MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..….1
1.1. Lí do chọn đề tài……………………………….……………………..1
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………..…………..1
1.3. Đối tương nghiên cứu…………………..…………………………….2
1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………….….2
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm…………………….…..2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM………………...………………..3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm………………….…………3
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu………………………..………….5
2.3. Các giải pháp đề xuất của sáng kiến………………………...……….5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm………………..…….……… 17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………...……………………………..19
3.1. Kết luận………………………..……………………………………19
3.3. Kiến nghị……………………..……………………………………..19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ (CỤM TỪ) VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
Từ (cụm từ) viết tắt
THPT
SKKN
GV
HS
Từ (cụm từ) viết đầy đủ
Trung học phổ thông
Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo viên
Học sinh
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
“Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người
thầy xuất chúng biết minh họa, người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng” William A. Warrd.
Tơi rất thích câu nói của William A.Warrd – một nhà giáo dục nổi tiếng
người Mỹ. Vì vậy, đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học luôn
là trăn trở hàng đầu của những người lái đị chúng tơi. Bao năm đứng trên bục
giảng, tôi nhận thấy rằng một giờ học chất lượng không phải là một giờ học
“lặng như tờ”, cơ nói, trị nghe và ghi chép bài đầy đủ mà phải là một giờ học
mở, học sinh là trung tâm, là chủ thể của quá trình tự khai thác và lĩnh hội kiến
thức. Để có được những tiết học chất lượng đó là cơng sức, niềm đam mê và sức
sáng tạo của người thầy, cộng thêm sự hợp tác, chủ động tích cực từ người học.
Cứ mỗi năm một chút, chúng tơi đã làm mới bài giảng của mình để mỗi tiết học
trôi qua trong hiệu quả nhất mà vẫn hào hứng và ấn tượng đối với học trò.
Sinh học là một môn học vô cùng thú vị, phản ánh rõ ràng nhất hơi thở
của thế giới tự nhiên, quy luật tồn tại của sinh vật. Nhưng một bộ phận học sinh
vẫn cho rằng đó là một mơn học khơ khan, khó hiểu. Sứ mệnh của chúng tơi là
khơng ngừng sáng tạo để đổi mới cách dạy, từ đó tìm được sự hứng thú của học
trị. Một trong những kinh nghiệm nhỏ của tôi là lồng ghép văn học dân gian (ca
dao, tục ngữ, thành ngữ) vào bài giảng. Nội dung lồng ghép có thể ở bất cứ hoạt
động nào trong bài: vào bài, hoạt động nhận thức bài mới, cũng có thể là kiểm
tra, củng cố,… Nhận thấy, nhân dân ta đang sở hữu một khối tài sản tri thức vơ
cùng lớn từ văn học dân gian. Đó là những đúc kết kinh nghiệm quan sát tỉ mỉ
và tinh tế của ông cha ta từ ngàn đời nay. Chúng ta có thể kết nối văn học dân
gian với bộ môn sinh học một cách khéo léo nhất để các em vừa thu nhận kiến
thức bài học vừa thêm yêu quê hương, yêu dân tộc qua những câu ca dao, tục
ngữ, thành ngữ đó. Tơi vơ cùng u văn học dân gian nhưng nhiều khi vẫn chưa
hiểu nghĩa đầy đủ của một câu ca dao, một câu tục ngữ. Vì vậy, “dạy là học lại
lần nữa”, qua việc sưu tầm và sử dụng ca dao, tục ngữ, …vào bộ môn sinh học,
tôi đã rõ nghĩa hơn và thêm yêu văn học Việt Nam nói chung và văn học truyền
miệng nói riêng.
Với những trăn trở đó, tơi muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp những kinh
nghiệm về việc “Tích hợp văn học dân gian nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy
môn sinh học ở trường trung học phổ thông – Chương trình chuẩn”
1.2. Mục đích nghiên cứu
SKKN được viết với mục đích:
- Tạo hứng thú cho HS khi học mơn Sinh học – chương trình chuẩn THPT
(vốn được coi là một mơn học khơ khan, khó hiểu). Rèn luyện cho các em một
phương pháp học tập tích cực và làm chủ tư duy logic.
