Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

tiểu luận triết học Maclenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.24 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
⸻⸻⸻⸻⸻⸻

Học phần: Triết học Mác – Lênin
Đề tài 2: Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về
“Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến’’ hãy phân tích những ảnh hưởng của Covid 19 đối với sinh viên và nêu ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và
rèn luyện của sinh viên trường Đại học Đại Nam hiện nay.

Sinh viên thực hiện

:

Bùi Tuyết Mai

Mã sinh viên

:

1577020157

Lớp

:

TT 15-04

Hà Nội, ngày 23 tháng 4 năm 2022


Mục lục


LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài, sự cần thiết và tính thời sự của vấn đề. ............................. 2
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ....................................................... 3
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .............................................................. 4
NỘI DUNG ................................................................................................................... 4
Phần 1. Phần lý luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến...................................... 4
1.1 Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến ............................................... 4
1.2 Tính chất của các mối liên hệ ....................................................................... 5
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận ........................................................................... 7
Phần II: Liên hệ thực tế và liên hệ bản thân. ....................................................... 9
2.1 Tổng quan về đại dịch Covid-19................................................................... 9
2.2 Vận dụng quan điểm tồn diện để phân tích ảnh hưởng của đại dịch
Covid- 19 đến nền giáo dục Việt Nam hiện nay. ............................................. 10
2.3 Biện pháp khắc phục những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến nền
giáo dục Việt Nam.............................................................................................. 14
2.4 Liên hệ bản thân sinh viên Đại học Đại Nam............................................ 15
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 17
Tài liệu tiếng Việt................................................................................................... 17
Tài liệu trực tuyến ................................................................................................. 17


2

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, sự cần thiết và tính thời sự của vấn đề.
Như đã biết, nước Việt Nam đã trải qua 4000 năm lịch sử, bắt đầu từ thời kỳ
Văn Lang cho đến nay ta có thể tóm gọn trong bốn giai đoạn. Giai đoạn một hay
giai đoạn Văn Lang – Âu Lạc. Giai đoạn hai là thời kì bắc thuộc; giai đoạn ba : nổi
bật ở thời kì này là các cuộc chiến tranh với các nước láng giềng, kéo dài cho đến

năm 1858. Giai đoạn bốn, từ năm 1858 khi Pháp chính thức tiến hành xâm lược cho
đến nay. Trải qua hàng ngàn năm văn hiến, với những cuộc xâm lược, những chiến
tích vang dội trong lịch sử, con người Việt Nam đã đang và sẽ tiếp bước ông cha ta
xây dựng một đất nước hịa bình ổn định và ngày càng phát triển. Ngay ở thời điểm
hiện tại, vấn đề độc lập chủ quyền đã được giải quyết, cái ăn cái mặc đã khơng cịn
đè nặng lên con người như những năm 1945 khiến gần hai triệu đồng bào chết đói,
có thể nói đất nước Việt Nam đã dần ổn định và đang trên quá trình phát triển để
sánh vai với bạn bè năm châu. Như chúng ta có thể thấy sự phát triển của xã hội kéo
theo nền kinh tế cũng có sự thay đổi nhanh chóng. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu, ơ nhiễm mơi trường, cải thiện đời sống,... thì sức khỏe của
người dân cũng là một vấn đề được nhà nước chú trọng. Hai năm trở lại đây, một
vấn đề mới được đặt ra vơ cùng cấp bách, nó được ví khơng khác gì một trận chiến
và cần tất cả người dân cùng nhau chung tay chiến đấu, đó chính là “ “Đại dịch
Covid-19”- một đề tài mà đã suốt hai năm nay, khi bật kênh thời sự thì khơng ngày
nào chúng ta khơng thấy nhắc đến.
Nó ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới khơng riêng gì Việt Nam. Tính
đến nay số người chết vì bệnh Covid- 19 trên thế giới đã lên tới con số hàng triệu
và con số ấy vẫn tiếp tục tăng theo từng ngày. Còn ở Việt Nam số người mắc bệnh
là 1,65 triệu người, số ca tử vong là 31.214 người. Dựa vào số người mắc bệnh và
số người tử vong chúng ta cũng có thể thấy sự nghiêm trọng của covid - 19. Từ khi


