Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Lịch sử giữ nước của nhân dân Yên Bái trong khách chiến chống đế quốc Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.24 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
I.

MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1

II.

NHÂN DÂN YÊN BÁI ĐOÀN KẾT KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU

NƯỚC............................................................................................................................... 1
III.

NHÂN DÂN YÊN BÁI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ TOÀN DIỆN...............3

1. Trên mặt trận kinh tế.............................................................................................4
2. Trên mặt trận giáo dục – y tế................................................................................5
3. Trên mặt trận giao thơng – vận tải.......................................................................6
4. Trên mặt trận chính trị - quân sự.........................................................................7
5. Trên mặt trận thông tin.......................................................................................11
IV.

NHÂN DÂN YÊN BÁI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ LÂU DÀI VÀ DỰA

VÀO SỨC MÌNH LÀ CHÍNH......................................................................................12
1. Trong giai đoạn 1954 – 1965. n Bái xây dựng trong điều kiện tương đối hịa
bình.............................................................................................................................. 12
2. Trong giai đoạn 1965 – 1972, Yên Bái xây dựng trong điều kiện có chiến
tranh: vừa xây dựng, vừa chiến đấu..........................................................................13
2.1.

Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (1965 –



1968).........................................................................................................................13
2.2.

Trong thời kỳ giữa 2 cuộc chiến tranh phá hoại (1969- 1972)........................14

2.3.

Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ (1972)................15

3. Trong giai đoạn 1972 – 1975, Yên Bái xây dựng trong điều kiện tương đối hịa
bình.............................................................................................................................. 16
V. KẾT LUẬN..............................................................................................................18


I.

MỞ ĐẦU
Trải qua lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, cùng những truyền thống
quý báu của dân tộc, nhân dân Yên Bái đã xây dựng nên nhiều truyền thông vẻ vang oanh
liệt. Truyền thống nổi bật nhất là tinh thần yêu nước quật cường, bất khuất, mưu trí sáng
tạo, kiên quyết đấu tranh với mọi loại kẻ thù xâm lược nối tiếp nhau từ đời này qua đời
khác.
Nằm ngay yết hầu của miền Tây Bắc Tổ quốc, Yên Bái đã trải qua bao thăng trầm
lịch sử, đã viết nên nhiều trang sử hào hùng trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Một
trong những trang sử hào hùng đó chính là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân Yên Bái. Nhân dân Yên Bái đã tham gia chiến đấu, xây dựng và đóng góp tích cực vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, qua đó cũng thể hiện
rõ lối vận dụng phương châm tiến hành chiến tranh nhân dân: tồn dân, tồn diện, lâu dài
và dựa vào sức mình là chính của nhân dân Yên Bái.

II.
NƯỚC

NHÂN DÂN YÊN BÁI ĐOÀN KẾT KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU

Phát huy tinh thần chiến đấu của cha ông, của dân tộc trong các cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm về trước. Đặc biệt là tiếp tuc phát huy tinh thần dân tộc, tinh thần chiến
đấu từ lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kêu gọi toàn quốc kháng chiến trong cuộc
kháng chiến chống Pháp ngày 19 tháng 12 năm 1946. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
toàn thể quân dân, các dân tộc anh em, các thành phần lao động trong xã hội của tỉnh n
Bái ln đồn kết keo sơn, tích cực tham gia chiến đấu đánh giặc.
Sau hiệp định Giơnevơ, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hồn
tồn được giải phóng, bắt đầu tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam còn dưới ách
thống trị của bọn đế quốc Mỹ và tay sai. Nhân dân miền Nam còn phải tiếp tục cuộc các
mạng dân tộc, dân chủ và đi tới thống nhất đất nước.
Tỉnh Yên Bái tuy được giải phóng từ tháng 10 năm 1952, nhưng vẫn phải tập trung
chi viện cho kháng chiến, sau năm 1954 mới bắt đầu khắc phục hậu quả của chiến tranh,
khơi phục kinh tế - văn hóa. Với nhiệm vụ: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là hậu
phương vững chắc cho các mạng miền Nam. Nhân dân Yên Bái cùng với nhân dân miền
Bắc luôn hướng về miền Nam thân u. Với tinh thần "Khơng có gì quý hơn độc lập tự do",
"Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược": Lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Yên
Bái đã vượt lên khó khăn, tập trung sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến. Toàn bộ
quân và dân Yên Bái hưởng ứng phong trào thi đua” Mỗi người làm việc bằng hai” vì miền


Nam ruột thịt trong lao động sản xuất. Các phong trào: "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Tay
cày tay súng", "Tay búa tay súng", "Mỗi người làm việc bằng hai", "Nghìn việc tốt", "Thóc
khơng thiếu một cân, qn khơng thiếu một người"... đã động viên đông đảo các tầng lớp
nhân dân sơi nổi tham gia, hừng hực khí thế đồn kết đánh Mỹ. Nhân dân Yên Bái vừa xây
dựng quê hương, vừa chi viện cho cách mạng miền Nam.1

Từ giữa năm 1965, sau những thất bại liên tiếp trong các chiến lược, chiến tranh, đế
quốc Mỹ dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc
với âm mưu là tiêu diệt các mục tiêu kinh tế, quân sự, giảm sự chi viện của hậu phương đối
với tiền tuyến.
Đế quốc Mỹ đánh phá Nhĩa Lộ ngày 15 tháng 06 năm 1965 và các trung tâm thị xã,
trường học, bệnh viện, nhà ga, đường sắt... Thị xã Yên Bái là một trong những mục tiêu hủy
diệt, nên đến quốc Mỹ đã gây ra cho Yên Bái tổn thất về người và của. Trước tình hình đó,
khắp nơi trong tỉnh đã dậy lên một khí thế sơi sục chiến đấu. Các trận địa phịng khơng
được hình thành, sẵn sàng đánh trả địch. Trong lao động sản xuất, hịa chung với khí thế thi
đua của cả nước, các đoàn thể quần chúng nhân dân Yên Bái phát động phong trào thi đua
như: thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”, phụ lão “ba giỏi”, và thiếu niên
“nghìn việc tốt” “căm thù giặc xâm lược”, tất cả dồn sức lực vào lao động sản xuất và chiến
đấu. Hàng trăm máy bay Mỹ đã phải đền tội với quân dân Yên Bái trên chính bầu trời của
Yên Bái.
Trước yêu cầu chi viện cho tiền tuyến lớn ngày một tăng, tỉnh đội Yên Bái đã gấp rút
tuyển quân, thành lập tiểu đoàn mang tên Yên Ninh I, biểu tượng của tình đồn kết sắt son
giữa nhân dân n Bái và nhân dân Ninh Thuận. Tiểu đoàn này đã lên đường vào miền
Đông Nam Bộ chiến đấu. Tiếp sau đó Yên Bái khẩn trương tuyển quân và thành lập các tiểu
đoàn Yên Ninh II, Yên Ninh III, Yên Ninh IV đưa vào chiến trường. Bên cạnh đó, n Bái
ln có một tiểu đồn dân cơng hỏa tuyến phục vụ chiến trường Lào. Đây là một trong
những đóng góp khơng nhỏ của nhân dân Yên Bái trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Từ năm 1954 đến năm 1975 với nhiệm vụ là hậu phương chi viện cho chiến trường
miền Nam, Toàn thể nhân dân Yên Bái vừa trực tiếp tham gia sản xuất vừa chiến đấu. Quân
và dân Yên Bái đã có những đóng góp như sau:
- Bắn rơi 115 máy bay các loại.
1 Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Yên Bái, Lịch sử Tỉnh Đảng bộ Yên Bái, tập I (1996).