1
- Xây dựng sáng kiến như một tài liệu tham khảo trong thực tế giảng dạy
môn Sinh học – chương trình chuẩn THPT, có lồng ghép tích hợp kiến thức văn
học dân gian.
- Chia sẻ với đồng nghiệp một sáng kiến nhỏ của bản thân trong quá trình
giảng dạy của mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung mơn sinh học tồn cấp và kho tàng văn học dân gian của dân tộc
Việt Nam.
Hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS trong quá trình lồng
ghép văn học dân gian (ca dao, tục ngữ, thành ngữ) vào chương trình chuẩn sinh
học cấp trung học phổ thông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành tốt sáng kiến tơi đã sử dụng kết hợp một số phương pháp
sau:
- Nghiên cứu phân tích, tổng hợp tài liệu: Nghiên cứu tài liệu lí luận
dạy học mơn sinh học, tài liệu về tâm lí học, lơgic học có liên quan đến đề tài để
làm cơ sở định hướng cho quá trình nghiên cứu. Nghiên cứu các tài liệu có liên
quan đến chương trình tồn cấp học đồng thời tham khảo qua Internet và các tài
liệu chuyên ngành.
- Phương pháp phỏng vấn, điều tra: Chủ yếu là vấn đáp trực tiếp đại
diện HS tất cả các lớp trong khối học để có những thay đổi hợp lý, sau đó là sử
dụng phiếu điều tra về mức độ hứng thú môn học của tất cả HS lớp phụ trách.
Phương pháp này rất hiệu quả vì HS được nói lên ý kiến chủ quan và những
mong muốn của mình.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Tôi trực tiếp tiếp cận đối tượng
nghiên cứu của đề tài bằng giác quan của mình (quan sát sư phạm trực tiếp) và
tiếp cận gián tiếp thông qua các đoạn phim, các ảnh chụp (quan sát sư phạm
bằng máy)
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Bằng việc xử lý kết quả phiếu
điều tra đo độ hứng thú với môn học ở 2 thời điểm khác nhau rồi so sánh, nhận
định tính hiệu quả của việc có hay khơng áp dụng các phương pháp trong sáng
kiến.
Đó là những phương pháp cơ bản, ngồi ra tôi cũng vận dụng một số
phương pháp khác để có một SKKN hồn chỉnh.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Việc tích hợp kiến thức các mơn học không hề mới trong thực tiễn giáo
dục hiện nay. Để đáp ứng đòi hỏi đổi mới của giáo dục, các môn học dần gắn kết
hơn với nhau qua các bài giảng có kiến thức tích hợp của các thầy cơ. Nhưng
các mơn học thường được tích hợp với nhau thường là những môn học cùng ban
(ban khoc học tự nhiên hay ban khoa học xã hội). Tôi mạnh dạn lồng ghép văn
2
học dân gian vào bộ mơn sinh học của mình (hai mơn học ít có sự liên quan) với
cùng một mong muốn đó.
Sáng kiến cung cấp một hệ thống câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong
kho tàng văn học dân gian trong đó có giải nghĩa (bao gồm nghĩa thực, nghĩa
chuyển) chi tiết, hi vọng sẽ là một tài liệu thiết thực cho bản thân và các đồng
nghiệp.
3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
* Cơ sở lý luận
Căn cứ theo CV1695/SGD&ĐT – GDCN ngày 9/9/2015 của Giám đốc Sở
Giáo dục & Đào tạo Thanh Hóa V/v Hướng dẫn công tác SKKN và NCKH năm
học 2015-2016 và những năm học tiếp theo.
* Cơ sở thực tiễn
- Thực tiễn tại trường THPT Chu Văn An – Thành phố Sầm Sơn – Thanh
Hóa về mức độ tiếp thu kiến thức, mức độ tư duy và u thích mơn học, hứng
thú của học sinh khi học môn học Sinh học năm học 2017 – 2018 và 2018 2019; cơ sở vật chất của nhà trường phục vụ cho việc dạy và học.
- Nội dung bộ mơn sinh học tồn cấp THPT:
Bộ mơn Sinh học – THPT chương trình chuẩn gồm 7 phần:
+ Sinh học 10 gồm:
Phần I. Giới thiệu chung về thế giới sống.
Phần II. Sinh học tế bào.
Phần III. Sinh học vi sinh vật.
