Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

định canh, định cư với xoá đói giảm nghèo ở hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.31 KB, 90 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Định canh định c là một yêu cầu cấp thiết trong chiến lợc phát triển
không những của Việt Nam mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhận
thức rõ vai trò của định canh định c đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã
hội và xoá đói giảm nghèo ở nớc ta, Đảng và Nhà nớc đã sớm đề ra và thực
hiện chủ trơng, chính sách định canh định c.
Gần nửa thế kỷ qua, kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 38/CP
về định canh định c vào năm 1968, công tác định canh định c đã đạt đợc
những kết quả quan trọng, góp phần tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc
thiểu số, vùng cao ổn định nơi ăn, chốn ở, ổn định địa bàn canh tác, sản xuất
nông nghiệp gắn với bảo vệ rừng, quy hoạch dân c, bảo vệ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên vì sự ổn định về kinh tế - xã hội và phát triển bền vững của
các vùng và quốc gia. Thông qua công tác định canh định c, đồng bào các dân
tộc đợc tiếp cận và tham gia vào phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, cải
thiện và từng bớc nâng cao đời sống của mình.
Hà Giang là một tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc của Tổ quốc, với 22
dân tộc anh em trong đó chủ yếu là dân tộc thiểu số nh: Mông 30% (dân số
toàn tỉnh), Tày 25%, Dao 15%, Nùng 9% không những thế do địa hình phức
tạp bị chia cắt, độ dốc lớn, miền núi cao, khí hậu khắc nghiệt. Toàn tỉnh có
195 xã, phờng, thị trấn nhng trong đó có tới 115 xã thuộc diện xã đặc biệt khó
khăn theo phân loại của Uỷ ban dân tộc miền núi, tỷ lệ đói nghèo của xã cao
nhất là 86,3%. Chính vì thế đến nay một bộ phận không nhỏ dân c của tỉnh
còn sống trong tình trạng định canh định c cha bền vững, trình độ phát triển
kinh tế thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đặc biệt quá trình triển khai thực hiện
chính sách định canh định c trên địa bàn tỉnh còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập,
nhất là trong giải quyết vấn đề đất đai, việc làm, các điều kiện dân sinh liên
1
quan đến đời sống của các gia đình, cộng đồng và điểm định canh định c,
nguồn thu nhập thiếu ổn định, tình trạng du canh du c vẫn cú nguy c tiếp
diễn Tr ớc thực tiễn đó, Hà Giang quyết tâm thực hiện tốt công tác định canh


định c bền vững, coi đây là việc làm vô cùng cần thiết nhằm phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh, đa Hà Giang thoát khỏi tỉnh nghèo. Vì vậy, tác giả đã chọn
đề tài: "Định canh, định c với xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang" để làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Định canh định c là một trong những nội dung quan trọng trong chính
sách phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam từ 1968 đến
nay. Cho nên vấn đề này đã đợc nhiều ngời quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía
cạnh khác nhau. Cho đến nay đã có các công trình nh:
- Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc: "Nghiên cứu về định canh, định c ở
Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006.
- Cục Định canh định c và vùng kinh tế mới: "Di dân kinh tế mới, định
canh định c - lịch sử và truyền thống", Nxb Nông nghiệp, năm 2001.
- TS. Đỗ Văn Hoà: "Định canh định c và phát triển kinh tế - xã hội
miền núi".
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Tổng quan định canh định c
cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam thời kỳ 1998-2010.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Đề án tổng quan định canh định c
tỉnh Hà Giang (giai đoạn 1999-2010), tháng 3/1999.
Các công trình trên đề cập đến công tác định canh định c dới các góc độ
khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhng cha có công trình nào đề cập đến
vấn đề Định canh, định c với xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang. Vì vậy, đề tài
mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận ăn
2
* Mục đích:
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và sự cần thiết phải thực hiện công tác
định canh định c gắn với xoá đói giảm nghèo. Đồng thời, phân tích đánh giá
thực trạng công tác định canh định c và xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang. Từ
đó đa ra các giải pháp định canh định c bền vững góp phần xoá đói giảm

nghèo ở Hà Giang. Để thực hiện đợc mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm
vụ sau:
* Nhiệm vụ:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về định canh định c và vai trò của
công tác định canh định c với việc xoá đói giảm nghèo ở nớc ta.
- Tập trung phân tích thực trạng định canh định c và xoá đói giảm
nghèo ở tỉnh Hà Giang và chỉ ra những nguyên nhân đạt đợc thành công và
nguyên nhân còn tồn tại.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu cho việc thực hiện định canh định c bền
vững gắn với xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề định canh định c và xoá đói giảm
nghèo dới góc độ kinh tế chính trị, đồng thời tập trung nghiên cứu công tác
định canh định c và xoá đói giảm nghèo của tỉnh từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm, chủ trơng, đờng lối, chính sách về định canh định
c, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nớc và của Đảng bộ
tỉnh Hà Giang để nghiên cứu.
* Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phơng pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết
hợp các phơng pháp khác để nghiên cứu nh: Phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê, hệ thống
6. Những đóng góp của luận văn
3
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về định canh định c và vai trò của
nó trong xoá đói giảm nghèo dới góc độ kinh tế chính trị.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác định canh định c và xoá đói
giảm nghèo ở tỉnh từ năm 2000 đến nay.

- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch
định chính sách định canh định c nhằm phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói
giảm nghèo ở Hà Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề
định canh định c ở các địa bàn tơng tự nh Hà Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chơng, 8 tiết.
4
Chơng 1
Một số vấn đề lý luận chung về định canh định c
1.1. Nhận thức chung về định canh định c
1.1.1. Khái niệm du canh, du c
- Du canh: là hình thức canh tác không ổn định với trình độ sản xuất
thấp, mang tính tự nhiên, bóc lột đất.
- Du c: là hình thức c trú không ổn định, nhà cửa tạm bợ, nay chỗ này,
mai chỗ khác.
- Du canh du c: là hình thức canh tác và c trú không ổn định, nguồn
sống chủ yếu dựa vào phát nơng làm rẫy, sản xuất lơng thực theo lối bóc lột
đất, tự cung tự cấp.
1.1.2. Tiêu chí xác định du canh, du c
- Hộ du canh, du c là hộ có ít hoặc không có đất canh tác ổn định. Nguồn
sống chủ yếu của hộ dựa vào thu nhập từ phá rừng để sản xuất nơng rẫy du canh
(từ 50% trở lên). Chỗ ở không ổn định và thay đổi theo nơng rẫy du canh.
- Thôn, bản du canh, du c là thôn bản có từ 50% số hộ du canh, du c trở
lên (so với tổng số hộ của thôn bản đó).
1.1.3. Định c, du canh
1.1.3.1. Khái niệm định c, du canh
* Định c, du canh:
Là hình thức đã c trú ổn định, đã có một phần đất đai canh tác ổn định,

