Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích bản chất của tiền tệ các hình thái biểu hiện của giá trị vì sao để đảm nhiệm chức năng hương tiện lưu thông hải có tiề p p n mặt liên hệ sự vận dụng lý thuyết này trong điều tiết vĩ mô n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.68 KB, 14 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
-----o-----

Họ và tên: Đinh Phương Anh

Mã Sinh viên: 2173402011002

Khóa/Lớp: (Tín chỉ) LT1

(Niên chế):

STT:

ID phịng thi: 580 058 0007

01

Ngày thi: 12/04/2022

CQ59/10.25

Ca thi: 9h15

BÀI THI MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Hình thức thi: Bài tiểu luận - Mã đề thi: Đề 1
Thời gian làm bài: 3 ngày
Tổng số trang: 12
ĐỀ BÀI
Phân tích bản chất của tiền tệ. Các hình thái biểu hiện của giá trị. Vì sao để
đảm nhiệm chức năng p hương tiện lưu thơng p hải có tiền mặt. Liên hệ sự vận


dụng lý thuyết này trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay.
1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người, sản xuất xã hội mang tính tự cung tự
cấp, nhu cầu của con người bị giới hạn nhất định do sự hạn chế của lực lượng sản
xuất. Chỉ đến khi lực lượng sản xuất phát triển và có những thành tựu nhất định,
nhu cầu của con người mới dần được đáp ứng nhiều hơn. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất cũng chính là nhân tố dẫn đến đến sự thay đổi từ nền kinh tế tự
nhiên sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa và đỉnh cao là nền kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường cũng là xu thế tất yếu của các quốc gia vì mục tiêu
phát triển. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta lựa chọn xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, đất nước ta có sự thay đổi mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch
sử về kinh tế, xã hội, văn hóa, đối ngoại… Thơng qua các chính sách kinh tế vĩ mơ,
đặc biệt là các chính sách về tài chính và tiền tệ, Nhà nước đã quản lý nền kinh tế
một cách hiệu quả, linh hoạt. Ngoài ra, chặng đường 15 năm gia nhập WTO cũng
góp phần tạo điều kiện cho Việt Nam tăng trưởng nền kinh tế không ngừng và tự
tin hội nhập toàn cầu.
Tuy nhiên, việc vận dụng các lý luận tiền tệ vào nền kinh tế của Việt Nam vẫn
còn nhiều trở ngại, do phương pháp điều hành chính sách tồn tại nhiều hạn chế.
Với đặc điểm của nền kinh tế nước ta, quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh
vực trong nền kinh tế thị trường địi hỏi cán bộ, cơng chức làm cơng tác quản lý
phải nắm chắc các quy luật của kinh tế thị trường và vận dụng nó nhằm đạt được
hiệu quả cao nhất, hạn chế những rủi ro phát sinh trong q trình tổ chức quản lý.
Chính vì thế, việc nghiên cứu và hiểu rõ lý luận tiền tệ là một điều hết sức cần

thiết để vận dụng vào điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
2


NỘI DUNG
I. Bản chất của tiền tệ
1. Định nghĩa
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hố, là sản phẩm của quá trình phát
triển sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Theo Mác, tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá
làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động
xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hố
Theo kinh tế học thì “Tiền tệ là tiền khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện
thanh toán, là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng
hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế”
Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền
tệ là phạm trù kinh tế, đồng thời là phạm trù lịch sử. Quá trình xuất hiện của tiền tệ
cho ta thấy, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Điều đó có nghĩa
rằng: tiền tệ phát sinh, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển và tổn
tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bởi vậy ở đâu cịn sản xuất và trao đổi hàng
hóa ở đó cịn tồn tại tiền tệ và khi nào khơng cịn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì
lúc đó sẽ khơng cịn tiền tệ nữa
2.Bản chất
Quốc gia nào cũng có những đồng tiền riêng, lịch sử ra đời và phát triển của
tiền tệ đã được ghi nhận từ những hoạt động sớm nhất của con người. Ở cuối thời
kỳ công xã nguyên thủy, chế độ tư hữu xuất hiện, sản xuất và trao đổi hàng hóa,
tiền tệ đã xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực tiếp hàng đổi hàng
hoặc có thể mua bán thơng qua tiền tệ. Tiền tệ là vật trung gian môi giới trong trao
3