+ Sinh học 11 gồm
Phần IV. Sinh học cơ thể.
Sinh học 12 gồm:
Phần V. Di truyền học.
Phần VI. Tiến hóa.
Phần VII. Sinh thái học.
* Khái quát về văn học dân gian.
Văn học dân gian là các tác phẩm nghệ thuật ngơn từ truyền miệng, sản
phẩm của q trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp các sinh
hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Văn học dân gian tồn tại và lưu hành
theo phương thức truyền miệng. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản giữa văn học
dân gian và văn học viết. Quá trình truyền miệng vẫn tiếp tục kể cả khi tác phẩm
văn học dân gian đã được ghi chép lại. Một điểm vô cùng đáng trân trọng là văn
học dân gian ra đời trong lao động, là bức tranh toàn diện về cuộc sống lao động
và đời sống tinh thần của người bình dân.
Văn học dân gian có rất nhiều thể loại từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ, hát
đối, hát vè,…
Tục ngữ: Câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp,
đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong giao tiếp hàng ngày của
nhân dân. Ví dụ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”.
Thành ngữ: là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều
người quen dùng, nhưng riêng nó khơng diễn đạt được một ý trọn vẹn. Ví dụ
như: “Của ít lịng nhiều”, “Một nắng hai sương”,…
Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là
một câu hồn chỉnh. Cịn tục ngữ dù ngắn đến đâu vẫn là một câu hoàn chỉnh.
4
Ca dao được hiểu là những câu thơ có thể hát thành những làn điệu dân
ca, ru con... hoặc ca dao là lời dân ca đã lược bỏ đi những luyến láy khi hát. Ca
dao để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học.
Ca dao tục ngữ là niềm tự hào to lớn của dân tộc Việt Nam. Khơng phải
dân tộc nào cũng có được văn chương và thi sĩ tính như thế. Non nước Việt Nam
đẹp nghìn thu, vơ song. Người nước Việt cũng khác thường. Trải qua nhiều thời
đại, kho tàng văn chương bình dân Việt Nam càng phong phú, súc tích với biết
bao câu tục ngữ, ca dao, những câu hát điệu hị mn hình vạn trạng.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Những năm gần đây, trường THPT Chu Văn An với hơn 40 lớp thuộc 3
khối học với hơn 1500 học sinh. Tất cả các lớp đều học ban Cơ bản nhưng có
định hướng mơn khối xét tuyển đại học hay tốt nghiệp từ đầu năm lớp 10 nên
hầu hết các em đều không tập trung học đều ở các môn.
Sử dụng phiếu điều tra (phụ lục 1) đo độ hứng thú với môn học trên 150
HS ở 4 lớp 11A4, 11A7, 12A2, 12A12 sau khi kết thúc học kì I năm học 2018 –
2019 với 4 mức độ: Không hứng thú, bình thường, hứng thú và rất hứng thú.
Sau khi thu thập số liệu và xử lý tơi có bảng sau:
Lớp
Sĩ
Khơng hứng thú Bình thường Hứng thú
Rất hứng thú
số
SL
%
SL
%
SL %
SL %
11A4 41
17
41,5 12
29,2 7
17,1 5
12,2
11A7 41
14
34,2 12
29,2 10
24,4 5
12,2
12A2 45
16
35,5 15
33,3 7
15,6 7
15,6
12A12 48
15
31,3 23
47,9 5
10,4 5
10,4
Như vậy, số lượng HS thấy hứng thú với môn học là thấp (51/175 khoảng
29,1%), đa số xem việc học môn này là nghĩa vụ thay vì niềm u thích, hứng
khởi thật sự.
Để các em có niềm đam mê, hứng thú và học tốt mơn học này là một
thách thức đối với các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy nói chung và cá nhân tơi
nói riêng. Vì vậy, u cầu được đặt ra là trong mỗi bài dạy, mỗi tiết học, mỗi
phần học giáo viên cần tìm ra các giải pháp tạo hứng thú cho học sinh, để học
sinh khơng học đối phó, học vẹt mà vì đam mê và u thích thực sự.
2.3. Các giải pháp đề xuất của sáng kiến.
* Hệ thống ca dao, tục ngữ, thành ngữ được sưu tầm và tích hợp trong
chương trình
(1). “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng.”