nhng sản xuất không đủ ăn, còn phải phá rừng làm nơng rẫy. Muốn xoỏ bỏ
hiện trạng này cần phải tạo điều kiện về t liệu sản xuất cho đồng bào ổn định
đời sống về vật chất.
1.1.3.2. Tiêu chí xác định định c, du canh
- Hộ định c, du canh là hộ đã có chỗ ở và có một phần đất đai canh tác
ổn định. Nguồn sống của hộ dựa vào thu nhập trên đất canh tác ổn định đạt từ
50% đến dới 80% so với tổng thu nhập.
5
- Thôn, bản, xã định c, du canh là thôn, bản, xã có từ 50% số hộ định c,
du canh trở lên (so với tổng số hộ của thôn, bản, xã đó).
- Những thôn, bản, xã có dới 50% số hộ định c, du canh là thôn, bản, xã
có hộ định c, du canh.
1.1.4. Định canh, định c
1.1.4.1. Khái niệm định canh, định c
Là hình thức canh tác và c trú đã ổn định, không còn phá rừng làm rẫy,
không còn du c, không còn đói giáp hạt. Trong đó, hộ định canh, định c có đủ
t liệu sản xuất ổn định và thôn, bản, xã định canh, định c có đủ cơ sở vật chất
thiết yếu đảm bảo sản xuất và đời sống.
* T liệu sản xuất ổn định gồm:
- Ruộng nớc, ruộng bậc thang, nơng thâm canh sản xuất lơng thực ổn
định lâu dài.
- Đất trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả có thu nhập.
- Bãi cỏ, ao hồ để phát triển chăn nuôi.
- Rừng và ất rừng đợc giao cho hộ kinh doanh, hoặc giao khoán bảo vệ
lâu dài.
- Đất ở và vờn hộ.
* Cơ sở vật chất thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống bao gồm:
- Các công trình thủy lợi nhỏ và vừa phục vụ sản xuất thâm canh.
- Các tuyến đờng giao thông nội vùng giữa các thôn, bản, xã phục vụ đi lại
sản xuất, lu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ cho nhân dân trong vùng.

- Các công trình phúc lợi công cộng nh trờng, lớp học, trạm y tế, tủ
thuốc, các công trình nớc sinh hoạt đảm bảo việc học hành, chữa bệnh và
nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho đồng bào định canh, định c và đồng
bào dân tộc miền núi.
1.1.4.2. Tiêu chí xác định đối tợng định canh, định c
- Thôn, bản hoặc xã có từ 50% số hộ bao gồm hộ du canh, du c và hộ
định c, du canh trở lên trong tng s h thụn bn ú là thôn, bản, xã thuộc
đối tợng định canh, định c.
6
- Thôn, bản, xã có dới 50% số hộ bao gồm hộ du canh, du c và hộ định
c, du canh là thôn, bản, xã có hộ thuộc đối tợng định canh, định c.
1.1.4.3. Đối tợng và các hình thức định canh, định c
* Đối tợng của công tác định canh, định c là hộ gia đình và thôn, bản,
các xã đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi vùng cao còn sống du canh, du c
hoặc đã định c nhng còn du canh và cả những hộ đã định canh, định c để đảm
bảo định canh, định c bền vững.
* Các hình thức định canh, định c
- Định canh, định c tại chỗ là đồng bào sinh sống ở đâu thì vận động họ
định canh, định c ở địa bàn đó.
Với hình thức này:
+ Về định canh: Trên cơ sở quy hoạch lại đất đai tiến hành hỗ trợ đồng
bào khai hoang ruộng nớc bãi đất mầu, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản,
cây ăn quả, chăn nuôi
+ Về định c: Xây dựng lại bản làng, làm nhà ở, làm đờng giao thông, xây
dựng trờng học, trạm y tế để đồng bào có điều kiện ổn định c trú lâu dài.
- Định canh, định c bằng cách chuyển chỗ là chuyển đồng bào từ nơi
đang sinh sống đến nơi khác để định canh, định c.
Với hình thức này:
+ Về định canh: Cũng trên cơ sở quy hoạch lại đất đai, phân chia đất
cho từng hộ gia đình, hỗ trợ đồng bào khai hoang, phục hoá ruộng nớc, đất

mầu, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, chăn nuôi
+ Về định c: Hỗ trợ đồng bào di chuyển, làm nhà ở, xây dựng mới hoặc
mở rộng nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng và phúc lợi tập thể ở nơi định
canh, định c.
- Định canh, định c bằng cách "công nhân hoá" là đa đồng bào vào làm
công tại các doanh nghiệp tại địa phơng. Hình thức này đợc thực hiện ở một số
địa phơng thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc từ khi hình thành các công trờng,
lâm trờng, trạm trại ở miền núi. Nó cũng đợc thực hiện có kết quả khi thành
7
lập các công trờng, nông trờng, lâm trờng sản xuất lớn ở các tỉnh miền núi
phía Nam và Tây Nguyên.
Với hình thức này:
+ Về định canh: là làm việc tại các doanh nghiệp, thu nhập bằng tiền l-
ơng hoặc hiện vật do doanh nghiệp chi trả.
+ Về định c: đợc doanh nghiệp phân phối đất làm nhà ở, đợc hởng các
công trình phúc lợi tập thể do doanh nghiệp tạo ra.
1.1.4.4. Tiêu chí xác định cơ bản hoàn thành định canh, định c
- Hộ cơ bản hoàn thành định canh, định c là hộ không còn đói giáp hạt,
không phá rừng làm rẫy, không du c và đợc xác định nh sau:
+ Đạt 80% trở lên giá trị thu nhập đảm bảo đời sống của hộ thu đợc từ
sản xuất trên đất canh tác ổn định.
+ Có nớc sinh hoạt bình thờng.
+ Có nơi ở ổn định, có vờn hộ và có chăn nuôi.
- Thôn, bản, xã cơ bản hoàn thành định canh, định c là thôn, bản, xã sau
khi thực hiện định canh, định c đạt từ 85% số hộ trở lên cơ bản hoàn thành
định canh, định c (so với tổng số hộ thuộc đối tợng định canh, định c của thôn,
bản, xã đó).
- Những huyện, tỉnh cơ bản hoàn thành định canh, định c là những
huyện, tỉnh sau khi thực hiện định canh, định c đạt từ 85% số hộ trở lên cơ bản
hoàn thành định canh, định c (so với tổng số hộ thuộc đối tợng định canh,

