Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Lưu trữ và thư viện số - Nền tảng xây dựng nhân văn số thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.38 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cam Anh Tuấn</b>

<b>1</b>


<b>* </b>

<b><sub>- Đỗ Thu Hiền</sub></b>

<b>**</b>


<i><b>Tóm tắt: Công nghệ thông tin là một trong những động lực quan </b></i>
<i>trọng nhất và là giải pháp hàng đầu cho sự phát triển, góp phần </i>
<i>biến đổi một cách tích cực nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong </i>
<i>đó có hoạt động lưu trữ - thư viện và hoạt động nghiên cứu khoa </i>
<i>học nói chung, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói riêng. </i>
<i>Vai trò và mối liên hệ mật thiết giữa tài liệu lưu trữ và tư liệu với </i>
<i>lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đã được khẳng </i>
<i>định và chứng minh. Nếu tài liệu lưu trữ và tư liệu đóng vai trị là </i>
<i>chất liệu, là “bột” thì các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và </i>
<i>nhân văn là “hồ”. Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ </i>
<i>4.0, hai nhân tố này chắc chắn có những sự ảnh hưởng nhất định. </i>
<i>Bài tham luận này đề cập đến sự tác động của công nghệ số, đặc </i>
<i>biệt là công cụ của Nhân văn số thức đối với mối quan hệ nói trên.</i>
<i><b>Từ khóa: Lưu trữ số; Thư viện số; Nhân văn số thức; Khai thác dữ liệu.</b></i>


<b>1. QUAN NIỆM VỀ LƯU TRỮ, THƯ VIỆN SỐ VÀ NHÂN VĂN SỐ THỨC </b>


<b>(DIGITAL HUMANITIES)</b>



Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, ngành thư viện
và lưu trữ học chịu nhiều tác động khi việc ứng dụng công nghệ thông
tin, trở thành cơ hội nhưng cũng là thách thức. Ngành lưu trữ và thư
viện số xuất hiện một cách tất yếu trước sự phát triển như vũ bão của
công nghệ thông tin và nhu cầu sử dụng tài liệu lưu trữ, tư liệu của xã
*<sub> Tiến sĩ, Khoa Lưu trữ học và Quản trị Văn phòng, Trường Đại học Khoa học </sub>


Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hội ngày một gia tăng. Từ số hóa tài liệu lưu trữ đến tài liệu lưu trữ điện
tử (born-digital archives) là một sự thay đổi lớn, đánh dấu sự xuất hiện
của một dạng thức lưu trữ mới – Lưu trữ số. Sự thay đổi mang tính
cách mạng này của ngành Lưu trữ cùng với sự phát triển trước đó của
Thư viện số đã khiến việc sử dụng tài liệu lưu trữ, tư liệu khơng bị bó
hẹp trong các phịng đọc “vật lý” mà được mở rộng trong một không
gian số rộng lớn vơ cực. Thời gian tra tìm dữ liệu có thể tính bằng giây
mà kết quả đem lại vơ cùng phong phú, đa dạng và toàn diện. Tài liệu
lưu trữ sẽ khơng cịn nằm “lặng im” trong các kho lưu trữ mà sẽ có một
“đời sống sơi động” cùng với vô số nguồn tư liệu khác như một tất yếu.
Sẽ còn quá sớm để khẳng định những điều tích cực đem lại, những
rủi ro tiềm ẩn… nhưng tựu chung lại, lưu trữ số sẽ là bước ngoặt quan
trọng đối với Lưu trữ học và cộng đồng những người làm nghề lưu trữ
không chỉ ở Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới.


Là hệ quả ra đời bởi sự kết hợp giữa những người làm công nghệ
thông tin và các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, Nhân
văn số thức đã xuất hiện và có sự phát triển vượt bậc trong một thập kỷ
gần đây và trở thành “đối tác” quan trọng của nhiều ngành khoa học
như lịch sử, văn học – nghệ thuật, ngôn ngữ, thông tin – thư viện, lưu
trữ… Sự kết hợp giữa Nhân văn số thức và các ngành này đều hướng
tới mục đích nâng cao hiệu quả làm việc của người nghiên cứu trong
bối cảnh công nghệ số chi phối đời sống xã hội một cách căn bản. Nhân
<i>văn số thức (Digital humanities) là thuật ngữ mô tả lĩnh vực liên ngành </i>