Đây là câu ca dao rất quen thuộc với người nông dân Việt Nam. Ngồi
việc giúp học sinh nhớ lại nghĩa bóng của câu ca dao là khi sử dụng thành quả
hôm nay cần biết ơn cơng lao của người tạo ra,…chúng ta có thể khai thác nghĩa
5
thực của câu ca dao (hình thức nhân giống vơ tính: giâm cành) khi dạy bài 41.
Sinh sản vơ tính ở thực vật và bài 43. Thực hành: Nhân giống vơ tính ở thực vật
- Sinh học 11.
(2). “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.” (Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam –
Vũ Ngọc Phan, 2017)
Trong bài 31, 32. Tập tính ở động vật – Sinh học 11, lệnh trang 125 yêu
cầu HS cho biết câu ca dao trên phản ánh tập tính bẩm sinh hay tập tính học
được.
Chuồn chuồn bay thấy hay bay cao phụ thuộc vào áp suất của khí quyển
chứ khơng phải là tập tính của lồi. Khi sắp mưa, độ ẩm khơng khí cao, những
hạt hơi nước nhỏ bé sẽ đọng lại trên các cánh mỏng của chuồn chuồn, làm tăng
tải trọng và khiến chúng phải bay thấp là đà sát mặt đất. Khi trời nắng hoặc râm
mát, độ ẩm khơng khí thấp, chuồn chuồn có thể bay cao được. Nhờ vào quan sát
tinh tế mà nhân dân ta đã đúc rút thành câu ca dao trên để dự đoán thời tiết nắng
mưa.
(3). “Rừng vàng biển bạc.”
Câu thành ngữ rất “quen miệng” này dường như cho chúng ta nghĩa thực
là sự giàu có, trù phú về tài nguyên thiên nhiên của đất nước Việt Nam. Nhưng
bên cạnh đó, để rừng ln là vàng và biển ln là bạc thì chúng ta cần khai thác
hợp lí và bảo vệ hiệu quả. Với câu thành ngữ này, chúng ta có thể lồng ghép để
dạy cho HS trong bài 46. Thực hành: Quản lí và sử dụng bền vững tài nguyên
thiên nhiên – Sinh học 12.
(4). “Tôm chạng vạng, cá rạng đông.”
Đây là câu tục ngữ mà chúng ta có thể sử dụng khi dạy bài 31, 32. Tập
tính của động vật – Sinh học 11 và bài 35. Môi trường sống và các nhân tố sinh
thái, mục III.1. Thích nghi của sinh vật với ánh sáng. – Sinh học 12.
Câu tục ngữ chỉ ra kinh nghiệm đánh bắt tôm, cá của ngư dân Việt Nam
dựa vào tập tính kiếm ăn của tơm và đa số lồi cá là vào lúc chạng vạng (chập
tối) hay rạng đông hửng sáng. Đây là những tập tính bẩm sinh, đặc trưng cho
lồi.
(5). “Ngư ơng ngụp lặn như cóc bơi vơi.”
Câu thành ngữ này chế giễu những ngư dân không biết lặn nhưng lại đề
cập đến đặc điểm sinh học của lồi cóc – đại diện cho lớp lưỡng cư. Lồi cóc nói
riêng và lớp lưỡng cư nói chung đều hơ hấp qua da và phổi nhưng hơ hấp qua da
rất quan trọng. Vì vậy nếu bơi vơi lên da của cóc thì khi xuống nước, cóc sẽ
khơng thở được và phải ngoi lên, ngụp lặn như ngư ơng khơng biết lặn và sẽ
chết sau đó.
Câu thành ngữ trên có thể lồng ghép khi dạy bài 17. Hô hấp ở động vật –
Sinh học 11 để học sinh hiểu về câu thành ngữ và có thể khắc sâu kiến thức về
hô hấp của lưỡng cư.
(6). “Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa.” (Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam
– Vũ Ngọc Phan, 2017)
6
Khi dạy bài 15, 16. Tiêu hóa ở động vật – Sinh học 11, GV có thể lồng
ghép vào để làm rõ tác dụng của tiêu hóa cơ học đối với q trình tiêu hóa thức
ăn của động vật và người, qua đó giáo dục kiến thức sức khỏe tiêu hóa cho HS.