định c của huyện, tỉnh đó).
- Nhà nớc tiếp tục hỗ trợ, đầu t xây dựng hạ tầng cơ sở và phát triển sản xuất
bằng các chơng trình kinh tế - xã hội khác để định canh, định c bền vững.
1.2. Vai trò của công tác định canh, định c đối với xoá đói
giảm nghèo
1.2.1. Sự cần thiết phải chuyển từ du canh, du c sang định canh,
định c
Du canh của một bộ phận dân tộc thiểu số vùng núi từ lâu đợc xem là
"tụt hậu" và không hiệu quả trong hoạt động và phát triển kinh tế, là tác nhân
8
chủ yếu gây ra nạn phá rừng. Vì thế trong chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số, miền núi, Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm xoá
bỏ hiện tợng du canh. Bởi lẽ, chúng ta biết rằng du canh là hình thức canh tác
không ổn định ở một địa điểm, sản xuất trồng trọt ở nơi này một thời gian sau
lại chuyển hoạt động canh tác đến nơi khác, đây là lối canh tác ngợc với lối
canh tác đợc gọi là thâm canh - tức là canh tác, chăm bón cây trồng trên một
địa điểm ổn định. Du canh là hoạt động kinh tế nông nghiệp của một bộ phận
dân tộc thiểu số vì lý do điều kiện canh tác đất đai hạn chế, vì phong tục tập
quán canh tác của họ trong một điều kiện tài nguyên rừng và đất đai cho
phép, vì sức ép kinh tế với năng suất trồng trọt thấp và mâu thuẫn không đáp
ứng nhu cầu đời sống của gia đình, cộng đồng ngày một tăng theo thời gian.
Việt Nam là một nớc có tới 2/3 tổng diện tích là miền núi. Có 53 dân
tộc, hơn 10 triệu ngời dân tộc thiểu số với nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hoá
khác nhau, c trú tập trung ở miền núi. Địa bàn và các nhóm dân tộc thiểu số
này từ lâu đã là đối tợng của các chính sách dân tộc nói chung và định canh,
định c nói riêng. Chơng trình định canh, định c đợc thực hiện với mục tiêu
nhằm chấm dứt tình trạng du canh - một phơng thức sản xuất đợc đồng bào
các dân tộc thiểu số nớc ta duy trì từ xa xa mang tính lạc hậu với đặc điểm:
+ Canh tác trên nơng rẫy là chủ yếu, hoạt động theo chu kỳ: Đốt rừng -
tra hạt - thu hoạch - đốt rừng - tra hạt, Nh vậy đó là sự vận động lấy khởi

điểm của chu kỳ là đốt rừng.
+ Hiệu quả canh tác thấp, phụ thuộc gần nh hoàn toàn vào điều kiện tự
nhiên nh: ma, nắng, hạn hán, lũ lụt, giá rét Vì bị lệ thuộc hoàn toàn vào
thiên nhiên nên sản xuất và đời sống của đồng bào hiện còn du canh, du c rất
khó khăn. Du canh, du c có xu hớng ngày càng tiến vào vùng sâu, vùng xa,
vùng hẻo lánh. Các hộ gia đình du canh, du c ngày càng xa sinh hoạt cộng
đồng, càng xa các trung tâm văn hoá - xã hội của khu vực. Do đó, cuộc sống của
đồng bào du canh, du c đã khó khăn lạc hậu lại càng khó khăn lạc hậu hơn.
9
+ Kiểu canh tác này không những không bồi bổ độ phì của đất mà ngợc
lại huỷ hoại nghiêm trọng độ mầu mỡ, đất đai bị bào mòn, rửa trôi trở thành
bạc mậu, cằn cỗi. Vì mỗi khu rừng phát đốt đi chỉ gieo trồng cây lơng thực đ-
ợc một vài vụ, đất bị nớc ma rửa trôi, bạc mầu trở thành đất trống đồi núi trọc,
ngời canh tác lại phải tìm đến khu rừng khác tiếp tục phát đất, cứ nh thế du
canh đến đâu tất nhiên phải du c đến đó. Với những đặc điểm ấy phơng thức
sản xuất này để lại hậu quả nặng nề, nghiêm trọng cho cả nớc cũng nh chính
đồng bào miền núi. Trớc hết, du canh, du c khiến ngời dân luôn phải thay đổi
chỗ canh tác và chỗ ở đồng thời quy định nếp nghĩ, cách sống tạm bợ theo
thói quen ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào, từ đó quy định số phận của họ.
Nh vậy, du canh, du c không chỉ gây mất ổn định về nhiều phơng diện
mà nguy cơ lớn nhất do những ngời du canh gây ra làm cho rừng bị tàn phá, vì
muốn có đất canh tác họ phải khai thác trên diện tích lớn của rừng, đây cũng
là một trong những nguyên nhân gây ra các hiện tợng nh lũ quét, hạn hán
đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, gây thiệt hại lớn về tài sản và tính mạng con
ngời.
Khụng nhng th, cuc sng thiu n nh nay õy mai ú, i sng
vt cht khú khn, i sng tinh thn thiu thn, luụn tỡm ni , ni lm n
mi hỡnh thnh mt b phn dõn c t do khụng ho ng vi mt th ch
kinh t, chớnh tr, xó hi nht nh ca t nc. Mt khỏc to ra nhng khe
h phỏt sinh mt trỏi v kinh t, chớnh tr, xó hi m nhng k phỏ hoi, chng

i, bn xu li dng.
Tóm lại, hậu quả của du canh, du c là không những đời sống của đồng
bào ngày càng khó khăn mà còn ảnh hởng nghiêm trọng đến suy thoái đất
canh tác, bảo vệ môi trờng và sự phát triển bền vững ở miền núi. Di c tự do
của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc đến Tây Nguyên cũng là
hậu quả của phơng thức canh tác du canh, du c khi diện tích rừng ở nơi đang
10
sinh sống không còn, ngời dân phải đi xa để tìm nơi có rừng phát nơng, làm
rẫy.
Chính vì thế, định canh, định c cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở
miền núi nớc ta nhằm hỗ trợ đồng bào tạo lập một cuộc sống ổn định hớng tới
phát triển bền vững đang là một vấn đề cấp bách hiện nay. Xuất phát từ thực
tiễn của tình trạng du canh, du c để thấy rõ hơn sự cần thiết phải tiếp tục
chuyển từ du canh, du c sang định canh, định c:
Vào năm 1968, khi Chính phủ thực hiện chính sách định canh, định
c đầu tiên, ớc tính có khoảng 3,8 triệu ngời tiến hành du canh; đến 1990,
Việt Nam có khoảng 482.000 hộ gia đình (2,8 triệu nhân khẩu) là mục tiêu
của chính sách định c. Năm 1999, con số này lên tới 608.000 hộ (3,7 triệu
nhân khẩu) [19, tr.34-35]. Và một điều cần chú ý là trớc năm 1968, phạm vi
du canh, du c chỉ diễn ra trên địa bàn hẹp, chủ yếu từ bản này sang bản
khác trong nội bộ xã hoặc từ xã này sang xã khác trong nội bộ huyện, sau
đó du canh, du c diễn ra trên địa bàn rộng hơn nh di chuyển từ tỉnh này
sang tỉnh khác. Đặc biệt là với các chơng trình xây dựng kinh tế mới nên
hiện tợng ngời Kinh di c lên miền núi tăng nhanh, đến đầu những năm 90
của thế kỷ XX, tỷ lệ ngời Kinh tại nhiều xã miền núi đã lên tới 50% tổng số
dân toàn xã. Do làn sóng di c và tác động của việc phân phối lại đất, rừng
cho các lâm trờng quốc doanh, các chính sách xoá bỏ cây thuốc phiện ng-
ời dân tộc thiểu số đã phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế, đặc biệt
là sự suy giảm về diện tích canh tác do việc du canh, hậu quả là, một số hộ
gia đình trớc đây không du canh, du c đã bắt buộc phải di chuyển tìm kiếm