3
đại dịch covid-19 xảy ra, cái ta nhìn thấy rõ nhất đó chính là nó tác động trực tiếp
vào người bệnh, làm người bệnh có các triệu chứng như ho, sốt, khó thở, đau ngực,...
nghiêm trọng hơn là dẫn đến tử vong. Không chỉ vậy, Covid-19 cũng tác động trực
tiếp đến nền kinh tế nước nhà gây ra những tổn thất nặng nề như hàng chục các
doanh nghiệp đã ngưng sản xuất kinh doanh, quy mô và tăng trưởng kinh tế của
năm 2022 bị chậm hai năm so với kế hoạch. Mặc dù đến nay nhà nước đã có những
biện pháp can thiệp kịp thời để đối phó với đại dịch nhưng nhìn chung “ Covid-19”

vẫn là một vấn đề có tính thời sự và cần được tất cả mọi người đặc biệt quan tâm
đến. Chính vì tính nghiêm trọng cũng như sự phổ biến mà em đã chọn đề tài
“ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và vận dụng quan điểm tịan diện để phân
tích những ảnh hưởng của đại dịch covid 19 đối với giáo dục ở Việt Nam hiện
nay”
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài: nắm được những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Việc nghiên cứu đề tài giúp
chúng ta có thêm điều kiện cũng như giúp bản thân củng cố được thêm nhiều kiến
thức về Triết học mà mình chưa rõ và chưa biết đến. Bên cạnh đó việc nghiên cứu
đề tài cịn giúp chúng ta thấy được mối liên hệ giữa Triết học và Xã hội thông qua
nội dung của bài và từ đó vận dụng quan điểm tồn diện để phân tích làm rõ những
ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến nền giáo dục của Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên đề tài cần giải quyết được những nhiệm vụ
sau: Tập trung đi vào giải quyết những vấn đề chính là trình bày ngun lý về mối
liên hệ phổ biến và cuối cùng là vận dụng quan điểm tồn diện để phân tích những
ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến nền giáo dục của Việt Nam. Từ đó có thể đưa
ra đánh giá, đề xuất, kiến nghị giải pháp khắc phục những mặt tiêu cực nhằm thúc
đẩy nó theo chiều hướng phát triển một cách tốt nhất có thể.


4
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Giải quyết được những vấn đề lý luận nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến.
Ý nghĩa thực tế: những nghiên cứu trên góp phần vận dụng quan điểm tồn
diện để phân tích những ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đối với giáo dục ở Việt
Nam hiện nay để đưa ra một vài kiến nghị cũng như cách giải
quyết để giúp nền giáo dục đạt được hiệu quả giảng dạy một cách tốt nhất.
NỘI DUNG

Phần 1. Phần lý luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
1.1 Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương
hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau. “ Liên hệ” là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự
thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Ngược lại,
“ cô lập” ( tách rời) là trạng thái của các đối tượng khi sự thay đổi của đối tượng
này không ảnh hưởng đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi. Điều này
khơng có nghĩa là một số đối tượng ln liên hệ, cịn những đối tượng khác chỉ cơ
lập. Trong các trường hợp liên hệ xét ở trên vẫn có sự cô lập, cũng như ở các trường
hợp cô lập vẫn có mối liên hệ qua lại. Mọi đối tượng đều trong trạng thái vừa cô lập
vừa liên hệ với nhau. Liên hệ và cô lập thống nhất với nhau mà ví dụ điển hình là
quan hệ giữa cơ
thể sống và môi trường.
“ Mối liên hệ phổ biến” dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là
những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng


5
nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và
chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,… Như
vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù,
vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng
tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự
thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những
mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và
ngược lại, tinh đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên,
xã hội và tư duy.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau, tác động qua lại,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật,
hiện tượng trong thế giới. Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện
tượng, quá trình trong thực tế đều tác động đến nhau. Khơng có sự vật, hiện tượng
nào tách biệt hồn toan với sự vật, hiện tượng khác.
Thực tế cho thấy trong cơ thể con người, các bộ phận đều liên kết và có mối
liên hệ với nhau. Tim bơm máu đi khắp cơ thể để nuôi sống các bộ phận khác cho
cơ thể, phổi cung cấp khí oxi để giúp q trình tạo máu và bộ não để điều khiển
các cơ quan làm việc.
1.2 Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những
tính chất cơ bản của các mối liên hệ.
Thứ nhất, tính khách quan của các mối liên hệ.
Theo quan điểm của biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động


6
và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng là cái vốn có của nó, tồn tại
độc lập khơng phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức
và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ như cây hoa hồng để tồn tại trong môi trường cần nhiều yếu tố như đất,
nước, ánh sáng, độ ẩm,….Đó là những yếu tố vốn có, khơng phải do con người tạo
ra mà con người chỉ nhận thức khi thấy sâu bệnh và sau đó dùng các chất hóa học
hoặc chuyển sang mơ hình nhà kính để giảm sâu bệnh, tăng năng suất.
Thứ hai, tính phổ biến của các mối liên hệ.
Theo quan điểm biện chứng thì khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay q
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay q trình khác.
Đồng thời, cũng khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc

hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó,
tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Điều này thể hiện rõ ngay trong chính cuộc sống như các hình thái kinh tế nó
tồn tại thành một hệ thống đầu tiên là Cơng xã nguyên thủy sau đó đến Chiếm hữu
nộ lệ, Phong kiến và cuối cùng là Chủ nghĩa cộng sản.
Cuối cùng, tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ
vị trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một
mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trị khác nhau. Như vậy, khơng
thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trị cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với


7
mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối
liên hệ bên trong và bên ngòai, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ
yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gian tiếp,v,v của mọi sự vật hiện tượng trong
thế giới.
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên
hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều
kiện khơng gian và thời gian cụ thể.
Ví dụ như trong lớp học mối liên hệ chủ yếu là thầy trò, bạn bè nhưng khi
chúng ta về nhà thì gia đình là mối liên hệ chủ yếu còn mối liên hệ thầy
trò chỉ là thứ yếu.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong

hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khai
quát thành “ nguyên tắc toàn diện” với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động
nhận thức và thực tiễn sau:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh
thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tinh, các mối
liên hệ của chỉnh thể đó; “cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất
cả các mối liên hệ và “quan điểm gian tiếp” của sự vật đó”, tức là trong chỉnh thể
thống nhất của “tổng hịa những quan hệ mn vẻ của
sự vật ấy với những sự vật khác”.
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối
tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy,


8
nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc
tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và
với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gian tiếp;
trong không gian, thời gian nhất định, tức là cần nghiên cứu cả những mối liê hệ
của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phân đoan tương lai.
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ
thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét
dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện
( đanh trao các mối liên hệ cơ bản thanh không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa
chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối
liên hệ phổ biến)
V.I.Lênin cho rằng: “ Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “ quan hệ gián tiếp” của sự
vật đó”

Ví dụ như trong việc kết nạp Đảng cho một sinh viên thì chúng ta cần xét trên
nhiều khía cạnh khác nhau. Về các mặt cấu thành: các phòng ban trong một đơn vj,
các thành viên chủ chốt của đơn vị đó,… Hay quá trinh phát
triển: xét quá trinh hoạt động, công tác cá nhân để kết nạp,…
“Quan điểm lịch sử - cụ thể” yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tinh
huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối
tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác
định rõ vị trí, vai trị khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể để từ đó có được những
giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy,