Khi ăn, nhai càng kĩ thì hiệu quả tiêu hóa càng cao, cơ thể hấp thụ được nhiều
chất dinh dưỡng hơn nên no lâu cũng như tác dụng của cày sâu đối với năng suất
cây trồng.
(7). “Ăn có chừng, dùng có mực.”
Về mặt sinh học, câu tục ngữ này có liên quan đến vấn đề tiêu hóa, có thể
lồng ghép để giáo dục sức khỏe tiêu hóa khi dạy bài 15, 16. Tiêu hóa ở động vật
– Sinh học 11. Việc ăn uống rất quan trọng đối với sức khỏe con người nhưng
tùy vào độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp,…mà mỗi người cần cân nhắc khi ăn về
lượng và chất để có một sức khỏe tối ưu nhất.
(8). “Trời nóng chóng khát, trời mát chóng đói.”
Trời nóng, cơ thể mất nhiều mồ hơi nên chóng khát, trời mát cơ thể mất
nhiều năng lượng (tăng dị hóa) cho việc làm ấm cơ thể nên cơ thể nhanh đói. Về
kiến thức sinh học, đây chính là những phản xạ khơng điều kiện (phản xạ đơn
giản) ở người. Chúng ta có thể sử dụng khi dạy bài 27. Cảm ứng ở động vật
(tiếp theo) – Sinh học 11.
Tương tự, chúng ta có thể sử dụng các câu thành ngữ “Rét run cầm cập”,
“Run như cầy sấy” để làm ví dụ cho nội dung trên. Khi cơ thể bị lạnh, mạch máu
co lại, cơ co làm xuất hiện hiện tượng rung lắc cơ thể để sản nhiệt. Đây cũng là
tập tính bẩm sinh ở động vật và người.
(9). “Nắng tháng ba, chó gà thè lưỡi.”
Khi dạy mục II.1. Tập tính bẩm sinh - Bài 31. Tập tính của động vật –
Sinh học 11, ta có thể dẫn ra câu tục ngữ để làm ví dụ đồng thời củng cố lại kiến
thức mà các em đã học ở Sinh học 8 về thân nhiệt. Đây là tập tính bẩm sinh của
chó, gà do chúng khơng có tuyến mồ hơi nên phải giảm nhiệt bằng cách thè lưỡi.
Do dưới lưỡi của chúng có tuyến nước, khi thè lưỡi, nước trong miệng sẽ giúp
giảm nhiệt cho cơ thể.
(10). “Của không ngon nhà đông con cũng hết.”
Về mặt nghĩa thực, câu tục ngữ trên phản ánh vấn đề khó khăn của các gia
đình đơng con. Mặt khác, câu tục ngữ ca ngợi cuộc sống quây quần, sum vầy
bên gia đình thật vui vẻ, ấm cúng khiến bữa ăn thật ngon miệng dù thức ăn có
đơm sơ, đạm bạc. Câu tục ngữ này có thể lồng ghép vào bài 32. Tập tính của
động vật (tiếp theo) để làm ví dụ cho tập tính bầy đàn và hiệu quả nhóm ở động
vật.
(11). “Uốn cây từ thuở cịn non.
Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.”
Trong mục VI. Ứng dụng những hiểu biết về tập tính vào đời sống và sản
xuất – Bài 32. Tập tính của động vật (tiếp theo) – Sinh học 11.
Với lệnh: “Cho vài ví dụ về tập tính học được chỉ có ở người (khơng có ở
động vật)”, GV có thể đưa ra câu ca dao này để củng cố thêm cho HS về vai trò
7
của sự giáo dục của gia đình và sự rèn luyện của bản thân để chúng ta có những
thói quen tốt sau này (phản xạ có điều kiện).
(12). “Nữ thập tam, nam thập lục”
Ở bài 46. Cơ chế điều hòa sinh sản – Sinh học 11, GV có thể lồng ghép
câu tục ngữ trên vào bài. Thập tam nghĩa là mười ba, thập lục nghĩa là mười sáu,
đây là tuổi dậy thì, độ tuổi mà con người có khả năng sinh sản. Nhưng do chế độ
dinh dưỡng ngày nay được cải thiện rất nhiều nên độ tuổi dậy thì của các bé trai,
bé gái thường sớm hơn. Ở tuổi dậy thì, cơ thể và tâm sinh lí của các em có nhiều
thay đổi nên GV trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về giới tính, về cách
phịng tránh thai và những hệ quả xấu có thể xảy đến trong độ tuổi chưa trưởng
thành của các em.