đất mới để canh tác. Việc này đã dẫn tới sự gia tăng làn sóng di c tự do của
ngời dân tộc thiểu số, đặc biệt là từ miền núi phía Bắc tới các vùng khác
của cả nớc.
Chẳng hạn theo Báo Nhân dân (Báo Điện tử) ngày 8/12/2004 thì "giai
đoạn 1991-1995 bình quân mỗi năm có hơn 16 vạn ngời di c tự do, từ năm
11
1996 đến năm 2000 giảm xuống còn 9 vạn ngời/năm, 2 năm 2001 - 2002 còn
hơn 4 vạn ngời".
Từ những năm gần đây, số lợng đồng bào thiểu số ở miền núi phía Bắc
di c tự do vào Tây Nguyên sinh sống đã giảm nhng đồng bào lại thờng di c tự
do vào các vùng rừng đầu nguồn xa xôi, hẻo lánh, khó kiểm soát, để phát rừng
làm rẫy. Hơn nữa, du canh, du c không chỉ do tác nhân kinh tế mà còn do các
tác nhân xã hội và tôn giáo nữa. Bằng chứng là 248 hộ ngời Mông ở thôn Noh
Prông thuộc xã Hoà Phong, tỉnh Đắc Lắc đã di c từ huyện Bắc Quang tỉnh Hà
Giang và Chiêm Hoá thuộc tỉnh Tuyên Quang vào sinh sống ở thụn này không
chỉ vì thiếu đất canh tác mà còn vì những vấn đề rắc rối trong quan hệ với họ
hàng, láng giềng và chính quyền địa phơng cũng nh di c tự do vào Tây
Nguyên để dễ thay đổi theo đạo Tin lành [19, tr.36].
Từ những lý do trên, cần phải thực hiện công tác định canh, định c đối
với đồng bào còn du canh, du c, xây dựng cơ sở định canh, định c, ổn định sản
xuất và đời sống, đầu t hỗ trợ cho đồng bào đã định canh nhng còn du canh
xây dựng cơ sở định canh ổn định, vận động đồng bào đã định c mở rộng và
củng cố cơ sở định canh để đáp ứng yêu cầu phát triển của sản xuất, chấm dứt
tình trạng khai phá nơng rẫy hàng năm hoặc đi phát nơng xa theo lối một chốn
đôi quê.
1.2.2. Định canh, định c có ý nghĩa quan trọng đối với xoá đói giảm
nghèo
Trong những năm qua nhờ sự đầu t nhiều mặt của Nhà nớc, miền núi đã
đạt đợc những tiến bộ về phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên đến nay vẫn là
khu vực có tỷ lệ đói nghèo cao. Mức sống thấp là hiện tợng phổ biến ở c dân

vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng thuộc diện vận động định canh, định c. Sự
chênh lệch về tỷ lệ đói nghèo giữa các nhóm dân tộc cũng khá lớn, cao nhất là
trong các dân tộc sống ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn: đồng bào Mông ở
Hà Giang; Ơ Du ở Nghệ An; Rác Glây ở Ninh Thuận
12
Từ thực trạng đói nghèo tại các vùng định canh, định c nói chung cho
thấy tại các vùng này:
Sản xuất nông lâm nghiệp vẫn chủ yếu là tự cung tự cấp. Hiệu quả sản
xuất nông nghiệp thấp, nguyên nhân trớc hết là do địa hình chia cắt mạnh, độ
dốc lớn, đất đai bị xói mòn, năng suất cây trồng vật nuôi thấp. Hai là, trình độ
dân trí thấp, thiếu vốn và công tác chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật
nông nghiệp cho miền núi cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là vùng cao, vùng
sâu, vùng xa.
Tình trạng phá rừng làm nơng rẫy vẫn diễn ra và gây ra hậu quả nghiêm
trọng. Mặc dù đã có sự quan tâm đầu t bảo vệ và phát triển vốn rừng, nhng
nhiều khu vực có rừng tự nhiên và rừng phòng hộ tập trung vẫn tiếp tục giảm
sút, một trong những nguyên nhân chính do mở rộng đất canh tác nông nghiệp
và tình trạng du canh.
Cơ sở hạ tầng ở khu vực miền núi nói chung và vùng định canh, định c
nói riêng còn yếu kém, nhất là vùng sâu, vùng xa. Vì ở miền núi do địa hình
phức tạp, khả năng ngân sách lại hạn hẹp cho nên đờng giao thông đi lại
không thuận lợi, ở nhiều xã phần lớn đờng chỉ đi đợc vào mùa khô. Các cơ sở
hạ tầng khác nh y tế, giáo dục, nớc sạch cũng rất yếu kém. Số lợng trẻ em
trong độ tuổi đi học bị thất học ở một số nhóm dân tộc thiểu số cao nh Mông,
Sinh Mun, Khơ Mú. Tình trạng thiếu nớc sinh hoạt trong mùa khô là phổ biến
ở vùng cao, nhiều nơi đồng bào phải đi bộ lấy nớc sinh hoạt xa đến 5-10 km
nh vùng cao Đồng Văn (Hà Giang), lục khu Hà Quảng (Cao Bằng). Cơ sở hạ
tầng kém đã trở thành yếu tố quan trọng chi phối khả năng phát triển kinh tế
hàng hoá và sự nghiệp phát triển văn hoá và nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào các dân tộc. Vì vậy, việc thực hiện tốt công tác định canh,