- Đưa 4 tiểu đoàn Yên Ninh bổ sung cho chiến trường.

- Động viên 24.631 người nhập ngũ.
- Huy động 10.000.000 công phục vụ chiến đấu và 3.287 lượt người đi dân công hỏa
tuyến phục vụ chiến trường.
- Vận chuyển 30.000 tấn hàng.
- Thực hiện nghĩa vụ đóng góp lương thực: 154.000 tấn, góp phần vào sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.2
III. NHÂN DÂN YÊN BÁI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ TỒN DIỆN
Với tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy cam go, khốc liệt. Cũng như nhân
dân trên cả nước, nhân dân Yên Bái cũng vùng lên đòan kết đấu tranh kháng chiến chống
giặc Mỹ trên mọi mặt trận.
Yên Bái tuy đã được giải phóng từ tháng 10 năm 1952 nhưng vẫn phải tập trung chi
viện cho kháng chiến, sau năm 1954 mới bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Yên Bái lúc
này đứng trước rất nhiều khó khăn: nơng nghiệp lạc hậu, cơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp
chưa có gì, giao thơng vận tải bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tình hình an ninh, chính trị xã hội phức tạp, văn hóa, giáo dục, y yế phát triển chưa đáng kể.
Trước tình hình đó, quan triệt chủ trương đường lối của Đảng và căn cứ vào tình
hình thực tế của địa phương. Yên Bái đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh từ năm 1954
đến năm 1975 là: tập trung giải quyết nạn phỉ, ổn định xã hội, khôi phục sản xuất nơng
nghiệp, phát triển văn hóa xã hội, củng cố Đảng, chính quyền và các lực lượng vũ trang,
khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại.
Tiếp sau đó, thực hiện nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ
tỉnh đã ra Nghị quyết về nhiệm vụ của Yên Bái trong những năm 1958 đến năm 1960 là:
Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời ra sức phát triển văn hóa – xã hội, đề cao cơng
tác giáo dục vận động đối với vùng cao, chú trọng công tác xây dựng Đảng về việc vận
động xây dựng hợp tác xã nơng nghiệp kết hợp với hồn thành cải cách dan chủ, nhưng phải
có hình thức và biện pháp phù hợp với điều kiện và tình hình ở miền núi để đạt được kết
quả tốt.
Thự hiện chủ trương trên, nhân dân Yên Bái đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Cuối
năm 1955, Yên Bái đã giải quyết xong về cơ bản vấn đề tiểu phỉ, đẩy lùi nạn đói rách, thực
2 Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Yên Bái, Tài Liệu Lịch Sử Địa Phương (70 – 71)



hiện rộng rãi cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, giao thông
vận tải, phát triển văn hóa y tế, giáo dục, vận động quần chúng thực hiện chủ trương thành
lập khu tự trị Thái Mèo của Đảng.
1.

Trên mặt trận kinh tế
Đến năm 1956, trong cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất nhân dân Yên Bái
đã lấy 107,6 ha ruộng đất và 2.420 con trâu bò của chủ đồn điền chia cho nông dân. Thành
lập trên 3.700 tổ đổi công, thu hút 86% hộ nông dân tham gia. Phong trào thủy lợi phát triển
mạnh. Yên Bái đã điều hơn 1.000 con trâu bò cho các vùng thiếu, chuyển và bán 1 vạn nơng
cụ cho vùng cao. Năm 1956, sản lượng thóc đạt 52.000 tấn.
Cho đến năm 1959, cuộc vận động hợp tác hóa nơng nghiệp kết hợp cải cách dân chủ
n Bái đã thu hút được thắng lợi to lớn. Cuối năm 1959, tồn n Bái có 593 hợp tác xã
với 78.282 hộ tham gia (thu hút 77,7% tổng số hộ dân). Diện tích đất cày cấy mở rộng. Các
kỹ thuật thâm canh được áp dụng, năng suất lao động được nâng lên.
Song song với hợp tác hóa nơng nghiệp, tỉnh cũng đã tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với các thành phần kinh tế, thành phần các hợp tác xã thương nghiệp, thủ công,
vận tải. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh được mở rộng.
Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965):
Về nơng nghiệp: n Bái đã xây dựng được những hình thức hợp tác có quy mơ phù
hợp với khả năng quản lý của cán bộ, phù hợp với điều kiện miền núi, hồn thành nhiều
cơng trình thủy lợi ở: Báo Đáp, Hưng Khánh, Tô Mậu, Cam Cọn... Hệ thống mương, phai,
lái, lín, hồ chứa nước đảm bảo tưới tiêu cho các cánh đồng. Các kỹ thuạt canh tác mới và
phân bón được đưa vào phục vụ sản xuất nơng nghiêp. Năm 1965, tổng sản lượng nơng
nghiệp quy thóc của n Bái đạt 85.157 tấn.
Về lâm nghiệp từ năm 1961 đến năm 1965, phong trào trồng cây gây rừng được phát
động mạnh mẽ. Các cơ sở công nghiệp và các hợp tác xã thủ công nghiệp được chú trọng
đầu tư sản xuất. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1965 tăng 25% (so với năm 1960). 3
2.


Trên mặt trận giáo dục – y tế
Công tác giáo dục, y tế, văn hóa phát triển mạnh. Mạng lưới y tế được mở rộng đến
tận huyên, xã.
Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965):
3 Cục Thống kê tỉnh Yên Bái, Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái 1997.