đổi hàng hoá, dịch vụ, là phương tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ
dàng hơn.
Bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ hơn qua hai thuộc tính sau của nó:
Giá trị sử dụng của tiền tệ là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội,
nhu cầu sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi . Như vậy người ta sẽ chỉ cần nắm
giữ tiền khi có nhu cầu trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ là do xã hội qui
định: chừng nào xã hội còn thừa nhận nó thực hiện tốt vai trị tiền tệ (tức là vai trị
vật trung gian mơi giới trong trao đổi) thì chừng đó giá trị sử dụng của nó với tư
cách là tiền tệ cịn tồn tại. Đây chính là lời giải thích cho sự xuất hiện cũng như
biến mất của các dạng tiền tệ trong lịch sử.
Giá trị của tiền được thể hiện qua khái niệm “sức mua tiền tệ”, đó là khả năng
đổi được nhiều hay ít hàng hố khác trong trao đổi. Tuy nhiên khái niệm sức
mua tiền tệ khơng được xem xét dưới góc độ sức mua đối với từng hàng hoá nhất
định mà xét trên phương diện tồn thể các hàng hố trên thị trường.
Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt vì:
Thứ nhất, tiền tệ cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của
tiền tệ cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết sản xuất ra vàng (bạc) quyết
định. Giá trị sử dụng của tiền tệ làm môi giới trong mua bán và làm chức năng tư
bản.
Thứ hai, là hàng hóa, tiền tệ cũng có người mua, người bán, cũng có giá cả (lợi
tức). Giá cả của hàng hóa tiên tệ cũng lên xuống xoay quanh quan hệ cung cầu.
Thứ ba, đóng vai trị làm vật ngang giá chung.

4


II.

Các hình thái biểu hiện của giá trị

Giá trị của hàng hóa là trừu tượng, chúng ta khơng nhìn thấy giá trị như nhìn

thấy hình dáng hiện vật của hàng hóa; giá trị của hàng hóa chỉ đực bộc lộ ra trong
q trình trao đổi thơng qua các hình thái biểu hiện của nó.Theo tiến trình lịch sử
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, những hình thái của giá trị cũng trải
qua quá trình phát triển từ thấp tới cao. Q trình này cũng chính là lịch sử hình
thành tiền tệ, cụ thể:
1. Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên
Đây là hình thái phơi thai của giá trị, nó xuất hiện ở giai đoạn đầu của trao đổi
hàng hố, khi trao đổi mang tính ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này
lấy vật khác.
VD: 1m vải = 5kg thóc
hoặc Hàng hố A = 5 hàng hoá B
Giá trị của hàng hoá A được biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hố B, cịn
hàng hố B dùng làm hình thái biểu hiện giá trị của hàng hố A. Hàng hố A ở
vào hình thái giá trị tương đối, cịn hàng hố B (mà giá trị sử dụng của nó biểu
hiện giá trị của hàng hố A) thì ở vào hình thái ngang giá. Quan hệ trao đổi đó chỉ
có tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi cũng là ngẫu nhiên.
Hàng hố đóng vai trị vật ngang giá là hình thái phơi thai của tiền tệ.
2. Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị
Khi lực lượng sản xuất phát triển, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất,
năng suất lao động xã hội tăng lên thì sản phẩm thặng dư cũng nhiều hơn, do đó,
trao đổi hàng hóa cũng thường xuyên hơn. Khi đó, một hàng hóa có thể được trao
đổi với nhiều hàng hóa khác.

5


52kg
cái thóc

bàn
Ví dụ: 10m2 vải = {3 con cừu

Như vậy, hình thái vật ngang giá được mở rộng ra ở nhiều hàng hoá khác
nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
3. Hình thái chung của giá trị
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn một bậc nữa, sản phẩm thặng dư sẽ
nhiều hơn nữa làm cho trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, dần dần xuất hiện
hàng hóa trung gian trong trao đổi. Những hàng hóa trung gian phải mang tính
thơng dụng, có ý nghĩa kinh tế đối với một bộ tộc, một địa phương, một vùng...
Khi đã có hàng hóa trung gian, người ta dễ dàng hơn trong việc trao đổi lấy hàng
hóa mà họ cần. Hình thái mở rộng của giá trị đã phát triển thành hình thái chung
của giá trị.
Ví dụ:

2kg thóc
5m vải = { 5 cái bàn
3 con cừu

Ở đây, giá trị của mọi hàng hóa đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai
trị làm vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một
thứ hàng hoá nào. Các địa phương khác nhau thì hàng hố dùng làm vật ngang giá
chung cũng khác nhau.
4. Hình thái tiền
10m2 vải
Ví dụ: 0,1 chỉ vàng = { 5 cái bàn
2kg thóc
Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một hàng hóa độc tơn và phổ biến
thì hình thái tiền tệ xuất hiện.