9
trong nhận thức và thực tiễn không cần phải tranh và khắc phục quan điểm phiến
diện, siêu hình mà cịn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Phần II: Liên hệ thực tế và liên hệ bản thân.
Để vận dụng được quan điểm tồn diện phân tích ảnh hưởng của đại dịch
covid-19 đến nền giáo dục Việt Nam đầu tiên chúng ta cần hiểu được covid-19 là
gì, thực trạng covid-19 hiện nay để từ đó đi sâu vào phân tích những ảnh hưởng của
đại dịch Covid-19 gây ra đối với nền giáo dục của Việt Nam và cuối cùng là đưa ra
các giải pháp giúp cho nền giáo dục Việt Nam đạt được hiệu quả giảng dạy một
cách tốt nhất.
2.1 Tổng quan về đại dịch Covid-19
a)

Khái niệm, triệu chứng và mức độ ảnh hưởng của covid-19

Covid-19 ( bệnh vi- rút corona 2019) là một bệnh do vi-rút có tên SARSCoV-2 gây ra và được phát hiện vào tháng 13 năm 2019 ở Vũ Hán,
Trung Quốc. Căn bệnh này rất dễ lây lan và đã nhanh chóng lan ra khắp Thế Giới.
Coronavirus 2019 (2019-nCoV) là virus đường hô hấp mới gây bệnh viêm đường
hô hấp cấp ở người và có thể lây lan từ người sang người.

Covid-9 thường gây ra các triệu chứng về hơ hấp, có những dấu hiệu như cảm
lạnh, cúm hoặc viêm phổi. Các triệu chứng có thể xuất hiện từ 2 đến 14 ngày sau
khi phơi nhiễm với vi- rút. Những người có các triệu chứng như sốt hoặc ớn lạnh,
ho, mệt mỏi, đau cơ hoặc đau người, mới mất vị giác hoặc khứu giác, …có thể
nhiễm Covid-19.
Covid-19 gây ra rất nhiều hậu quả nhưng không thể không kể đến việc ảnh
hưởng trực tiếp đó là sức khỏe của chúng ta. Đầu tiên, về mặt thể chất, nó khiến bản
thân chúng ta cảm thấy mệt mỏi, căng cơ, lúc nào cũng trong trạng thái bồn chồn,
đứng ngồi không yên, tim đập nhanh và cơ thể bị đau, nhức,….. Tiếp đến là về mặt


10
nhận thức, nó phần nào khiến bản thân ta suy giảm, gặp khó khăn trong việc đưa ra
những quyết định quan trọng, khó khăn trong việc định hướng, chọn lọc. Bên cạnh
đó , covid-19 cịn tác động đến mặt cảm xúc đó chính là cảm thấy lo sợ về tình trạng
sức khỏe của chính mình, lúc nào cũng trong trạng thái sợ bị phơi nhiễm. Hay chính
những người đã bị nhiễm bệnh họ cảm thấy tuyệt vọng, buồn chán và bức bối khi
không được thực hiện công việc như hàng ngày, cảm giác bị sợ sệt, bị mọi người xa
lánh khi bị nhiễm. Khơng những thế, Covid 19 cịn gây ra những mất mát đau
thương cho sự ra đi của người thân để lại nhiều nỗi đau cho người ở lại,….
b)

Tình hình covid-19 hiện nay

Theo nguồn VNEXPRESS tính đến 16h47 ngày 27/12/2021 tổng cộng trên
Thế giới có 280.378.747 ca nhiễm trong đó số ca tử vong là 5.418.468 và số ca khỏi
là 250.487.180 ca. Các quốc gia có số ca mắc và tử vong nhiều nhất là Mỹ, Ấn Độ
và Brazil.
Ở nước ta theo Cổng thông tin của bộ y tế về đại dịch Covid-19 tính đến
18h09 ngày 26/12/2021 tổng là có 1.651.673 ca nhiễm trong đó tính riêng từ 16h

ngày 25/12 đến 16h ngày 26/12, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh Covid-19
ghi nhận 15.218 ca nhiễm mới. Đứng đầu về số ca mắc là Hà Nội với 1.910 ca.
Như chúng ta có thể thấy tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn ra trên Thế Giới
hay chính Việt Nam ngày càng diễn ra vô cùng phức tạp.
2.2 Vận dụng quan điểm tồn diện để phân tích ảnh hưởng của đại dịch
Covid- 19 đến nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Đầu tiên, chúng ta cần xem xét vấn đề trên phương diện bao qt, theo như
thơng tin tìm hiểu thì Hà Nội ngày 22/9/2021. Kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng
chậm hơn do sự bùng phát trở lại của dịch Covid-19, đại dịch đã làm gián đoạn
nguồn lao động, giảm sản lượng công nghiệp và gây đứt gãy chuỗi giá trị nông
nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của nước ta.