định c có vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt chơng
trình xoá đói giảm nghèo ở miền núi, ng thi xõy dng, to ra mt cng
ng dõn tc vi bc phỏt trin mi ho nhp vi bc phỏt trin ca t
13
nc. Bởi lẽ, mục đích của công tác định canh, định c là tạo điều kiện cho bộ
phận đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi còn du c phá rừng hoặc đã định c,
nhng còn du canh, đời sống quá khó khăn lạc hậu, để đồng bào các vùng này
từ bỏ đợc lối sống cũ chuyển sang cuộc sống mới: có nhà ở, có đất đai canh
tác, hoặc việc làm ổn định, giảm dần đói nghèo, định canh, định c bền vững,
góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trờng sinh thái, bảo đảm trật tự xã hội, an
ninh quốc phòng.
Không những thế, thông qua kết quả thực hiện công tác định canh,
định c thời gian qua ở nớc ta, có thể thấy rõ định canh, định c có vai trò
không nhỏ trong xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội ở miền
núi. Cụ thể là:
Nhờ có chủ trơng đúng đắn của Đảng và Nhà nớc về đầu t công tác định
canh, định c và sự hởng ứng của đồng bào các dân tộc miền núi, đến nay các
chơng trình định canh, định c đã đóng góp vào mục tiêu xoá đói giảm nghèo
rất tích cực ở vùng nông thôn miền núi. Bởi vì, nội dung chính của công tác
định canh, định c là tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất về sản
xuất và đời sống nh đất trồng trọt, nớc sản xuất và sinh hoạt của bộ phận đồng
bào dân tộc thuộc diện khó khăn nhất ở miền núi. Tính từ 1990 đến nay, ch-
ơng trình định canh, định c đã hỗ trợ khai hoang: 31 nghìn ha; cải tạo đồng
ruộng, xây dựng ruộng bậc thang, nơng xếp đá: 8 nghìn ha; xây dựng bể nớc,
giếng nớc: 8 nghìn cái Cũng thông qua cuộc vận động định canh, định c,
đồng bào dân tộc đã học đợc cách làm ăn mới khắc phục đợc tập quán quảng
canh, chuyển sang thâm canh. Đã có nhiều mô hình thành công về thực hiện
công tác định canh, định c: mô hình định canh, định c gắn với phát triển kinh
tế hộ gia đình ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên; mô hình định
canh, định c gắn với cơ sở các nông, lâm trờng quốc doanh ở khu vực Tây

Nguyên, mô hình định canh, định c gắn với xây dựng vùng kinh tế mới nh mô
hình Mò Cổng (Sơn La), Viễn Sơn (Yên Bái), Khe Cạn (Thái Nguyên) Đến
14
nay ở khu vực miền núi tỷ lệ nghèo đã giảm, chấm dứt tình trạng đói kinh
niên, nhiều hộ đồng bào nhờ phát triển kinh tế hộ đã trở nên giầu.
Kết quả của công tác định canh, định c còn góp phần hình thành những
vùng sản xuất tập trung quy mô lớn nh cà phê ở Tây Nguyên, vùng cây công
nghiệp dài ngày nh cao su, hồ tiêu, điều, cây ăn quả ở miền Đông Nam Bộ,
vùng chè ở Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Hà Giang, Lâm Đồng ; vùng quế
ở Yên Bái, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam; vùng cây ăn quả Bắc Giang,
Lạng Sơn ; vùng chuyên doanh rừng ở Thanh Hoá, Nghệ An, Sơn La Các
vùng chuyên canh định canh, định c đã có sản phẩm hàng hoá, thực sự góp
phần quan trọng trong các mặt hàng xuất khẩu nông lâm sản của cả nớc, đem
lại nguồn thu nhập ổn định, cải thiện một bớc đời sống nhân dân các dân tộc
vùng dự án.
Chơng trình định canh, định c cùng với các chơng trình phát triển kinh
tế - xã hội đã góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng ở các xã vùng cao thuộc địa bàn
miền núi. Kết quả đến nay ở khu vực miền núi có 94% số xã định canh, định
c có đờng giao thông đến trung tâm cụm xã, 84% số xã có trờng tiểu học, 64%
số đồng bào dân tộc thiểu số dùng điện lới sinh hoạt, 60% số xã có trạm
truyền thanh, góp phần giảm tỷ lệ nghèo cả nớc từ 20% xuống còn 11% hiện
nay. Công tác định canh, định c cũng góp phần vào việc bảo vệ rừng, đến nay
độ che phủ rừng cả nớc đã tăng lên 36% [18, tr.254]. Những kết quả lớn nhất
của việc đầu t cho công tác định canh, định c đã đạt đợc trong những năm qua
là tạo ra t liệu sản xuất là đất trồng trọt ổn định, hỗ trợ nớc sinh hoạt và xây
dựng các công trình thủy lợi nhỏ đã thực sự góp phần ổn định sản xuất và
đời sống, thực sự góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc
vùng cao.
Chính vì vai trò của định canh, định c đối với xoá đói giảm nghèo nh đã
phân tích trên đây. Công tác định canh, định c trong những năm gần đây đã có

bớc chuyển biến mới. Tập trung vào nội dung xoá đói giảm nghèo, trớc mắt là
15
xoá đói kinh niên, đói giáp hạt. Từ nguyên nhân sinh ra đói nghèo ở các vùng
thuộc đối tợng định canh, định c tìm ra các giải pháp hữu hiệu để họ bảo vệ đ-
ợc tài nguyên rừng mà còn nâng cao đợc đời sống của ngời dân, xoá đợc đói,
giảm đợc nghèo. Do đó, tại Nghị quyết số 112 ngày 21/11/1997 của Chính
phủ ra Quyết định số 05 ngày 14/1/1998 của Thủ tớng Chính phủ đã quy định:
Chơng trình quốc gia xoá đói giảm nghèo bao gồm cả công tác định canh,
định c; đặt công tác định canh, định c trong chơng trình quốc gia xoá đói giảm
nghèo. Và ngợc lại, mục tiêu của công tác định canh, định c cũng bao gồm cả
nội dung xoá đói giảm nghèo. Cụ thể mục tiêu bao trùm của công tác định
canh, định c đợc xác định theo Quyết định 140/1999/QĐ-BNN-định canh,
định c bao gồm:
1. Xoá bỏ du canh, du c và định c các nhóm dân tộc.
2. Góp phần xoá đói giảm nghèo.
3. Góp phần giảm hiện tợng phá rừng và bảo vệ môi trờng.
Tóm lại, định canh, định c không chỉ có ý nghĩa đối với công tác xoá
đói giảm nghèo mà định canh, định c còn có mối quan hệ biện chứng với xoá
đói giảm nghèo: Thực hiện định canh, định c bền vững sẽ là điều kiện, tiền đề
cho xoá đói giảm nghèo thực hiện đợc các nội dung của chơng trình đề ra đạt
đợc hiệu quả. Mặt khác, xoá đói giảm nghèo cũng là điều kiện để củng cố
định canh, định c ngày càng vững chắc, đồng bào yên tâm tích cực phát triển
sản xuất theo hớng thâm canh, áp dụng khoa học kỹ thuật mới rộng rãi, kinh
tế đợc tăng trởng, đời sống ổn định.
S kt hp ú cú ý ngha to ln trong vic chun b iu kin, mụi
trng kinh t- xó hi thc thi cụng nghip hoỏ nụng nghip nụng thụn cú
hiu qu, c bit l nụng thụn mii nỳi (vựng dõn tc thiu s chim t l ln).
1.3. Một số chủ trơng chính sách của Đảng và Nhà nớc về
công tác định canh, định c
16