6


Khi bạc và vàng cùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ gọi là chế độ
song bản vị. Khi chỉ cịn vàng độc chiếm vị trí tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi
là chế độ bản vị vàng.Tại sao vàng và bạc, đặc biệt là vàng lại có được vai trị tiền
tệ như vậy?
Thứ nhất, nó cũng là một hàng hố, chúng có cả giá trị sử dụng và giá trị. Giá
trị sử dụng của vàng, bạc như dùng làm đồ trang sức, làm các chi tiết sản phẩm
công nghiệp... Giá trị của vàng, bạc được đo bằng lượng lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra chúng bao gồm hao phí lao động để tìm kiếm, khai thác, chế tác
vàng bạc. Vì vậy, chúng có thể mang trao đổi với các hàng hố khác.
Thứ hai, nó có những ưu điểm từ thuộc tính tự nhiên như: thuần nhất, dễ chia
nhỏ, dát mỏng, ít hao mịn, dễ vận chuyển, trọng lượng nhỏ nhưng có giá trị cao...

III. Tiền mặt thực hiện chức năng phương tiện lưu thông
Tiền thực hiện chức năng lưu thông tức là tiền làm mơi giới cho q trình trao
đổi hàng hóa. Tiền làm mơi giới giúp trao đổi hàng hóa dễ dàng hơn. Trong giai
đoạn đầu, trao đổi hàng hóa H-H.Khi tiền tệ ra đời hàng hóa trao đổi qua trung
gian là tiền : H-T-H
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông bắt buộc phải sử dụng tiền mặt,
bởi vì trong q trình trao đổi này có sự chuyển nhượng quyền sở hữu giữa người
sở hữu hàng hóa và người sở hữu tiền tệ. Bằng chứng duy nhất chứng minh lao
động của người sản xuất hàng hóa bỏ ra là cần thiết cho xã hội, khi mà hàng hóa
của họ được bán hết và “giấy chứng nhận” đó chính là tiền mặt. Mặt khác, đây là
chức năng vận động của tiền tệ, nên phải có sự vận động của tiền tệ mới có sự vận
động của hàng hóa.

7



Trong lưu thông lúc đầu người ta dùng tiền vàng, bạc nhưng sau đó thay thế
bằng tiền đúc, và ngày nay là dùng tiền giấy, có hình dáng, kích thước và tiêu
chuẩn giá cả nhất định được luật pháp Nhà nước thừa nhận và có giá trị lưu
thơng.
Trong lưu thơng , không yêu cầu nhất thiết là tiền vàng , khơng nhất thiết cần
tiền có đủ giá trị, chỉ cần xã hội công nhận là được, cùng với những ưu điểm của
tiền giấy, tiền giấy ra đời.
Nhưng vì tiền giấy bản thân khơng có giá trị mà chỉ là kí hiệu của tiền vàng nên
Nhà nước không thể in bao nhiêu tiền giấy cũng được mà phải tuân theo quy luật
lưu thơng tiền giấy. Quy luật đó là: “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn
trong số lượng vàng hay bạc do tiền giấy đó tượng trưng, lẽ ra phải lưu thông thực
sự” Khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá khối
lượng tiền cần cho lưu thơng, thì giá trị tiền tệ sẽ bị giảm xuống, lạm phát sẽ xuất
hiện.

IV. Liên hệ sự vận dụng lý thuyết trên trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Một trong những mục tiểu quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế vĩ mơ của
nhà nước đó chính là hạn chế khủng hoảng dẫn đến những biến động kinh tế vĩ mô,
làm thay đổi những biến số cơ bản, thông qua việc sử dụng đồng bộ các chính sách
tài khố và chính sách tiền tệ để đưa nền kinh tế trở lại trạng thái ổn định, p hát triển
nền kinh tế một cách bền vững. Từ những năm 1980 trở lại đây, trong số các công
cụ điều tiết vĩ mơ nền kinh tế của nhà nước thì chính sách tiền tệ là chính sách rất
quan trọng trong nền kinh tế thị trường, góp phần vào sự thành công hay thất bại
8


trong sự phát triển kinh tế vì nó tác động trực tiế p vào lưu thơng tiền tệ và kiểm