<i>nghiên cứu sự tác động và mối quan hệ giữa cơng nghệ máy tính và công việc </i>
<i>của những người nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (Borgan, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nhân văn số thức được coi là công cụ xử lý tất cả các dữ liệu đầu
vào, bao gồm các dữ liệu khoa học, dữ liệu xã hội, dữ liệu pháp lý; dữ


liệu quá khứ, dữ liệu hiện hành…, được thể hiện ở nhiều dạng thức
khác nhau. Đầu ra của Nhân văn số thức sẽ là các kết quả nghiên cứu
phục vụ cho các nhà khoa học xã hội và nhân văn. Bản chất của các
nghiên cứu xã hội và nhân văn là dựa trên kết quả xử lý các dữ liệu đa
dạng để tìm thấy quy luật vận động của xã hội và con người. Trong khi,
khoa học tự nhiên đi tìm các quy luật vận động của tự nhiên. Khoa học
tự nhiên có thể thực nghiệm các giả thuyết nghiên cứu trong phịng
thí nghiệm để tìm ra câu trả lời chính xác cho các sự vật, hiện tượng tự
nhiên. Đối với khoa học xã hội và nhân văn, gần như là không thể tiến
hành các thực nghiệm, do vậy, kết quả nghiên cứu của họ phụ thuộc
vào khối lượng và chất lượng của các dữ liệu thu thập được.


Hình 1: Mối quan hệ của 03 yếu tố: Dữ liệu đầu vào – Nhân văn số thức –
Kết quả nghiên cứu


<b>2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LƯU TRỮ, THƯ VIỆN SỐ VÀ NHÂN VĂN SỐ THỨC</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

hội và nhân văn. Như vậy, Lưu trữ số với nguyên liệu là các loại hình
tài liệu lưu trữ và tư liệu số hố hoặc tài liệu số (born-digital) phong
phú, có độ tin cậy cao, được cấu trúc chặt chẽ, quy chuẩn về mặt dữ
liệu… sẽ đóng vai trị là một trong những nguồn dữ liệu số đầu vào
quan trọng của Nhân văn số thức. Lưu trữ số có thể được đánh giá là
một trong những nguồn dữ liệu đầu vào chất lượng nhất đối với hoạt
động của Nhân văn số thức. Ở một góc tiếp cận khác, nếu xét Nhân
văn số thức là sự tổng hoà giữa công nghệ, kỹ thuật, phần cứng, phần
mềm, các dữ liệu, siêu dữ liệu hay dữ liệu lớn…, thì Lưu trữ số và thư
viện số là hai trong những phân hệ quan trọng của Nhân văn số thức.
Như vậy, Lưu trữ số là một bước tiến quan trọng, cùng với thư viện số
để phát huy giá trị thông tin của tài liệu lưu trữ và tư liệu khác trong
các cơng trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Để làm được


điều này, Lưu trữ và Thư viện số cần được kết nối một cách mạnh mẽ
với Nhân văn số thức.


Tại Hoa Kỳ, sự thành công của dự án Kho lưu trữ Rossetti và The
William Blake Archive (2006) đã đặt Nhân văn số thức đứng trên một
<i>góc độ mới đa chiều hơn. Đồng thời, việc xuất bản cuốn A Companion </i>


<i>to Digital Humanities là một bước ngoặt đối với nghiên cứu Nhân văn </i>


số thức, và đưa Nhân văn số thức trở về với đúng tiềm năng của nó,
khơng chỉ đơn thuần là số hóa tài liệu hay một ngành chỉ hỗ trợ về mặt
máy móc đối với người nghiên cứu. Có thể nói, Nhân văn số thức xuất
phát từ một vị trí thấp, là một công cụ hỗ trợ phục vụ nghiên cứu trở
thành một ngành khoa học với tiềm năng lớn tạo nên cuộc cách mạng
trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn thông qua việc thay đổi
phương thức nghiên cứu của các nhà khoa học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Úc, Pháp… hoặc có thể đơn giản là một tập hợp các dữ liệu có chủ đề cụ
thể dưới dạng số (độc giả có thể truy cập, tiếp cận các dữ liệu dưới nhiều
dạng khác nhau như văn bản, hình ảnh 3D, biểu đồ, bản vẽ liên quan
cùng một chủ đề cụ thể). Với những ứng dụng như vậy, có thể khẳng
định rằng, ưu điểm lớn nhất của Nhân văn số thức khi được áp dụng
trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có lưu trữ học
khoa học thư viện, khơng phải chỉ ở sự thuận lợi trong tìm kiếm, tiếp cận
dữ liệu mà là việc tạo ra mối tương quan trong dữ liệu. Sự tương quan,
liên kết dữ liệu trong một hoặc nhiều kho dữ liệu lớn mà nhân văn số
thức tạo ra đã giúp ngành khoa học mới này có thể mang tính cách mạng
trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.