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam đợc thành lập (1930), văn bản chính
thức đầu tiên của Đảng đề cập đến vấn đề du canh đợc đề ra tại Hội nghị lần
thứ t Ban Chấp hành Trung ơng năm 1948. Vấn đề du canh đã đợc đề cập
trong phần về "cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân", sự cần
thiết phải "khuyến khích việc xoá bỏ du canh và giúp đỡ trong việc cải thiện
cung cấp các trang thiết bị, cây giống, phân bón, khai thác đất 2 vụ".
Nhằm hớng tới mục tiêu định canh, định c, chính sách đầu tiên thể hiện
trong Nghị quyết 71/TW ngày 23/3/1963. Trong nghị quyết trên, Bộ Chính trị
đã chính thức nêu lên vấn đề định canh, định c và giải quyết vấn
đề này.
Tiếp sau đó, xuất phát từ tập quán canh tác lạc hậu, phá rừng làm rẫy,
đất đai ngày càng bạc mầu, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên
cạn kiệt, môi trờng sinh thái bị phá vỡ, hạn hán lũ lụt thờng xuyên xẩy ra. Tr-
ớc thực trạng đó, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết 38/CP ngày 12/03/1968 về
công tác vận động định canh, định c. Nghị quyết 38/CP đã nêu rõ phơng hớng
nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế miền núi, đồng thời yêu cầu các cấp, các
ngành phải coi trọng công tác định canh, định c để tạo điều kiện nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho đồng bào còn du canh, du c; Quyết định
72/HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) về một
số chủ trơng chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi; Quyết định
327/HĐBT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng về một số chủ tr-
ơng, chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi ven biển và mặt nớc;
Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ ban hành văn bản quy
định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số 20/1998/NĐ-CP ngày
31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thơng mại miền núi, hải đảo và vùng
đồng bào dân tộc; Chỉ thị 393/TTg ngày 10/6/1996 của Thủ tớng Chính phủ về
quy hoạch dân c, tăng cờng cơ sở hạ tầng, sắp xếp sản xuất ở vùng dân tộc và
17
miền núi; Quyết định số 202/TTg ngày 2/5/1994 quy định về việc khoán bảo

vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng; Quyết định của Thủ tớng Chính
phủ số 35/QĐ-TTg ngày 13/1/1997 phê duyệt chơng trình xây dựng cụm xã
miền núi, vùng cao; Quyết định của Thủ tớng Chính phủ số 133/1998/QĐ-
TTg ngày 23/7/1998 về phê duyệt chơng trình mục tiêu quốc gia về xoá đói
giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000; Quyết định của Thủ tớng Chính phủ
số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt chơng trình phát triển kinh tế
- xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa; Quyết định
số 138/2000/QĐ-TTg ngày 29/11/2000 của Thủ tớng Chính phủ đã quyết định
hợp nhất dự án định canh, định c và chơng trình phát triển kinh tế - xã hội các
xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Trong quyết định này,
phần xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án định canh, định c thuộc các xã Chơng
trình 135 đợc đa vào dự án xây dựng cơ sở hạ tầng của Chơng trình 135. Tuy
nhiên, do còn có các xã thuộc diện vận động định canh, định c nằm ngoài địa
bàn thực hiện Chơng trình 135, vì vậy, tại Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg
ngày 27/9/2001 của Thủ tớng Chính phủ về việc phê duyệt "Chơng trình mục
tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005" đã đa dự
án định canh, định c là một trong những dự án thực hiện chơng trình xoá đói
giảm nghèo và đợc phân bổ nguồn vốn thực hiện riêng.
Trong thời gian gần đây, để tiếp tục hỗ trợ đồng bào các dân tộc thực
hiện việc định canh, định c, Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho
vùng và hộ gia đình để đất sản xuất, ổn định đời sống xoá đói giảm nghèo:
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ về một số
chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nớc sinh hoạt giúp hộ đồng
bào dân tộc thiểu số ổn định đời sống và xoá đói giảm nghèo; Quyết định
số 186/2001/QĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ về phát triển kinh tế 6 tỉnh
đặc biệt khó khăn (Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu) tập
trung giải quyết những vấn đề bức xúc của 6 tỉnh về đói nghèo, du canh, du
18
c, ổn định đời sống, tái trồng cây thuốc phiện và chăm sóc sức khoẻ. Trong
đó tập trung đầu t cơ sở hạ tầng, hỗ trợ khai hoang, giống cây trồng, vật

nuôi, trồng rừng ; Quyết định 120/2003/QĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ
về phê duyệt chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt
Trung. Mục tiêu quyết định này nhằm đa vùng này thoát khỏi đói nghèo và
củng cố an ninh quốc phòng ở tuyến biên giới. Trong quyết định này có
nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ gia đình về khai hoang, về nhà ở và
di chuyển dân đến các xã biên giới với mức cao hơn các vùng khác; nhận
thức Tây Nguyên có vị trí chiến lợc quan trọng và là những tỉnh có tỷ lệ
đói nghèo cao, Chính phủ đã có một số chính sách hỗ trợ: Quyết định số
154/2002/QĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ về chính sách cho các hộ đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ và đồng bào thuộc diện chính sách ở các tỉnh
Tây Nguyên mua nhà trả chậm; Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg "chính
sách giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên".
1.4. Kinh nghiệm quốc tế và một số địa phơng trong nớc
về định canh, định c
1.4.1. Kinh nghiệm quốc tế
* ở Lào
Lào là quốc gia có tỷ lệ ngời dân tộc thiểu số cao (khoảng 40% dân số)
phần đông trong số này sinh sống ở các khu vực miền núi, vùng cao và chủ
yếu sống dựa vào du canh.
Kể từ khi nớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đợc thành lập (1975) và
đặc biệt từ Đại hội Đảng lần thứ t (1986), việc giảm tình trạng du canh là một
trong các chơng trình u tiên của Lào nhằm ổn định các cộng đồng, nâng cao
năng suất, cải thiện môi trờng kinh tế - xã hội và giảm thiểu sự suy thoái của
tài nguyên thiên nhiên.
19
Chơng trình chính để tiến tới xoá bỏ du canh bao gồm các chính sách
nhằm cung cấp các dịch v giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho c dân vùng
cao thông qua việc tái định c để đa họ vào các "vùng trọng điểm".
Bên cạnh việc tái định c, Lào cũng thực hiện chính sách xoá bỏ du canh