sốt lạm phát. Nó có mối liên hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mơ khác
như chính sách tài khóa, chính sách giá cả và thu nhập.
Khơng nằm ngoài xu hướng chung của thế giới, ở Việt Nam trong những năm
qua, chính sách tiền tệ được sử dụng như là công cụ chủ yếu để điều chỉnh kinh tế
vĩ mơ. Điều này có thể thấy rõ trong q trình điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Kể từ năm 2007 đến nay, chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước đưa ra luôn là: góp phần tăng trưởng kinh tế để giải quyết
cơng ăn việc làm, kiềm chế lạm phát. Cách mà Ngân hàng Nhà nước thường sử
dụng chính là điều tiết lượng cung tiền và điều hành lãi suất phù hợp tình hình lạm
phát, tình hình cung - cầu về vốn, chú ý vấn đề thanh khoản các ngân hàng.
Nhờ những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với các chính sách điều tiết
kinh tế vĩ mơ linh hoạt, hiệu quả của nhà nước đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát
triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu
nhập trung bình thấp chỉ trong vịng một thế hệ. Những thành tựu đó được cụ thể
hóa bằng những dữ liệu kinh tế vĩ mô như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan; tỷ
lệ thất nghiệp ở mức thấp; tỷ lệ lạm phát duy trì trong phạm vi cho phép; cán cân
thương mại dần được cải thiện theo hướng thuận lợi.
Đến nay có khoảng trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Việt Nam đã tạo được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng
động. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo
tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng
kinh tế. Mơi trường đầu tư trở nên thơng thống hơn, thu hút ngày càng nhiều các
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu
và phát triển thêm một số ngành nghề tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn. Việc
trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã góp phần thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới, là cơ hội
9


tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất

nước.
Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt gần 2.800 USD.
Cũng trong giai đoạn này, tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 1,9 USD/ngày) giảm mạnh từ
hơn 32% năm 2011 xuống còn dưới 2%. Đặc biệt, trong giai đoạn 2015-2020, kinh
tế Việt Nam có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại, giảm dần
nguồn lực khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (gọi là khu vực 1), nguồn
lực phân bổ cho khu vực công nghiệp, khai khoáng, xây dựng (khu vực 2) và khu
vực dịch vụ (khu vực 3) tăng dần. Nhờ đó, nền kinh tế thu hút ngày càng nhiều các
nguồn lực quan trọng.
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu
đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, vài năm trở lại đây là đại dịch
COVID-19. Trong bối cảnh sự suy thoái kinh tế diễn ra trên toàn cầu, nền kinh tế
Việt Nam cũng vượt qua khơng ít khó khăn, để đạt tốc độ tăng trưởng dương trong
năm 2020 (2,91%), tuy không đạt được mục tiêu đề ra nhưng Việt Nam thuộc
nhóm các nước có mức tăng trưởng cao nhất thế giới; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm
phát được kiểm soát ở mức thấp.
Cùng với việc vận dụng sáng tạo lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cần quan
tâm một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ,
thiếu nhất quán trong q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy những
tiềm lực để phát triển kinh tế còn hạn chế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường
cần phải cải thiện rõ ràng.
10


Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, lực lượng sản xuất
nhiều số lượng lớn thiếu việc làm , năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh

quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực lượng cho phát triển chưa đồng đều, lãng
phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội , tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh
thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng quê vùng xa
chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền
kinh tế.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng
theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy
động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng
trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy
nhiên,việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội
mà phải được cân nhắc tính tốn cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng
phát triển nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo
đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường...
2.

Liên hệ vận dụng hiệu quả lý luận tiền tệ của C.Mác trong điều tiết vĩ

mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, Việt Nam đã thành công
khi áp dụng đúng đắn một số biện pháp được vận dụng hiệu quả từ lý luận tiền tệ
của C. Mác. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường của Việt Nam đã có những bước tiến
đáng kể và đầy triển vọng. Trong những năm gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã
điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với
chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mơ khác nhằm kiểm sốt lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ và ngoại hối, hỗ trợ phục hồi kinh tế trước
diễn biến phức tạp của dịch Covid-19.
11