Theo GS. Paul Arthur, Trưởng khoa Nhân văn số thức và Khoa học


xã hội, Trường Đại học Edith Cowan (Úc), tại các quốc gia phát triển
trên thế giới, ngành Nhân văn số thức thường ra đời sau sự thành cơng
của nhiều dự án số hóa tài liệu, tư liệu ở các ngành, lĩnh vực. Sự ra đời
của Nhân văn số thức là tất yếu sau khi số hóa tài liệu, tư liệu trở nên
phổ biến. Trong lĩnh vực thư viện và lưu trữ, các dự án số hóa sách, tạp
chí và tài liệu lưu trữ đã được triển khai ở Úc và nhiều quốc gia phát
triển khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

điểm mà số lượng tài liệu liên quan đến Đài Loan tăng rất nhiều. Các
điểm thuộc đồ thị phản ánh những năm số lượng tài liệu tăng, giảm
hoặc thậm chí khơng có Sắc lệnh nào được ban hành. Điều này sẽ phản
ánh sự kiện nào đó liên quan đến bối cảnh lịch sử Đài Loan. Nếu tra
cứu tư liệu lịch sử, chúng ta sẽ nhận thấy sự kiện Pháp xâm lược miền
Bắc Đài Loan năm 1844 và cuộc chiến tranh Trung – Pháp, tương ứng
với các mốc thời gian khơng có dữ liệu thể hiện trên đồ thị, đồng nghĩa
với việc khơng có tài liệu, tư liệu được lưu trữ ở giai đoạn này.


Một ví dụ khác minh chứng cho tính ưu việt của cơng cụ Nhân
văn số thức trong hai dự án đề cập ở trên là trải nghiệm tra cứu từ “bạc”
xuất hiện trong các giao dịch trao đổi đất đai được thực hiện bởi các
chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Nhân văn số thức thuộc Đại
học Quốc gia Đài Loan. Cơng cụ máy tính có thể truy xuất hơn 20.000
từ “bạc” có các từ đứng kèm trước. Trong đó, 9.127 từ “Phật bạc” xuất
hiện và nghiên cứu sâu hơn đã cho thấy những tài liệu lưu trữ này
đều có nội dung đề cập tới bạc Mexico. Điều này phản ánh bạc Mexico
được dùng nhiều trong các giao dịch đất đai ở Đài Loan vào cuối triều
Thanh. Các chuyên gia Nhân văn số thức và công nghệ thông tin thuộc
Trung tâm đã trao đổi với các nhà sử học có thẩm quyền nghiên cứu các
<b>vấn đề Đài Loan vào thời kỳ nhà Thanh, đặc biệt là lịch sử kinh tế. Kết </b>
quả cho thấy, dựa trên kết quả trực quan hóa dữ liệu, các chuyên gia


thuộc Trung tâm đã nhận xét chính xác tình hình trong khi một trong
số các nhà sử học nói trên thừa nhận rằng có thể kết luận về điều này
sau khoảng 10 năm nghiên cứu. [1]


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tài liệu… (siêu dữ liệu). Tuy nhiên, những cơng nghệ này cần phải làm
cho chúng thích hợp với các dữ liệu định tính mà các học giả nhân văn
thường sử dụng cho phân tích, giải thích và trình bày. [3]


Trên đây là một số dự án về Lưu trữ số và Nhân văn số thức của một
số quốc gia trên thế giới. Qua các ví dụ này, chúng tơi khẳng định về vai
trị của Lưu trữ, Thư viện số đối với việc xây dựng các dự án Nhân văn
số thức ở Việt Nam. Cùng với sự khởi động của dự án Hệ tri thức Việt số
hoá ngày 01 tháng 01 năm 2018 là việc Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định 458/QĐ-TTG ngày 03 tháng 4 năm 2020 phê duyệt Đề án
“Lưu trữ tài liệu điện tử của các cơ quan nhà nước giai đoạn 2020-2025”.
Những đề án nói trên chính là cơ sở pháp lý quan trọng trong lộ trình
xây dựng Lưu trữ, Thư viện số và Nhân văn số thức ở Việt Nam. Chúng
tôi hi vọng tham luận đã gợi ý được cho các nhà quản lý, những người
làm lưu trữ, thư viện về trách nhiệm của mình trước một nền tri thức số
mới sẽ trở thành hiện thực ở Việt Nam trong tương lai.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>



<i>1. Jieh Hsiang (2017), “Xây dựng hệ thống lưu trữ cho Nhân văn số thức”, Kỷ </i>


<i>yếu Hội thảo khoa học quốc tế Digital Humanities, Viện Hàn lâm Khoa học và </i>


Công nghệ Việt Nam.


<i>2. Paul Arthur (2017), “Nhân văn số thức ở Australia và thế giới”, Kỷ yếu Hội </i>



<i>thảo khoa học quốc tế Digital Humanities, Viện Hàn lâm Khoa học và Công </i>


nghệ Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8></div>

<!--links-->

×