thông qua việc ban hành một loạt các nghị định và hớng dẫn về quản lý đất
nông nghiệp và lâm nghiệp đợc ban hành nhằm hỗ trợ cho quy hoạch sử dụng
đất của quốc gia và chơng trình phân phối lại đất đai. Phân phối lại đất đai đợc
xem là một bớc tiến và giúp cho việc xoá bỏ du canh. Quá trình cải cách
ruộng đất đợc mong đợi là sẽ định hớng lại hệ thống canh tác thông qua việc
ban hành chứng chỉ sử dụng đất dài hạn cho một diện tích đất có giới hạn,
trong khi đó các vùng khác sẽ đợc quy hoạch lại thành vùng lâm nghiệp hoặc
rừng đầu nguồn. Bởi vì, thông qua việc giảm diện tích đất dành cho nông
nghiệp, nông dân sẽ phải tăng cờng thâm canh các loại cây trồng mang tính
hàng hoá và các loại cây trồng mang tính thị trờng, nhằm phát triển nông thôn,
đa các thôn bản gần với các loại hình dịch vụ.
Tuy nhiên, do chính sách cải cách ruộng đất và tái định c chỉ tập trung
vào việc giới hạn sử dụng đất, mà không đầu t vào thâm canh sử dụng đất nên
đã tạo ra cho ngời nông dân nhiều khó khăn nhất định, sau một năm cải cách
ruộng đất, diện tích đất nông nghiệp bình quân giảm xuống 1/3 từ 3,9 ha
xuống 2,7 ha/hộ [19, tr.73]. Việc giảm diện tích canh tác kèm theo việc nhu
cầu lơng thực ngày càng tăng đã dẫn đến hiện tợng ngời nông dân phải rút
ngắn thời gian bỏ hoá, kéo dài, thời gian canh tác và tăng cờng sử dụng lao
động nhằm duy trì an ninh lơng thực thay thế diện tích đất đã bị mất đi do
chính sách cải cách ruộng đất mới. Kết quả chung của sự thay đổi đó đã làm
giảm năng suất của đất, làm xấu đi điều kiện làm việc, tăng suy thoái đất đai
và xói mòn đất - trái ngợc với mục tiêu của chính sách. Thêm vào đó, chính
sách cải cách ruộng đất đã dẫn đến sự di c tự do không kiểm soát đợc của
20
những ngời đã định c. Rất nhiều ngời dân đã quay lại nơi cũ khi họ không có
đủ đất canh tác, và thiếu lơng thực.
* ở Thái Lan:
Chính phủ Thái Lan rất quan tâm đến các cộng đồng ngời dân tộc thiểu
số đang sinh sống tại phía Bắc, những cộng đồng đợc coi là các "bộ lạc". Dân
số của các bộ lạc này khoảng chừng 600.000 đến 700.000 ngời. Từ lâu, Chính

phủ Thái Lan đã cấm việc du canh trong cộng đồng các dân tộc vùng cao này.
Quân đội đã tiến hành chính sách tái định c bắt buộc từ năm 1967 đến 1973,
nhằm di chuyển các "bộ lạc" này về vùng đồng bằng.
Các đạo luật cấm sử dụng đất rừng để canh tác nông nghiệp cũng đợc
ban hành. Chính phủ đã tạo ra 87 công viên quốc gia, 65 công viên rừng, 46
khu bảo tồn thiên nhiên, 44 vùng cấm săn bắn, 15 vờn thực vật học và 53 khu
vờn phục vụ nghiên cứu khoa học mà rất nhiều khu trong số đó trớc đây thuộc
phạm vi sử dụng của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Chính vì vậy việc di
chuyển bắt buộc các bộ lạc này ra khỏi các khu bảo tồn đợc Chính phủ ủng
hộ. Đồng thời, Chính phủ cũng có nhiều chơng trình tài trợ nhằm định c các
bộ lạc thiểu số tại các khu làng định c, trồng các loại hoa mầu và các sản
phẩm có giá trị cao trên thị trờng để thay thế cho việc du canh. Tuy nhiên, tại
các vùng này họ lại cần một lợng lớn nớc và thuốc trừ sâu, dẫn đến ngời dân ở
vùng đồng bào không đủ nớc và những nguồn nớc từ vùng cao chẩy xuống
chứa rất nhiều thuốc trừ sâu, tạo nên một số xung đột nhỏ giữa ngời dân miền
núi và đồng bằng [19, tr.77].
* ở Inđônêxia:
Chính phủ Inđônêxia từ lâu cũng đã tiến hành xoá bỏ việc du canh và
tiến hành định c cho đồng bào các dân tộc thiểu số thông qua một chơng trình
có tên là "Chơng trình phát triển các cộng đồng vùng sâu vùng xa".
Các dự án định canh, định c chính đã đợc thực hiện bao gồm việc xây
dựng "các khu định c xã hội", nơi các thành viên của các nhóm đối tợng đợc
tập trung lại và trao quyền làm chủ các dự án phát triển, từ việc xây dựng các
21
trờng học đến khuyến nông, khuyến lâm. Các khu định c xã hội do Chính phủ
xây dựng bao gồm các ngôi nhà giống hệt nhau, mỗi hộ đợc cấp 2 ha đất, bếp
và các công cụ làm vờn, 3 tháng lơng thực, quần áo Hơn nữa, khu định c còn
có cả nhà thờ để phục vụ các nghi lễ tôn giáo, một nhà hội họ cộng đồng, tr-
ờng học và sân bóng đá. Những ngời đến định c tại đây phải từ bỏ việc du
canh nên họ đợc cấp đất, giống, súc vật nuôi, các công cụ phục vụ sản xuất và

đào tạo kỹ thuật.
Tuy nhiên, chơng trình vẫn còn những hạn chế đó là, đất đai cấp cho
các khu vực này thờng có độ mầu mẫu thấp vì quỹ đất ngày một hạn hẹp. Một
vấn đề nữa là nạn tham nhũng tại các địa phơng đã làm thất thoát một lợng lớn
số tiền tài trợ cho các khu vực định c xã hội này.
Một chính sách quan trọng trong công tác định canh, định c của
Inđônêxia là đã di c đợc một số ngời Java từ vùng thấp lên vùng cao để giải
quyết các vấn đề về đất nông nghiệp và giới thiệu những kỹ thuật canh tác mới
đến vùng cao. Chơng trình này đợc biết đến nh là một trong những chơng trình
định canh, định c cấp Chính phủ đợc đầu t nhiều nhất về tiền bạc cũng nh thời
gian. Tuy nhiên, chính những ngời di c lại là nguyên nhân chính của nạn phá
rừng do phơng pháp canh tác không phù hợp và chơng trình đi dân này phải
dừng lại.
* ở Trung Quốc:
Trung Quốc là một quốc gia với rất nhiều dân tộc thiểu số đang sinh
sống. Việc định canh, định c các cộng đồng ngời dân tộc thiểu số đã trở thành
một chính sách chính thức.
Điển hình do chơng trình định canh, định c do dân bản mà Chính phủ
cho vùng họ đang sống tại những môi trờng khó có thể c trú và khó tiếp cận đ-
ợc với các dịch vụ (vùng sâu, vùng xa nh khu vực núi cao hiểm trở tại vùng
Tây Nam). Rất nhiều trờng hợp ngời dân đợc di chuyển một khoảng cách khá
xa đến một vùng thời tiết, khí hậu, sinh thái, hệ thống sản xuất và những yếu
22
tố về văn hoá xã hội hoàn toàn khác lạ. Do tính chất của việc định canh, định
c của Trung Quốc nh vậy, làm cho ngời dân cảm thấy rất khó khăn trong việc
thích ứng với môi trờng mới, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói
nghèo, nên nhiều địa phơng đã yêu cầu Chính phủ trả những ngời này trở về
địa điểm cũ, nơi họ đã ra đi.
Gần đây Trung Quốc đang cố gắng tạo ra những khu tự trị vùng và địa
phơng cho các cộng đồng ngời dân tộc thiểu số, cho phép họ tự quyết định