Thứ nhất, về điều hành lãi suất: Liên tục điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi
suất với quy mô lớn để hỗ trợ nền kinh tế đồng thời chỉ đạo tổ chức tín dụng chủ
động “cân đối khả năng tài chính” qua đó áp dụng lãi suất cho vay hợp lý, triệt để
tiết giảm chi phí hoạt động. Việt Nam là 1 trong các quốc gia có mức giảm lãi suất
điều hành mạnh nhất (so với các nước trong khu vực) Tính chung từ đầu năm 2020
đến nay Ngân hàng Nhà nước đã 03 lần điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất
với tổng mức giảm tới 1,5-2,0%/năm lãi suất điều hành; giảm 0,6-1,0%/năm trần
lãi suất tiền gửi; giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Thứ hai, về điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước điều hành, công bố tỷ giá
trung tâm linh hoạt hàng ngày phù hợp diễn biến thị trường, cân đối kinh tế vĩ mô,
tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ. Tỷ giá USD/VND diễn biến phù hợp với điều
kiện thị trường và biến động của USD trên thị trường thế giới.
Thứ ba, về điều hành tín dụng, N gân hàng Nhà nước chủ động điều hành hợp lý
tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với mức độ mức hấp thụ của nền kinh tế, tập
trung vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng, lĩnh vực ưu tiên, theo chủ
trương của Chính phủ, góp phần quan trọng khơi phục hoạt động sản xuất kinh
doanh, duy trì tăng trưởng kinh tế sau dịch. Tín dụng đối với lĩnh vực rủi ro được
kiểm sốt chặt chẽ. Do cầu tín dụng suy yếu bởi tác động tiêu cực của đại dịch
Covid-19 nên tín dụng tăng thấp hơn các năm trước. Đến 21/12/2020, tín dụng tăng
10,14% so với cuối năm 2019, tăng 11,62% so cùng kỳ 2019.
Thứ tư, chính sách tiền tệ phối hợp với chính sách tài khóa và các chính sách
khác. Ngân hàng Nhà nước trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ với bộ, ngành
trong cơng tác điều hành chính sách tiền tệ, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát,
phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính giúp ổn định thanh khoản hệ thống, kiểm soát
tiền tệ và tạo điều kiện để giảm lãi suất trái phiếu chính phủ 2 tháng đầu năm 2021,
mặt bằng lãi suất trái phiếu chính phủ tiếp tục xu hướng giảm khoảng 0,10,19%/năm ở các kỳ hạn.
12



Thứ năm, tập trung vốn hỗ trợ doanh nghiệp, người dân tháo gỡ khó khăn
và khơi phục sản xuất kinh doanh, tái khởi động nền kinh tế nhất là các lĩnh vực ưu
tiên như: Gia hạn thời hạn nộp các khoản thuế và tiền thuê đất; miễn, giảm các
khoản thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất.,. 3/2021, phát triển nông nghiệp, nông thôn
đạt 2.327.762 tỷ đồng. Đây là lĩnh vực có dư nợ lớn nhất trong 5 lĩnh vực ưu tiên.

KẾT LUẬN
Lý luận tiền tệ của C. Mác là một trong những nội dung cơ bản của học thuyết
kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, nó là cơ sở lý luận để địi hỏi đảm bảo tính cạnh tranh,
tính cơng bằng và hồn thiện thể chế kinh tế, cải thiện vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước. Trách nhiệm và vai trò của chính sách tiền tệ là cực kì lớn, mang tính
quyết định đến việc hoàn thành các kế hoạch, mục tiêu và các giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội mà Chính phủ đã đề ra qua từng năm. Trong đó, mục tiêu giữ ổn
định kinh tế vĩ mơ, thúc đẩy và duy trì tăng trưởng, hỗ trợ tăng trưởng là những
nhiệm vụ trọng tâm. Với đặc điểm của nền kinh tế nước ta, trong quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự vận dụng lý thuyết này trong điều tiết vĩ
mô nền kinh tế một cách chính xác, phù hợp và linh hoạt. Do đó, bám sát sự chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước với sứ mệnh điều hành chính
sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
đã và đang vận dụng lý luận tiền tệ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam. Có thể khẳng định, lý luận và thực tiễn nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này không chỉ tạo tiền đề xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam mà cịn góp phần bổ sung, phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại mới.
13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


[ 1 ] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin
[ 2 ] C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, 1993, t.23,
tr.89, tr193
[ 4 ] Vĩnh Nguyên.Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường - Tạp chí
Quản lý nhà nước
[ 5 ] ThS. Ngô Quang Thịnh. Giá trị và sức sống của lý thuyết hàng hóa - tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Tạp chí Cơng Thương
[ 6 ]
[ 7 ]

14



×