Sự nghiệp giáo dục đào tạo có nhiều tiến bộ cả về lượng và chất. Hệ thống trường
lớp tăng nhanh. Phong trào bổ túc văn hóa và xóa nạn mù chữ diễn ra sôi nổi. Các trường sơ
cấp, trung cấp sư phạm, bổ túc công nông và trường dành riêng cho con em các dân tộc
được thành lập.
Hệ thống y tế vẫn tiếp tục được mở rộng, hầu hết các huyện đều có bệnh viện, bệnh
xá. Đến năm 1965, tồn tỉnh có 8 bệnh viện.
Trong giai đoạn (1955 – 1976):
Ngành giáo dục với việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của tỉnh. Một mặt phải đẩy
mạnh, phát triển giáo dục đẻ phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ chính trị - kinh tế, an ninh
quốc phòng của tỉnh. Mặt khác tiếp tục thực hiện các mục tiêu giáo dục của cả nước.
Chuyển hướng triệt để sang thời chiến, thực hiện phịng khơng sơ tán đảm bảo an tồn, duy
trì, giáo dục theo hướng “trường gần dân, quy mô nhỏ”.
Thực hiện đúng đường lối giáo dục của Đảng, đẩy mạnh phát triển giáo dục trong
hồn cảnh khó khăn, phức tạp. Tích cực thực hiện triệt để phương châm: “liên hệ lý luận với
thực tiễn, gắn nhà trường với đời sống xã hội”, bám sát mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ thành
những người phát triển mọi mặt, trung thành với tổ quốc, có tài có đức. Xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết của tỉnh ủy Yên Bái thời kỳ 1955 – 1976.
Trên cơ sở đó, Yên Bái tiếp tục xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục ngày càng
hoàn chỉnh:
- Thành lập Ủy ban chăm sóc bảo vệ bà mẹ trẻ em, nhưng chưa thực sự thuộc sự
quản lý của ngành giáo dục.

- Phát triển giáo dục, bao gồm giáo dục Mẫu giáo và 3 cấp học phổ thông.
- Mục tiêu giáo dục bình dân học vụ đã được đổi mới thành ngành Bổ túc văn hóa.
- Song cơng tác đào tạo chưa được chuyển giao quản lý thống nhất như ngày nay.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên lúc đầu mới có các hệ 4 + 3, 7 + 1 dạy cấp I. Từ năm
1962 không những đào tạo giáo viên cấp I mà tỉnh Yên Bái đã nâng cấp đào tạo giáo viên
cấp II, đồng thời nâng hệ đào tạo lên bậc 7 + 2, 7 + 3 và trình độ cao hơn, tiến tới tự tức
hồn tồn, khơng phải điều động giáo viên của các tỉnh đồng bằng, trung du cho tỉnh.


Trong thời kỳ này, việc xây dựng các điều kiện giáo dục như: đào tạo bồi dưỡng giáo
viên, xây dựng nội dung, chương trình, phịng học, bàn ghế, sách giáo khoa... trang thiết bị
thí nghiệm... đã dược thiết kế và chỉ đạo thực hiện thống nhất. Đó là kết quả nổi bật mà
trước đó do khó khăn trong chiến tranh chưa có điều kiện thực hiện. Kết quả: đến năm học
1955 – 1976, tồn tỉnh có 300 trường, 3.246 lớp, 101.083 học sinh, học viên. So với năm
1954 – 1955 tăng thêm 223 trường, 2.978 lớp, 86.000 học sinh (6,75 lần).4
3.

Trên mặt trận giao thông – vận tải
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Yên Bái luôn để giao thông
vận tải được khôi phục và mở rộng. Tuyến đường sắt được sửa chữa và đi vào hoạt động.
Có thể kể đến những đóng góp của bến Âu Lâu. Sau những ngày tháng phục vụ
chiến dịch Điện Biên Phủ, từ năm 1955 - 1965, bến được nâng cấp từ phà gỗ sang phà thép
có ca nơ dắt. Năm 1965 - 1968, với tinh thần: "Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng
cảm" bến đã có 100 lần đưa 500 lượt xe pháo qua sông, chuyên chở gần 200.000 lượt ơ tơ,
hàng ngàn tấn hàng hóa qua lại. Những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
chúng đã dùng nhiều tốp máy bay đánh phá trong 4 tiếng gây thiệt hại nặng nề cho thị xã
Yên Bái và bến phà Âu Lâu trong ngày 31 thánh 5 năm 1966. Năm 1967, bến Âu Lâu vinh
dự được Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua thăm nhân dịp lên chúc tết quân và dân hai tỉnh
Yên Bái. Ngày 18 tháng 12 năm 1972, giặc Mỹ lại tiếp tục tập kích n Bái trong đó có bến
Âu Lâu nhưng vẫn khơng cản được những chuyến phà chở người và lương thực, thực phẩm

tiếp tế cho chiến trường miền Nam.
Năm 1965, Nhân dân Yên Bái đã cùng với Trung đoàn 251 xây dựng sân bay Yên
Bái - một sân bay quân sự, dành cho máy bay Mic 17, Mic 19 của Quân đội ta cất và hạ
cánh, chiến đấu vô cùng dũng cảm với không quân Mỹ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của dân tộc; đơn vị sân bay Yên Bái đã lập nhiều chiến công xuất sắc, được Đảng
và Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân.
Khi mới lên Yên Bái, núi rừng âm u, hoang vắng, khó khăn chồng chất khó khăn,
song được Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đùm bọc, cưu mang
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để Trung đoàn hoàn thành nhiệm vụ giải phóng mặt bằng,
cung cấp lương thực, thực phẩm cho cả Trung đồn 251.
4.

Trên mặt trận chính trị - qn sự
Thực hiện âm mưu thơn tính nước ta, đế quốc Mỹ và tay sai đã điên cuồng chống
phá cách mạng miền Nam cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
4 Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Yên Bái, Tài Liệu Lịch Sử Địa Phương (78 – 81)


Từ năm 1961, chúng tung các toán gián điệp biệt kích vào miền Bắc, đặc biệt là các
vùng núi phía Bắc, trong đó, có Yên Bái và Nghĩa Lộ. Trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù,
lực lượng công an đã chủ động xây dựng phương án chống gián điệp biệt kích trên địa bàn
tồn tỉnh n Bái và thu được những chiến công xuất sắc.
Do chuẩn bị tốt thế trận nên các tốn gián điệp, biệt kích vừa tung ra Yên Bái đều bị
lực lượng vũ trang Yên Bái đón bắt, âm mưu gây cơ sở, thu thập tin tức và phá hoại các
cơng trình giao thơng, kinh tế, quân sự quan trọng của chúng đều bị thất bại. Điển hình, vào
ngày 27 tháng 5 năm 1961, Mỹ tung tốn gián điệp biệt kích nhảy dù xuống miền Bắc. Sau
4 ngày vây bắt, quân và dân Nghĩa Lộ, Yên Bái bắt được tồn bộ tốn biệt kích mang tên
"castor” nhảy dù xuống địa bàn xã Phiêng Ban, châu Phù Yên, Nghĩa Lộ, bắt tên cầm đầu
Hà Văn Chấp, dân tộc Thái.
Được sự đồng ý và chỉ đạo của Bộ Công an, Công an Yên Bái đã lập chuyên án đấu