(13). “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy”,
“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”,
“Mẹ nào con nấy”,
“Cha nào con nấy”.
Một số câu thành ngữ rất hay nói về tính di truyền, GV có thể sử dụng để
làm sinh động bài dạy trong phần 5. Di truyền học – Sinh học 12.
Về nghĩa thực, câu tục ngữ “Giỏ nhà ai quai nhà ấy” được hiểu như thế
nào.“Giỏ” được nhắc đến trong câu tục ngữ chính là một dụng cụ nhỏ để đựng
các đồ vật nhỏ hay thực phẩm rất tiện dụng, “quai” là một bộ phận của chiếc
“giỏ” kia, nó lại có tác dụng để cầm, nắm, mang, xách… giúp cho việc sử dụng
chiếc giỏ thuận lợi hơn. Mỗi chiếc giỏ có một chiếc quai tương xứng với kích
thước, màu sắc, chất liệu,… là việc mà người thợ làm giỏ cần lưu ý.
Về nghĩa chuyển, câu “Giỏ nhà ai quai nhà ấy” nói về mối quan hệ huyết
thống trong gia đình hay dịng tộc. Đó chính là tính di truyền của kiểu gen. Tuy
nhiên chúng ta cần giải thích cho HS rõ rằng: ngồi tính di truyền cịn có tính
biến dị nên ngồi những nét giống bố mẹ, con cái vẫn có những nét riêng, khác
với bố mẹ hoặc anh chị em ruột. Biến dị và di truyền là hai đặc tính quan trọng
của sinh vật.
GV có thể lồng ghép những câu tục ngữ trên khi dạy phần V. Di truyền
học – Sinh học 12 để bài học thêm sinh động, lôi cuốn.
(14). “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”.
Đây là câu tục ngữ mà ta có thể sử dụng khi dạy chương V. Di truyền học
người – Sinh học 12, khi khai thác trong mục I.2. Tư vấn di truyền và việc sàng
lọc trước sinh – Bài 22. Bảo vệ vốn gen của loài người và một số vấn đề xã hội
của di truyền học. Trong quá trình hướng dẫn HS làm một số bài tập phả hệ
người, chúng ta củng cố thêm tính di truyền của tính trạng thơng qua câu tục
ngữ trên.
(15). “Lấy chồng từ thuở mười ba
Đến nay mười tám em đà năm con”
Chỉ là một câu ca dao phản ánh hủ tục tảo hôn của người phụ nữ trong xã
hội cũ, chúng ta nên lồng ghép vào để làm sinh động thêm khi dạy mục II. Sinh
đẻ có kế hoạch – Bài 47. Điều khiển sinh sản ở động vật và sinh đẻ có kế hoạch
8
ở người – Sinh học 11. Qua đó, GV có thể giáo dục giới tính và sức khỏe sinh
sản cho HS về độ tuổi có thể kết hơn, hậu quả của việc kết hôn sớm, nhất là làm
cha mẹ ở độ tuổi vị thành niên. Từ đó, củng cố thêm cho các em kiến thức pháp
luật về độ tuổi kết hôn tối thiểu là 20 đối với nam và 18 đối với nữ.
(16). “Tấc đất tấc vàng.”
Câu thành ngữ này có thể sử dụng trong bài 46. Thực hành: Quản lí và sử
dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên” – Sinh học 12. Câu thành ngữ muốn
nhắc nhở chúng ta về vai trò của đất đai với đời sống con người. Đất cho chúng
ta lương thực, tài sản, vì vậy chúng ta cần quý đất, sử dụng hợp lý tài nguyên
đất. Từ đó, chúng ta có ý thức bảo vệ tài ngun thiên nhiên nói chung.
(17). “Ếch kêu m m, ao chuôm đầy nước.”
Đây là một kinh nghiệm của ông cha ta về dự báo thời tiết. Chúng ta có
thể đưa vào để dạy trong bài 31. Tập tính của động vật – sinh học 11, mục II.1.