11
Chúng ta khơng thể ngờ được đại dịch có thể ảnh hưởng sâu rộng đến mọi
mặt đời sống xã hội đến vậy!. Song song với những thiệt hại về mặt kinh tế- xã hội
là những ảnh hưởng nặng nề đến nền giáo dục Việt Nam. Covid- 19 đã ảnh hưởng
rất nhiều đến cuộc sống của người dân Việt Nam trong đó phải kể đến đó là thế hệ
trẻ- những mầm non tương lai của đất nước trong việc học tập, rèn luyện và tiếp thu
những kiến thức để tiếp thêm hành trang vào đời. Cụ thể đại dịch covid-19 ảnh
hưởng đến nền giáo dục Việt Nam như sau:
a) Tác động tích cực.
Chúng ta khơng thể phủ nhận những năm gần đây, Giáo dục đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Giáo dục Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế như
cải thiện vị trí xếp hạng các trường đại học trong bẳng xếp hạng khu vực và quốc
tế. Những thách thức của Covid-19 đối với nền Giáo dục, cũng có thể coi đây là cú
hích để chúng ta thay đổi tư duy quản lý, phát huy sự sáng tạo trong mỗi cá nhân,
gia đình, nhà trường và tồn nền Giáo dục trong việc thích ứng hồn cảnh.
b) Tác động tiêu cực.
Tác động tích cực chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong nền Giáo dục Việt Nam.

Bên cạnh đó, chiếm phần lớn là tác động tiêu cực. Đại dịch Covid-19 khiến cho nền
Giáo dục Việt Nam khó đạt được mục tiêu phát triển tòan diện của con người về
mặt thể chết, tư duy và tinh thần.
Đầu tiên, dịch bệnh covid-19 tác động trực tiếp đến nền giáo dục Việt Nam
đó là chất lượng giảng dạy không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Việc dịch bệnh covid-19 ngày càng diễn ra phức tạp với số ca mắc ngày càng
gia tăng khiến cho các trường từ mầm non đến đại học đều phải đóng cửa và chuyển
sang học bằng hình thức giáo dục trực tuyến. Việc học trực tuyến chưa kể đến chất
lượng giảng dạy cũng như tiếp thu mà chỉ xét trên phương diện kinh tế thì việc học
trực tuyến làm tăng chi phí giáo dục lên rất nhiều, chúng ta cần phải có đủ các thiết


12
bị phục vụ cho quá trình học tập như máy tính, loa,… ít nhất cũng từ 10 triệu đồng
trở lên. Sự xáo trộn từ việc học trực tiếp sang học online đã làm gián đọan cuộc
sống của sinh viên trên cả nước đặc biệt là học sinh, sinh viên thuộc nhóm dân tộc
thiểu số. Họ khơng chỉ chịu những khó khăn về mặt kinh tế mà họ còn phải đối mặt
về mặt đường truyền kết nối internet không ổn định nên việc học trực tuyến đối với
họ như trở thành một thách thức khiến bản thân họ suy sụp tinh thần. Ở góc độ khác,
việc chuyển sang dạy trực tuyến khiến cho phí giáo dục tăng lên đáng kể. Chương
trình đào tạo của ngành bị xáo trộn, việc thiết kế và xây dựng chương trình trở lên
khó khăn.
Tiếp đến, covid-19 ảnh hưởng đến chất lượng học tập, tư duy và thi cử. Đầu
tiên phải kể ngay đến trẻ em 5 tuổi, việc chuẩn bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để
sẵn sàng bước sang lớp 1 còn hạn chế. Việc học trực tuyến đối với các em diễn ra
rất khó khăn thực hiện trong thực tế, chưa thực sự phù hợp với lứa tuổi này vì đây
là độ tuổi các em được tiếp cận với chương trình kiến thức hồn tồn mới mà chỉ
có học trực tiếp mới có thể đảm bảo một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, việc đánh giá
và thi cử gặp nhiều khó khăn. Nhiều cơ sở giáo dục phải vật lộn với những lựa chọn
khó khăn về đánh giá chất lượng học sinh thông qua trực tuyến và nguy cơ gian lận