tranh với trung tâm chỉ huy của địch ở miền Nam đạt kết quả tốt. Đây là vụ án chống gián
điệp biệt kích đầu tiên và thắng lợi, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Vụ thứ 2, vào
ngày 7 tháng 6 năm 1963, lực lượng Công an Yên Bái đã phối hợp với dân quân đã vây bắt,
gọi hàng 7 tên biệt kích thuộc tốn "belo” do Lý Văn Choi làm toán trưởng, xâm nhập vào
vùng Phong Dụ, Văn Bàn, Yên Bái với âm mưu xây dựng cơ sở, phá hoại đường sắt từ Trái
Hút đi Bảo Hà. Được sự đồng ý của Bộ Công an, Ty Công an Yên Bái đã lập chuyên án đấu
tranh.
Sau hơn 4 năm đấu tranh, ta đã thắng lợi lớn, tránh nhiều thiệt hại về cơ sở vật chất,
phương tiện; tổ chức bắt và tiêu diệt 13 tên địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược. Với tinh thần
cảnh giác cách mạng, lực lượng Cơng an n Bái cịn ngăn chặn kịp thời các hoạt động
gián điệp, chỉ điểm cho giặc Mỹ ném bom phá hoại. Đặc biệt, năm 1970, lực lượng Công an
Yên Bái khám phá vụ án phản động, bắt hai tên Đặng Tài Q, Hồng Văn Q lợi dụng
tình hình kinh tế tỉnh nhà khó khăn do chiến tranh phá hoại và việc chấp hành sai lệch chính
sách hợp tác xã của một số cán bộ cơ sở, tuyên truyền, lôi kéo một số người vào tổ chức lấy
tên là "Đảng thiểu số”, âm mưu phá kho thóc của hợp tác xã, tiến đánh công an huyện,
huyện đội, giết cán bộ, lập chiến khu.
Năm 1973, lực lượng công an đã tiến hành dập tắt việc "Xưng đón vua” ở huyện Mù
Cang Chải. Đầu năm 1974, tại cơng trình Thủy điện Thác Bà, xảy ra vụ nhen nhóm tổ chức
phản động lấy tên là "Ủy ban Cách mạng công nông binh Việt Nam” do tên Nguyễn Thanh
Mai cầm đầu. Ngày 7 tháng 2 năm 1974, Mai đã khởi thảo lời kêu gọi với danh nghĩa "Ủy
ban Cách mạng giải phóng cơng nơng binh tồn quốc”, gọi tắt là "Cơng nơng binh đỏ”,


đồng thời, vận động, lôi kéo 11 tên khác tham gia vào tổ chức. Bọn chúng đã may cờ, hội
họp nhiều lần, âm mưu hoạt động của chúng là tuyên truyền vào lực lượng quân đội và ngày
1 tháng 5 năm 1974, sẽ bạo loạn lật đổ chính quyền, gây thanh thế. Mai và đồng bọn đã
chuẩn bị 6 khẩu súng K44, 100 viên đạn để hành động. Được sự giúp đỡ của nhân dân,
tháng 4 năm 1974, Công an Yên Bái đã tổ chức bắt Nguyễn Thanh Mai và 11 tên khác, thu
toàn bộ tang vật của tổ chức này.
Trong những ngày tháng chiến tranh ác liệt, khi bom địch dội xuống địa bàn tỉnh Yên

Bái, bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng, cán bộ, chiến sỹ cơng an đã dũng cảm luồn lách
dưới mưa bom, lửa đạn, lao vào cứu người, cứu tài sản Nhà nước, tài sản của nhân dân,
khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định sản xuất. Cùng với đó, gần 100 đồng chí lên
đường chi viện cho chiến trường miền Nam, nhiều đồng chí đã lập cơng xuất sắc, có đồng
chí hy sinh một phần xương máu nơi chiến trường... Công an Yên Bái đã xây dựng và duy
trì hiệu quả Phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, phối hợp chặt chẽ với quân đội
nhân dân, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, quốc phịng tồn dân vững chắc, góp phần
cùng Đảng bộ, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống
nhất nước nhà do Đảng ta lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Với tinh thần “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, quân và dân Yên Bái đã anh
dũng, kiên cường chiến đấu, vừa khắc phục hậu quả chiến tranh vừa củng cố hậu phương
chiến lược, phối hợp với bộ đội chủ lực bắn rơi 115 máy bay Mỹ, trong đó, có chiếc máy
bay thứ 800 trên miền Bắc được Bác Hồ gửi thư khen ngợi.
Là địa bàn chiến lược, có Nhà máy Thủy điện Thác Bà, có đường sắt nối Hà Nội Lào Cai - Trung Quốc, cùng một số căn cứ quân sự, quốc phòng, Yên Bái trở thành trọng
điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng,
Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh đã lãnh đạo nhân dân, lực lượng vũ trang chuyển mọi
hoạt động của địa phương vào thời chiến, tích cực chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đối phó chiến
tranh phá hoại của Mỹ.5
Trong khí thế sục sơi của cả dân tộc, với khẩu hiệu “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược”, Yên Bái đã vượt qua khó khăn, tập trung nhân lực, vật lực với gần 6 triệu ngày
cơng đào 1.386 hầm cất giấu máy móc, 445 km giao thông hào, 634.403 hầm tập thể,
5 Lê Phiên, Bài viết “ Chiến cơng trừ biệt kích, chống gián điệp của Công an Yên Bái” đăng trên báo Yên Bái,
( />fbclid=IwAR3otgrBpcEQbxBdTXSMBMBCtOS6gcHhuw8BV52GkifrApZ-Njpz1W-RZPM), đăng ngày 29/04/2018.


