion to Digital Humanities,
Unsworth. Oxford: Blackwell, 2004.
Taylor, L. N., Bhadury, P., Dale, E., Gill-Sadler, R. K., Rosenberg, L., Keith, B.
W., & Persaud, P. (2018). Digital Humanities as Public Humanities. Digital
Humanities, Libraries, and Partnerships, 31–44. doi:10.1016/b978-0-08-1020234.00003-3
Underwood (2015). Seven ways humanists are using computers to understand
text. Truy cập tại />Webb, K. K. (2018). Digital Humanities Labs. Development of Creative Spaces
in Academic Libraries, 23–27. doi:10.1016/b978-0-08-102266-5.00004-9
Zorich, D. M. (2008) A survey of digital humanities centers in the United
States. Truy cập từ />
65



×