việc sử dụng đất.
* Nhận xét và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam: Nh
trên đã nêu, có rất nhiều loại hình chơng trình nh canh, nh c v tái định
canh, định c; một số chơng trình cũng tơng tự nh các chơng trình đã thực hiện
tại Việt Nam và một số chơng trình khác biệt. Điểm quan trọng cần lu ý đó là
các chơng trình định canh, định c đều có thể có những ảnh hởng rất sâu sắc
đến sinh kế, thu nhập và những khả năng xã hội. Việt Nam có thể học hỏi rất
nhiều từ các chơng trình của các nớc trong công tác định canh, định c và rút ra
những bài học kinh nghiệm cho nớc ta đó là:
- Chơng trình định canh, định c muốn thực hiện đợc phải có sự tham gia
của cộng đồng, nơi nào không có sự đồng thuận giữa ngời dân với Chính phủ
sẽ dẫn đến những cuộc phản đổi (Thái Lan, Lào).
- Tại những nơi mà các chơng trình đã cố gắng bắt buộc các cộng đồng
này phải từ bỏ việc du canh và không có những đầu t thay thế đầy đủ thì vấn
đề an ninh lơng thực sẽ bị đe dọa nghiêm trọng (Lào). Chính vì vậy, việc quy
hoạch sử dụng đất mà làm giảm diện tích canh tác du canh mà không cung
cấp những lựa chọn thay thế phù hợp thì hầu hết là không thành công. Các ch-
ơng trình nâng cao sản xuất nông nghiệp phải đi cùng với công tác đầu t cho
các lựa chọn thay thế nh đầu vào cho sản xuất, xây dựng các kênh mơng, thủy
lợi
23
- Không thể xoá bỏ đợc việc canh tác du canh tại một số vùng bởi vì họ
có những lựa chọn thay thế nào phù hợp với môi trờng; chính vì vậy, cần phải
chú trọng đến việc nâng cao năng suất hơn là xoá bỏ nó. Chẳng hạn, tại một
số vùng núi nớc ta sẽ không thể canh tác lúa nớc thành công, nên chúng ta cần
phải có những mô hình nông lâm kết hợp với việc chăn nuôi nh là một lựa
chọn thay thế và cho phép một số vùng tiếp tục canh tác quay vòng.
- Các chơng trình phải đợc đầu t hợp lý, hoạt động đa dạng và an ninh l-
ơng thực phải là mục tiêu hàng đầu.
- Ngời dân phải đợc tham gia vào quá trình lập kế hoạch từ đầu đến

cuối; các kế hoạch cần phải đợc phát triển tại cấp thấp nhất (thôn, bản) nhng
cần phải đợc gắn liền với quy hoạch vùng, đặc biệt là việc quy hoạch sử dụng
đất vùng.
- Những khoản đầu t quy mô nhỏ (cấp thôn, bản) vào việc đa dạng hoá
nông nghiệp và một số công trình hạ tầng quy mô nhỏ nh chợ, đờng sá, trờng
học và đào tạo khuyến nông tỏ ra là một chiến lợc hiệu quả nhất. Đầu t tại cấp
phù hợp và trong nhiều lĩnh vực là chìa khoá của sự thành công.
1.4.2. Kinh nghiệm một số địa phơng về định canh, định c
Định canh, định c là một vấn đề quan trọng trong chiến lợc phát triển
kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam. Thực tế
triển khai công tác định canh, định c ở nhiều địa phơng có những cách làm
sáng tạo có hiệu quả. Bài học kinh nghiệm của các địa phơng rất cần thiết khi
nghiên cứu vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phơng mình.
* Cao Bằng: Là một tỉnh miền núi, vùng cao biên giới, nền kinh tế còn
hết sức khó khăn, sản xuất chủ yếu vẫn là nông nghiệp và mang tính tự cung
tự cấp, khó khăn nhất vẫn là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng
kháng chiến cũ. Kinh nghiệm thành công nổi bật của Cao Bằng trong thực
hiện công tác định canh, định c đó là Cao Bằng luôn thấy rõ mối quan hệ giữa
định canh, định c với xoá đói giảm nghèo: Thực hiện định canh, định c mục
24
đích chủ yếu là khai thác tốt những tiềm năng có u thế của vùng, trên cơ sở đó
mà phát triển tổng hợp các ngành để tăng thu nhập nâng cao đời sống cho
đồng bào, xoá đợc đói, giảm đợc nghèo.
Vì vậy, công tác định canh, định c (các dự án) của Cao Bằng đều đợc đa
vào nội dung của chơng trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh trong từng giai
đoạn. Nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo tuy là một dự án riêng, nhng luôn đợc
lồng ghép với các dự án định canh, định c.
* Lâm Đồng: Là một tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên có 23.000
hộ, 140.000 ngời dân tộc bản địa sinh sống chiếm 20% dân số toàn tỉnh. Từ
kết quả của cuộc vận động định canh, định c của Lâm Đồng trong nhiều

năm qua có thể thấy một số bài học kinh nghiệm thành công nổi bật đó là:
- Lâm Đồng luôn đặt công tác định canh, định c là một công tác trọng
tâm trong tổng thể chơng trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời
đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, vì nếu chỉ riêng ngành nông nghiệp thì
không thể thành công đợc. Những năm qua, tỉnh Lâm Đồng đã rất chú trọng
vấn đề này nên trong thời gian tơng đối ngắn đã định canh, định c tơng đối tốt
cho đồng bào bản địa ở địa bàn rất khó khăn.
- Giải quyết dứt điểm từng địa bàn tùy khả năng đầu t theo phơng pháp
cuốn chiếu với phơng châm "làm từ khó đến dễ", nơi khó làm trớc, nơi dễ làm
sau. Sở dĩ tỉnh Lâm Đồng quyết định làm từ khó đến dễ là vì có làm những
điểm khó thì mới có nhiều kinh nghiệm và chứng minh đợc rằng nơi khó làm
đợc thì nơi dễ càng thuận lợi hơn. Do đầu t dứt điểm từng địa bàn nên tỉnh
Lâm Đồng đã tập trung đợc nguồn vốn, trung bình mỗi hộ đợc đầu t bình quân
20 triệu đồng. Muốn đầu t dứt điểm từng địa bàn theo phơng pháp cuốn chiếu
không dễ thì hiện nay nhiều địa phơng thờng đầu t dàn trải, bình quân, muốn
làm vừa lòng tất cả các nơi.
- Tỉnh đã xây dựng phơng hớng sản xuất cho vùng định canh, định c
một cách phù hợp, trong đó Lâm Đồng đặc biệt hết sức coi trọng việc xây
dựng vờn cây lâu năm cho mọi gia đình. Vờn cây lâu năm có ý nghĩa quan
25

×