727.056 hầm trú ẩn cá nhân, chi viện cho công trường thi công thủy điện Thác Bà, sân bay
Yên Bái...
Các phong trào: “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Tay cày tay súng”, “Tay bừa tay

súng”, “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Nghìn việc tốt”... đã động viên nhân dân Yên Bái
sơi nổi tham gia, tạo khí thế, sức mạnh đồn kết đánh giặc. Các lực lượng vũ trang tổ chức
336 đài quan sát, báo động, hình thành các cụm phịng không trọng điểm bảo vệ sân bay, thị
xã Yên Bái, cơng trình thủy điện. Các tổ bắn máy bay bằng súng bộ binh được tổ chức,
huấn luyện ở hầu hết các xã, các cơ quan, cơng trường, xí nghiệp hình thành lưới lửa phịng
khơng nhiều tầng, nhiều lớp sẵn sàng đánh máy bay Mỹ.
Ngày 15 tháng 6 năm 1965, không quân Mỹ bắt đầu đánh phá Nghĩa Lộ và ngày 9
tháng 7 năm 1965 đánh phá thị xã Yên Bái. Máy bay Mỹ điên cuồng trút bom xuống trung
tâm thị xã, các trường học, bệnh viện, nhà ga, đường sắt, cầu phà, công sở... gây nhiều thiệt
hại về người và tài sản. Cả tỉnh sơi sục khí thế chiến đấu, nhiều trận địa súng 12 ly 7 của
dân quân, tự vệ cùng các đơn vị pháo cao xạ của bộ đội chủ lực được bảo vệ những mục
tiêu quan trọng.6
Với tinh thần chủ động, tích cực sẵn sàng chiến đấu, lực lượng vũ trang thị xã Yên
Bái, Nghĩa Lộ và các vùng lân cận đã kịp thời nổ súng đánh trả máy bay Mỹ ngay từ những
phút đầu tiên.
Trong suốt thời gian từ 10 tháng 7 năm 1965 đến hết năm 1967, nằm trong những
trọng điểm đánh phá hủy diệt của không quân Mỹ, hiệu suất chiến đấu của các lực lượng vũ
trang Yên Bái ngày càng được nâng cao. Điển hình, ngày 10 tháng 7 năm 1965 ba tốp máy
bay Mỹ từ hướng Tây Nam bổ nhào đánh phá các mục tiêu ở thị xã Yên Bái, mặc dù dưới
mưa bom của địch, các lực lượng vũ trang Yên Bái vẫn kiên cường bắn trả. Ngay từ loạt
đạn đầu, một máy bay F105 đã bị trúng đạn; Tiểu đội 2 của Đại đội 2 bị bom vùi lấp, các
chiến sỹ vẫn anh dũng chiến đấu, bắn cháy thêm 1 máy bay.
Tháng 8 năm 1965, trong suốt 13 ngày máy bay Mỹ dồn dập đánh phá có tính hủy
diệt thị xã Yên Bái, gây cho ta tổn thất lớn (chết 138 người, bị thương 157 người) trong diện
tích chưa đầy 4 km2. Có ngày địch đã dùng tới 48 lượt máy bay phá hoại nhiều cầu, đường
sắt nhưng nhân dân và các lực lượng vũ trang Yên Bái vẫn kiên cường bám trụ, anh dũng
chiến đấu, bắn rơi 5 máy bay Mỹ. Ngày 20 tháng 8 năm 1965 tiểu đội dân quân dân tộc Tày,
6 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Yên Bái, Những trận đánh trên địa bàn Yên Bái trong các cuộc kháng chiến, tập I, xí nghiệp in
Hoàng Liên sơn, 1990.



xã Mậu Đông (Văn Yên) bằng súng bộ binh đã bắn rơi 1 máy bay F 105 (là chiếc máy bay
Mỹ đầu tiên do dân quân người dân tộc bắn hạ).
Ngày 26 tháng 8 năm 1965, bằng 10 viên đạn K44, dân quân xã Lang Thíp (Văn
Yên) đã bắn rơi tại chỗ 1 máy bay F105. Ngày 27 tháng 11 năm 1965 quân, dân Yên Bái
bắn rơi chiếc máy bay thứ 800 và 801 trên bầu trời miền Bắc. Kết thúc năm 1967, các lực
lượng vũ trang Yên Bái đã bắn rơi 99 máy bay Mỹ, góp phần quan trọng vào chiến thắng
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân lần thứ nhất của Mỹ.7
Năm 1972, cả nước chung sức chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ. Trong
12 ngày đêm quân dân Yên Bái - Nghĩa Lộ đã bắn rơi 15 máy bay, góp phần vào chiến
thắng chung của cả nước.
5.

Trên mặt trận thông tin
Trong giai đoạn 1965 - 1972 mặc dù phải chống lại cuộc chiến tranh phá hoạt bằng
không quân của Mỹ mà thị xã Yên Bái là một trong những trọng điểm bị ném bom hủy diệt,
nhưng tiếng nói từ "Truyền thanh Yên Bái” vẫn luôn được giữ vững, hàng ngày thông báo
kịp thời tin chiến thắng ở các chiến trường, động viên cán bộ, nhân nhân tích cực lao động
sản xuất, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến.
Cũng chính từ gian nan thử thách đó, đội ngũ những người làm cơng tác truyền thanh đã
từng bước trưởng thành, tạo tiền đề cho chặng đường phát triển tiếp theo.
Năm 1976, tỉnh Hoàng Liên Sơn được thành lập trên cơ sở hợp nhất 3 tỉnh: Yên Bái Lào Cai, Nghĩa Lộ. Theo đó, sự nghiệp truyền thanh được tăng cường cơ sở vật chất, đội
ngũ cán bộ viên chức. Sau khi tiếp quản Đài Phát sóng V3 của Đài Tiếng nói Việt Nam tại
Cam Đường, Đài Phát thanh Hồng Liên Sơn chính thức ra đời ngày 11 tháng 2 năm 1977,
Đài phát sóng chương trình đầu tiên đúng vào dịp khai mạc Đại hội Đảng bộ tỉnh Hoàng
Liên Sơn lần thứ I.
Đây là dấu mốc quan trọng mở ra thời kỳ báo điện tử với phạm vi phủ sóng đến các
địa bàn trong tỉnh; đồng thời, có điều kiện để làm phong phú, đa dạng nội dung tuyên truyền
qua các kênh chương trình phát thanh hàng ngày bằng 5 thứ tiếng: Việt, Thái, Giáy, Mơng,
Dao. Năm 1978, tỉnh lỵ Hồng Liên Sơn chuyển về thị xã Yên Bái và sau tháng 2 năm

1979, sự nghiệp phát thanh hầu như phải gây dựng lại từ đầu. Được Trung ương tăng cường