ngày càng gia tăng. Việc học trực tuyến khơng đánh giá được chính xác năng lực
của học sinh, sinh viên ảnh hưởng đến chất lượng sau này. Không chỉ vậy, hiện
tượng học tập giảm sút, sinh viên rớt môn ngày càng gia tăng, học chỉ mang tính
chống đối, vừa học vừa lướt web diễn ra ngày càng phổ biến. Nhiều sinh viên hình
thành trạng thái chán nản và muốn bỏ học. Không những thế, các trường đại học
cịn gặp khó khăn trong họat động tư vấn, hướng nghiệp trực tiếp tại địa phương
hay chính các trường phổ thông hầu như không được thực hiện. Thực tế cho ta thấy
rõ trong 2 năm gần đây việc học trực tuyến làm cho chất lượng học tập bị giảm
xuống đáng kể dẫn đến hiện tượng “lạm phát điểm” chuẩn đại học. Đề đại học ra


13
khá dễ do với các năm trước cùng với một lượng kiến thức được lược bỏ đã khiến
cho việc điểm chuẩn tăng cao, chất lượng học sinh không được phân hóa rõ, nhất là
giữa giỏi và khá giỏi.
Khơng thể khơng kể đến đó là việc học đi đơi với hành. Học trên lý thuyết
chỉ chiếm một phần mà thay vào đó chúng ta được trải nghiệm, được thực hành vì
chỉ có thế học sinh, sinh viên mới phát huy được tính chủ động sáng tạo, biến lý
thuyết thành kỹ năng thực hành, nhờ thực hành mà hiểu sâu vấn đề. Nhưng mặt khác
việc dịch bệnh đã ảnh hưởng hay cũng gần như khiến cho việc thực hành trở thành
con số không. Việc này ảnh hưởng nặng nề đối với sinh viên học chuyên ngành về
kỹ thuật, công an và ngành y học,… vì thực hành là yếu tố chính trong chương trình
đạo tạo của họ gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp nhận kiến thức của sinh viên.
Thứ hai, covid-19 không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng sinh viên mà
còn ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Theo như trang báo tin tức Việt Nam đưa tin thì Ủy ban Văn hóa, giáo dục
của Quốc hội đánh giá, chất lượng đào tạo nghề nghiệp bị ảnh hưởng do thời gian
thực hành, thực tập tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh không thể theo kế
hoạch, nhất là đối với các chương trình chuyển giao đào tạo nghề chất lượng cao
đang thí điểm hiện tại. Nhiều chương trình, kế hoạch hoạt động chuyên môn bị hõan

như học quân sự chung,….Mặt khác, việc học trực tuyến vốn chỉ là biện pháp tạm
thời nên chỉ đáp ứng được phần nào nội dung của môn học lý thuyết, nội dung thực
hành ngành nghề vốn là u cầu chính trong chương trình đào tạo của giáo dục nghề
nghiệp không thể thực
hiện được nhất là đối với các môn như giáo dục thể chất, kĩ thuật,…
Cuối cùng, đại dịch covid-19 đã ảnh hưởng đến nền giáo dục Việt Nam là
khiến cho nhiều giáo viên rơi vào cảnh thất nghiệp.


14
Việc chuyển sang học trực tuyến làm cho nhiều cán bộ, giảng viên hoặc các
nhiên viên, người lao động tại các cơ sở giáo dục phải giảm giờ làm, phải nghỉ
việc. Đặc biệt, các cơ sở giáo dục mầm non tư thục thiếu kinh phí để trả cho giáo
viên, việc duy trì hoạt động dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ bị đóng cửa.
2.3 Biện pháp khắc phục những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến nền
giáo dục Việt Nam.
Ảnh hưởng của COVID-19 đến nền giáo dục ngày càng một nghiêm
trọng. Chính vì vậy, nước ta cần có những biện pháp thiết thực để có thể giảm đi tối
đa những điều khơng mong muốn.
Đầu tiên, dựa trên quan điểm tịan diện, để khắc phục những ảnh hưởng trước
mắt chúng ta cần có những biện pháp phịng chống dịch một cách tốt nhất bằng cách
thực hiện “ thông điệp 5K” của bộ y tế. Đặt sức khỏe lên hàng đầu.
Tiếp đến, là về chất lượng giảng dạy để đảm bảo về mặt tư duy, thể chất cũng
như thi cử.
Để chất lượng giảng dạy đạt được hiệu quả một cách tốt nhất đầu tiên chúng
ta cần có đủ thiết bị học tập. Nhà nước có thể đưa ra một số chính sách như hỗ trợ
tài chính đối với hộ nhà nghèo, cận nghèo và vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần tìm cách để nâng cao năng lực kết nối và giáo dục trực tuyến bằng
cách tăng cường kết nối internet cho các cơ sở giáo dục đại học và sinh viên.
Để đánh giá chất lượng học tập và thi cử mang tính cơng bằng, chuẩn xác nhà

trường nên thay đổi quy chế thi thay vì làm trắc nghiệm trên các web thì có thể kiểm
tra kiến thức kết hợp với hình thức vấn đáp,….Đối với việc sinh viên học chống đối,
chán nản thì Nhà trường nên linh hoạt trong chương trình giảng dạy: đưa nhiều hình
thức học mới mẻ như trả lời câu hỏi qua trị chơi “rung chng vàng” vừa khiến cho
sinh viên cảm thấy thích thú trong


15
việc học vừa nâng cao được điểm số.
Thứ ba, về nguồn lực được đảm bảo như trước thay vì được tập huấn trực
tiếp thì thay bằng hình thức tập huấn tại nhà qua hình thức Zoom metting đồng thời
mọi người phải có ý thức tự giác tập luyện, tìm tịi, học hỏi qua các trang web để
trau dồi thêm kinh nghiệm.
Cuối cùng, để hạn chế việc thừa, thiếu giáo viên theo đề xuất của Bộ Giáo
dục và Đào tạo thì thực hiện rà sốt kỹ cơ chế, chính sách phân bổ biên chế sao cho
phù hợp, hiệu quả và ưu tiên những khu vực khó khăn như cùng sâu, vùng xa.
2.4 Liên hệ bản thân sinh viên Đại học Đại Nam
Là sinh viên của Đại học Đại Nam, bản thân em đã có một số biện pháp giúp
việc học tập tích cực hơn trong đại dịch. Trước hết, chúng ta phải chuẩn bị một tâm
thế học tập một cách nghiêm túc. Việc học tập online tại nhà trong một môi trường
thối mái khơng có giáo viên giám sát như khi học trực tiếp thì rất nhiều học viên
sẽ chán nản, khơng có hứng thú hay bị hấp dẫn bởi những thú vui khác. Chính vì
vậy mà việc tập trung học tập là một điều rất khó. Để tập trung nghe giảng dạy
online trước hết học viên nên chuẩn bị một góc học tập yên tĩnh và đầy đủ ánh sáng
tránh những nơi quá ồn ào làm ảnh hưởng đến chất lượng bài giảng. Sự tự giác và
ý thức bản thân là yếu tố quan trọng nhất nên chính sinh viên phải tự chủ trong ý
thức của mình tránh việc lơ là, không tập trung làm hiệu quả của việc học giảm sút.
Sinh viên hãy tự tạo cảm hứng cho việc học của mình bằng cách tích cực phát biểu
sơi nổi hơn trong tiết học, thảo luận và giao tiếp tương tác với mọi người để không
bị nhàm chán. Môt trong những hạn chế của việc học online đó chính là sinh viên

phải ngồi đối diện với màn hình máy tính hay điện thoại trong một khoảng thời gian
dài nên không tránh khỏi việc đau, mỏi mắt. Chính vì vậy, sau những giờ học căng
thẳng sinh viên nên cho mình thời gian để nghỉ ngơi cũng như để mắt thư giãn. Chế
độ ăn và chế độ tập luyện cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân ở hiệu suất học tập