7 Cục Thông kê tỉnh Yên Bái, Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái 1998.


thêm 1 máy phát sóng trung và 2 máy phát sóng ngắn cơng suất từ 1 - 2,4Kw cùng máy ghi
âm MEZ 15 và sự giúp đỡ của thành phố Hồ Chí Minh cùng 5 tỉnh kết nghĩa phía Nam. 8
Các xã biên giới, các nông, lâm trường, cơ quan được trang bị máy tăng âm, loa
truyền thanh công suất lớn. Mặc dù cịn nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, song
đây là giai đoạn ghi dấu bước trưởng thành vượt bậc về tổ chức, trình độ chun mơn,
nghiệp vụ của Đài Phát Thanh Hồng Liên Sơn, góp phần hồn thành tốt việc tun truyền
thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
IV.
NHÂN DÂN YÊN BÁI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ LÂU DÀI VÀ DỰA
VÀO SỨC MÌNH LÀ CHÍNH
Nhân dân n Bái cũng như nhân dân khắp cả nước, trong cuộc kháng chiến chông
Mỹ với sự tương quan lực lượng giữa hai bên. Bên phe Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa với sức
mạnh quân sự lớn, trang bị vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại. Phương thức sản xuất phát
triển, tiềm lực kinh tế lớn. Do đó, phía ta phải khéo léo để phát huy được yếu tố “thiên thời,
địa lợi, nhân hịa”, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta
mạnh hơn địch. Nhân dân Yên Bái vẫn tiếp tục phát huy truyền thống kháng chiến lâu dài
và dựa vào sức mình là chính. Ln ln theo dõi mọi diễn biến, tình hình của cuộc kháng
chiến. Sẵn sàng tham gia, đóng góp và chiến đấu theo từng giai đoạn. Nhân dẫn Yên Bái
vẫn luôn bền bỉ và dai dẳng bắt nhịp với từng hơi thở của đất nước.
1.
hịa bình.

Trong giai đoạn 1954 – 1965. n Bái xây dựng trong điều kiện tương đối
Liên tục phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường đoàn kết kinh tế các dân tộc anh em.


Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965). Những thắng lợi thu được từ
năm 1954 đến năm 1960 đã đặt nền móng cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc
nước ta. Tháng 9 năm 1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô
Hà Nội. Đại hội khẳng định: Đại Hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh hịa bình thống nhất nước nhà. Đại hội thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất (1961 – 1965) và mục tiêu phấn đấu làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi của Đảng.
Quán triệt Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Đảng bộ và nhân dân
Yên Bái đã chủ động tiến hành Đại hội IV (tháng 1 năm 1961), trong đó nêu rõ 6 nhiệm vụ
lớn của Đảng bộ và nhân dân là:
8 Hà Minh Ất - Giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Yên Bái, Bài viết “Phát thanh - Truyền hình Yên Bái - 60 năm xây
dựng và phát triển”, ( />ItemID=16035&l=Tintrongtinh&fbclid=IwAR2l92awJQhiGPAMpOJND_1o3O5NdyJRdmwNJnJwn7TFW1S_rQBSQRuJ_
GQ), đăng ngày 25/08/2017.


- Tăng cường xây dựng hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
- Coi trọng phát triển công nghiệp và thủ cơng nghiệp, tích cực mở rộng thương
nghiệp quốc doanh, giao thơng vận tải.
- Nâng cao trình độ văn hóa, giác ngộ của nhân dân, đào tạo cán bộ và công nhân
lành nghề.
- Cải thiện một bước đời sống của nhân dân lao động, mở mang phúc lợi xã hội công
cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Đề cao cảnh giác, kiên quyết trấn áp mọi âm mưu và hành động phá hoại của bọn
phản cách mạng, củng cố chính quyền và các đồn thể quần chúng.
- Ra sức xây dựng Đảng để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới.
Sau Đại hội, tỉnh Yên Bái đã mở các lớp bồi dưỡng cho 396 phó và chủ nhiệm các
hợp tác xã, tổ chức nhiều đoàn cán bộ đi củng cố cơ sở, vận động cải tiến quản lý hợp tác
xã, cải tiến kỹ thuật, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ơ lãng phí. Tỉnh
cũng đã thành lập các trại giống để xác định các cây phù hợp với điều kiện đất đai, hình
thành một số vùng cây đặc sản như: chè, quế. Nền kinh tế độc canh bắt đầu chuyển dần
sang nền kinh tế đa dạng nhiều ngành nghề.9

Từ những chủ trương, đường lối của Đảng. Qn và dân n Bái ln chủ động tự
mình khắc phục khó khăn, gian khổ để đi tới đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Củng cố
và xây dựng lực lượng chính trị - quân sự, săn sàng tham gia, ửng hộ và chiến đấu với tinh
thần chiến đấu lâu dài trên nên tảng dựa vào sức mình là chính.
2.
Trong giai đoạn 1965 – 1972, Yên Bái xây dựng trong điều kiện có chiến
tranh: vừa xây dựng, vừa chiến đấu.
2.1. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (1965 – 1968).
Từ tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy
mô ngày càng mở rộng và các liệt. Chúng bắt đàu đánh phá Nghĩa Lộ ngày 15 tháng 6 năm
1965 và Yên Bái ngày mùng 9 tháng 7 năm 1965. Riêng thị xã Yên Bái là một trong những
mục tiêu hủy diệt của chúng, bị đánh đi đánh lại nhiều lần.
Trước tình hình đó, tỉnh n Bái đã nhanh chóng chỉ đạo chuyển hướng mọi hoạt
động kinh tế - xã hội sang thời kỳ chiến tranh. Chính quyên các cấp lập kế hoạch sơ tán,
9 Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Yên Bái, Nghị quyết phương hướng xây dựng hợp tac xã sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh
phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, 1964.


phân tán các cơ sở sản xuất, trường học, bệnh viện, huy động nhân lực vào việc xây dựng
trận địa, kéo pháo, làm đường cơ động, xây dựng sân bay Yên Bái, hình thành các trận địa
đánh trả máy bay địch.
Song song với công tác chuẩn bị chiến đấu, các tầng lớp nhân dân Yên Bái hăng hái
hưởng ứng các phong trào thi đua đang dấy lên trong cả nước, đó là: phong trào “Ba sẵn
sàng” của thanh niên, phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ, phong trào “Ba giỏi” của phụ
lão, phong trào “Làm nghìn việc tốt” “Em yếu quý anh bộ đội” “Căm thù giặc Mỹ xâm
lược” của thiếu niên.10
Kết quả, trong chiến đấu: bộ đôi chủ lực, bộ đội địa phương, và dân quân tự vệ ở các
địa phương đã bắn rơi 99 máy bay Mỹ, bắt sông nhiều phi công.
Trong sản xuất: nhân dân các dân tộc Yên Bái và Nghĩa Lộ vẫn bám đồng ruộng, nhà
máy, trường học để duy trì sản xuất và học tập. Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp

địa phương vẫn đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Mạng lưới giao thông đảm bảo
thông suốt. Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển. Đời sống văn hóa, tinh thần không ngừng
được nâng lên. Mạng lưới ý tế đã đáp ứng được nhu cầu phục vụ nhân dân trong điều kiện
có chiến tranh.
Bên cạnh đó, đồn viên thanh niên đã trở thành lực lượng nòng cốt tham gia chiến
đấu và phục vụ chiến đấu. Năm 1966 tỉnh đã thành lập 129 đội thanh niên xung phong
chống Mỹ cứu nước, huy động 1.500 thanh niên nhập ngũ. Tính đến cuối năm 1968, tồn
tỉnh n Bái có hơn 3.000 thanh niên nhập ngũ, riêng Nghĩa Lộ ln có một tiểu đồn dân
cơng hỏa tuyến phục vụ chiến trường Lào. Đây là một trong những đóng góp to lớn của
nhân dân Yên Bái vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
2.2. Trong thời kỳ giữa 2 cuộc chiến tranh phá hoại (1969- 1972).
Với thắng lợi to lớn của quân và dân 2 miên Nam – Bắc. Ngày 1 tháng 11 năm 1968
Mỹ phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc và chấp nhận họp Hội nghị Paris.
Trước tình hình đó, ta tranh thủ thời gian hịa bình để khơi phục kinh tế, tăng cường
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật làm cho miền Bắc nhanh chóng lớn mạnh, đáp ứng nhu
cầu to lớn của sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Quán triệt chủ trương của Đảng, Tỉnh ủy Yên Bái đã vạch ra kế hoạch của năm 1969
là: nhanh chóng khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh phá hoại lần I, tập trung sản
1010 Bộ Chỉ huy quan sự tỉnh Yên Bái, Yên Bái lích sử xây dựng và chiến đấu chống Mỹ xâm lược (1954 - 1975), nhà in
Yên Bái, 1993.


xuất, trọng tâm làm sản xuất nông nghiệp. Đồng thời thực hiện một bước điều lệ hợp tác xã
nông nghiệp bậc cao. Tiếp đó, tháng 1 năm 1970 Tỉnh ủy Yên Bái tiến hành Đại hội, đề ra
nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa, tăng cường nhiệm
vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh trật tự, củng cố Đảng, chính quyền, hậu phương, chi viện cho
tiền tuyến.
Qua hơn 3 năm thực hiện, Đảng bộ Yên Bái đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ đề ra.
Sản xuất lương thực được đẩy mạnh. Tổng sản lượng lương thực năm 1970 đạt 95.648 tấn.
Chăn nuôi phát triển. Đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao đã định cạnh, định cư, tham

gia hợp tác xã và làm tốt nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. An ninh quốc
phòng được củng cố. Nhân dân Yên Bái đã thực hiện tốt nhiệm vụ hậu phương chi viện cho
các mạng miền Nam.
2.3. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ (1972).
Tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 ở miền
Bắc. Cùng với nhân dân miền Bắc, quân và dân Yên Bái lại chuyển mọi hoạt động sang thời
chiến, kịp thời đưa dân đi sơ tán khỏi các khu vực trọng điểm, các xí nghiêp di chuyển máy
móc về nơi an tồn, chỉ để lại một bộ phận nhỏ vừa sản xuất, vừa chiến đấu.
Tỉnh đội Yên Bái đã phối hợp tác chiến với Trung đồn 231, 254. Lực lượng pháo
phịng khơng phối hợp với lực lượng dân quân tự vệ thành các cụm phịng khơng bảo vệ
những khu vực trọng điểm mà địch có thể đánh phá. Hàng loạt máy bay F4 đã tan xác trên
bầu trời Yên Bái, góp phần vào chiến công chung của quân và dân miền Bắc.
Với bản chất ngoan cố, xảo quyệt, đế quốc Mỹ đã mở cuộc tập kích chiến lược lớn
12 ngày đêm cuối năm 1972, từ ngày 18 đến ngày 29 tháng 12 năm 1972 vào Hà Nội, Hải
Phòng, Thái Nguyên... ở Yên Bái, chúng dùng máy bay đánh phá dữ dội vào sân bay n
Bái. Các đơn vị pháo phịng khơng đã anh dũng giáng trả địch những địn đánh đích đáng.
Đêm ngày 27 tháng 12 năm 1972, phi công Phạm Tuân đã lái máy bay Mic 21, cất cánh từ
sân bay Yên Bái, bắn rơi một máy bay B52 và hạ cánh an tồn. Cuộc tập kích chiến lược
đường khơng quy mơ lớn của Mỹ đã bị quân và dân ta đập tan. Ngày 30 tháng 12 năm
1972, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.11
Sau những thất bại nặng nề trên lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giáo, đế quốc mỹ
buộc phải ký hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa
bình ở Việt Nam.
11 Bộ Chỉ huy quan sự tỉnh Yên Bái, Yên Bái lích sử xây dựng và chiến đấu chống Mỹ xâm lược (1954 - 1975), nhà in Yên
Bái, 1993.


Trải qua 7 tháng vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Nhân dân Yên Bái đã bắn rơi 15 máy
bay Mỹ, đời sống xã hội đảm bảo ổn định, an ninh quốc phịng được củng cố và tăng cường.
3.

hịa bình.

Trong giai đoạn 1972 – 1975, Yên Bái xây dựng trong điều kiện tương đối

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp đinh Paris được ký kết. Miền Bắc trở lại hịa bình.
Tháng 6 năm 1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ khôi phục và phát triển
kinh tế miền Bắc.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Đảng bộ Yên Bái đã đề ra phương hướng và nhiệm
vụ cụ thể là: tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây
dựng cơ bản, củng cố và phát triển văn hóa – xã hội, chuyển các mặt hoạt động kinh tế - xã
hội từ thời chiến trở lại thời bình, đưa các cơ sở sản xuất từ nơi sơ tán về tập trung.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái, sản xuất nông – lâm nghiệp có bước
phát triển. Cơng tác thủy lợi được coi trọng. Năm 1975 năng suất lúa 2 vụ của tỉnh đạt 5
tấn/1 ha. Tổng sản lượng lương thực đạt 88.561 tấn. Tỉnh đã trồng thêm được 120 ha quế,
284 ha mía và 6.872 ha chè. Đàn gia súc nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu về sức kéo.
Công tác xây dựng và củng cố hợp tác xã nông nghiệp được giữ vững. Năm 1975, Yên Bái
có 661 hợp tác xã, trong đó có 533 hợp tác xã đưa lên quy mô bậc cao.
Công nghiệp, thủ công nghiệp mới từ nơi sơ tán trở về tập trung nên cịn nhiều khó
khăn cần phải khắc phục. Một số nhà máy, xí nghiệp mới được thành lập như: nhà máy chè
Trần Phú (1975), nhà máy chè Yên Ninh (1975), các xí nghiệp rượu, đường, bánh kẹo, giấy,
mây đan... đã đi vào hoạt động.
Công tác lưu thơng phân phối, tài chính, thương nghiêp cũng đã được phát triển, đảm
bảo cung cấp các nhu cầu thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sông nhân dân. Giá cả thị
trường ổn định.
Về giao thông vận tải: Yên Bái đã nhanh chóng sửa chữa lại cầu, phà, đường. Mở
316 km đường mới, sửa chữa và làm mới 2.494 km đường nông thôn, bắc lại 64 cầu nhỏ và
lắp 117 cống các loại.
Các trường học, bệnh viện, trạm xá đã từ nơi sơ tán chuyển về những khu tập trung
dân cư. Bên cạnh đó, n Bái cịn tiếp đón chu đáo 1.069 hộ với 5.210 nhân khẩu ở các tỉnh
Thái Bình, Nam Hà, Hải Hưng lên khai hoang lập làng kinh tế mới, tổ chức 22 hợp tác xã