16
cũng như sự tập trung. Do đó, sinh viên cần có chế độ ăn đảm bảo và chăm chỉ tập
thể dục để tăng sức đề kháng cũng như sức khỏe của chính mình. Việc có một sức
khỏe tốt giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn rất nhiều. Dù học online hay học
trực tiếp thì chính ý thức của học viên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
học tập. Để học tập tích cực hơn thì chính bản thân học viên hãy tạo cho mình niềm
hứng thú trong việc học.
KẾT LUẬN
Vấn đề Covid-19 đến nay vẫn luôn là vấn đề được mọi người quan tâm hàng
đầu. Do đó, thơng qua nội dung ngun lý về mối liên hệ phổ biến và vận dụng quan
điểm toàn diện để xem xét sự vật, hiện tượng trong sự tác động qua lại lẫn nhau.
Như vậy, với đề tài này, với nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm
tịan diện giúp chúng ta phân tích được những ảnh hưởng của đại dịch covid-19 đến
nền Giáo dục Việt Nam hiện nay, từ đó thấy được những đề xuất giải pháp của Nhà
nước góp phần làm cho nền Giáo dục Việt Nam đạt được hiệu quả như mong muốn.
Để kết hợp cùng các chính sách của nhà nước, bản thân em đề xuất một vài
giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của mọi người về mức độ nguy hiểm của
covid-19 đến sức khỏe của chúng ta, từ đó thực hiện đúng theo “ thơng điệp 5K”
của bộ y tế.
Thứ hai, kết hợp với đó chúng ta cần tăng cường tập luyện, nâng cao
sức khỏe để thực hiện việc chống lại đại dịch.
Thứ ba, cân bằng giữa vui chơi, nghỉ ngơi và học tập, có cuộc sống lành
mạng. Tự giác trong việc học tập, tìm tịi, phát huy tốt nhất có thể khả

năng vận dụng lý thuyết vào thực hành tại nhà.


17
Tóm lại, những việc làm trên đều hướng tới một mục đích “học thật, thi thật
và nhân tài thật”, giúp cho nền Giáo dục Việt Nam đạt được hiệu quả như mong
muốn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
[1]. Bộ Giáo dục và đào tạo (2018), Giáo trinh “ Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác- Lenin”, Nxb Chính trị Quốc gia.
Tài liệu trực tuyến
[2]. ADB, (22/9/2021), “Kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại do dịch
covid-19 kéo dài, song ADB lạc quan về triển vọng trung và dài hạn của kinh tế Việt
Nam”. Truy cập ngày 29/12/2021 tại:
/>[3]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình “ Triết học MácLênin” ( Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị
Quốc gia.

Truy cập

ngày 25/12/2021 tại:

/>[4]. Bộ Y tế (26/12/2021) “Cổng thông tin của bộ Y tế của Đại dịch Covid19”, />[5]. Báo tin tức (3/11/2021) “Covid-19 tác động tiêu cực như thế nào đến
Giáo dục

Việt Nam”.

Truy cập

ngày 29/12/2021 tại:


/>
nao-dengiao-

duc-viet-nam-20211103104757588.htm
[6]. TTXVN, (4/9/2021), “ Triển khai các giải pháp tổ chức dạy học an tịan,
ứng

phó

với

đại

dịch

Covid-19”.

Truy

cập

ngày

29/12/2021

tại: />

18
[7]. VNEXPRESS (26/12/2021) “ Covid-19 trên Thế Giới”. Truy cập ngày

26/12/2021 tại : />


×