mới cho đồng bào khai hoang và giúp đồng bào đi vào ổn định cuộc sống. Cùng với những
thành quả về khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ và nhân dân Yên Bái còn làm


tốt công tác hậu phương quân đội để người ra đi yên tâm cầm súng và động viên thanh niên
lên đường vào Nam chiến đấu. Trong 3 năm (1971 -1973) Yên Bái đã huy động được 7.336
thanh niên tham gia nhập ngũ. Riêng năm 1975 có 1.869 thanh niên lên đường vào chiến
trường miền Nam.
Ta có thể thấy, trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Quân và dân n
Bái vẫn ln dịng dã, bám đuổi, theo sát mọi hoạt động, mọi hơi thở của cuộc kháng chiến.
Dù trong hồn cảnh nào, dù trong hịa bình thì nhân dân n bái vẫn ln nỗ lực khắc phục
mọi khó khăn, gian khổ để phát triển về mọi mặt. Sẵn sàng, chủ động làm nền tảng hậu
phương vững chắc cho tiền tuyến an tâm cầm súng chiến đấu. Thậm chí ngay cả trong
trường hợp có chiến tranh, nhân dân Yên Bái vẫn kiên cường, bất khuất, dũng cảm chống
trả lại địch. Xây dựng quê hương trong điều kiện vừa xây dựng, vừa chiến đấu. Bằng chính
sức lực của mình, chính ý chí với tinh thần sáng tạo. Nhân dân Yên Bái đã tự mình bảo vệ
lấy quê hương, đất nước. Xây dựng quê hương đất nước phát triển giàu mạnh. Cùng một lúc
Yên Bái đã thực hiện được hai nhiệm vụ: chiến đấu, bảo vệ quê hương đất nước, xây dựng
và làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyền, cho chiến trường.
V.

KẾT LUẬN
Kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân Yên Bái đã chứng
minh cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân tỉnh Yên Bái là một cuộc kháng chiến nhân
dân với phương châm: toàn dân, tồn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Thực tế
nhìn nhận, nhân dân n Bái bằng chính sức lực của mình, đồn kết keo sơn tồn dân đánh
đuổi giặc Mỹ trên mọi mặt trận. Không những đấu tranh xây dựng bảo vệ được quê hương
mà nhân dân n Bái cịn góp phần to lớn vào cơng cuộc xây dựng, đấu tranh, bảo vệ tổ
quốc. Vừa xây dựng, vừa chiến đấu. Yên Bái đã thực hiện tốt cùng một lúc hai nhiệm vụ: là
hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn, cho chiến trường miền Nam ruột thịt đồng thời

cũng thành công trong việc đấu tranh bảo vệ quê hương làm nên sự thất bại của đế quốc Mỹ
tại Việt Nam.
Nhân dân Yên Bái đã có những đóng góp to lớn vào cơng cuộc bảo vệ và dựng xây
đất nước. Thắng lợi của Nhân dân Yên Bái trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đã góp
phần kết thúc q trình chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách
thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền
làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


Thông qua thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của nhân dân
Yên Bái ta có thể rút ra những bài học quý giá trong lịch sử giữ nước:
Một là, toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách
mạng nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam.
Hai là, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến
tranh.
Ba là, lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp.
Bốn là, khơng ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong
chiến tranh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Yên Bái, Lịch sử Tỉnh Đảng bộ Yên Bái, tập I (1996).
2. Bộ Chỉ huy quan sự tỉnh Yên Bái, Yên Bái lích sử xây dựng và chiến đấu chống Mỹ
xâm lược (1954 - 1975), nhà in Yên Bái, 1993.
3. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Yên Bái, Những trận đánh trên địa bàn Yên Bái trong các cuộc
kháng chiến, tập I, xí nghiệp in Hồng Liên sơn, 1990.
4. Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Yên Bái, Nghị quyết phương hướng xây dựng hợp tác xã
sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, 1964.
5. Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Yên Bái, Tài Liệu Lịch Sử Địa Phương.
6. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã Yên Bái, Lịch sử Đảng bộ thị xã Yên Bái, tập I, 1988.

7. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Yên Bái, Lịch sử quân sự tỉnh Yên Bái (1930 – 1995), 1996.
8. Cục Thống kê tỉnh Yên Bái, Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái 1997.
9. Cục Thông kê tỉnh Yên Bái, Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái 1998.
10. Cổng Thông tin điện tử tỉnh Yên Bái, (), truy cập ngày
22/12/2019.


11. Trang Thông tin Thư viện tỉnh Yên Bái, (), truy cập này

22/12/2019.
12. Đại tá Nguyễn Văn KỲ - Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy

13.

14.

15.

16.

17.

quân sự tỉnh Yên Bái, Bài viết “Yên Bái với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”,
( />cuu_nuoc.htm), đăng ngày 30/04/2008.

Phiên,
Bài
viết
“Yên
Bái

ngày
ấy,
bây
giờ”,
( đăng ngày
29/04/2016.
Lê Phiên, Bài viết “ Chiến công trừ biệt kích, chống gián điệp của Cơng an n Bái”,
( />_cua_Cong_an_Yen_Bai.htm?
fbclid=IwAR3otgrBpcEQbxBdTXSMBMBCtOS6gcHhuw8BV52GkifrApZ-Njpz1WRZPM), đăng ngày 29/04/2018.
Hà Minh Ất - Giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Yên Bái, Bài viết “Phát thanh Truyền hình Yên Bái - 60 năm xây dựng và phát triển”,
( />ItemID=16035&l=Tintrongtinh&fbclid=IwAR2l92awJQhiGPAMpOJND_1o3O5NdyJR
dmwNJnJwn7TFW1S_rQBSQRuJ_GQ), đăng ngày 25/08/2017.
Bùi Huy Mai, Bài viết “Những ca khúc về Yên Bái “Đi cùng năm tháng”,
( />m?
fbclid=IwAR0NPZOdiS36W8t06JNn5g_0PztFdTgJlCY4N7QmjQ0vXi2iK8AJYLPz9C
E), đăng ngày 27/05/2011.
L.V.H, Bài viết “Cảm hứng lịch sử - dân tộc trong thơ Ngọc Bái,
( đăng ngày
20/04/2016.



×