Tập tính bẩm sinh. Ếch là động vật rất mẫm cảm với sự thay đổi của thời tiết.
Khi trời chuẩn bị kéo cơn mưa, ếch thường kêu trên bờ ao, bờ mương. Nhờ vào
đó, chúng ta dự đốn trời sẽ mưa và hệ quả là “ao chm đầy nước”.
(18). “Tháng bảy kiến bị, chỉ lo lại lụt.”
Đây cũng là một kinh nghiệm dự báo thời tiết của ơng cha ta. Chúng ta
cũng có thể lồng ghép vào bài 31. Tập tính của động vật – Sinh học 11. Trong
các tháng, tháng bảy là tháng bắt đầu với những cơn bão lớn, khi bão lớn thì
lượng nước sẽ dâng lên và có thể gây ra lụt. Bình thường mùa đơng chúng ta
khơng thể nào bắt gặp hình ảnh những con kiến đi tha mồi nhưng tháng bảy kiến
hành quân đầy đường. Tháng bảy nước lên, đàn kiến phải lo bò đi kiếm ăn để ăn
trong những ngày tháng bão lụt, hay nó cũng kiếm những vật liệu xây tổ để đảm
bảo tổ của mình trong mùa thiên nhiên dữ dội ấy. Trông hành động của kiến mà
con người có thể đốn được trời sẽ mưa bão hay khơng. Chúng ta có thể đưa vào
làm ví dụ trong bài 31. Tập tính của động vật, mục II.1. Tập tính bẩm sinh –
Sinh học 11.
(19). “Nhất thì, nhì thục.”
Thì là thời gian, là thời gian trồng trọt trong nông nghiệp.
Thục là đất, đất phải tơi xốp và được tưới tiêu hàng ngày.
Câu thành ngữ trên dùng trong nơng nghiệp để nói về vai trị của thời vụ
và đất đai. Khi trồng trọt, chúng ta cần ưu tiên trồng cây đúng thời vụ và cải tạo
đất tốt để có năng suất tốt nhất. Câu tục ngữ này tôi đã lồng vào bài 36. Phát
triển ở thực vật có hoa, mục II.2. Nhiệt độ thấp và quang chu kì. Nếu khéo léo
lồng ghép, chúng ta sẽ liên kết được giữa nhân tố nhiệt độ, ánh sáng (thời vụ)
với trồng trọt giúp bài học thêm sinh động và thực tiễn hơn.
(20). “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.”
Sử dụng câu tục ngữ để làm nhấn mạnh hơn về các nhân tố ảnh hưởng
đến sinh trưởng ở cây trồng.
Trong bài 34. Sinh trưởng ở thực vật – Sinh học 11, mục II.4. Các nhân tố
ảnh hưởng đến sinh trưởng, chúng ta có thể sử dụng câu tục ngữ trên để củng cố
9
cho học sinh về vai trò của các nhân tố bên ngồi (nước, phân bón, …) và nhân
tố bên trong (giống) đối với sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
(21). “Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân.”
Đây là kinh nghiệm trồng trọt của nhân dân ta, việc cày bừa cho đất tơi
xốp và bón phân là hai việc quan trọng để có một mùa màng bội thu. Thứ nhất,
khi đất tơi xốp (giàu oxi) sẽ có tác dụng ức chế hoạt động của các vi khuẩn phản
nitrat hóa (vi khuẩn kị khí làm nghèo nitơ của đất), thứ hai là vai trị của bón
phân đối với cây trồng. Chúng ta có thể đưa câu tục ngữ này vào bài 6. Dinh
dưỡng nitơ ở thực vật (tiếp theo), mục IV.1. Q trình chuyển hóa nitơ trong đất
– Sinh học 11.
(22). “Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.”
Đây là một kinh nghiệm về thời tiết của nhân dân ta, vào tháng bảy hàng
năm, miền Bắc thường đón những trận bão lớn nhỏ khác nhau. Theo quan sát
tinh tế của người dân, khi gió heo may về (gió Bấc) cùng với hiện tượng chuồn
chuồn bay tán loạn lên thì trời ắt có bão. Chúng ta có thể đưa câu thành ngữ trên
vào bài 31, 32. Tập tính của động vật cùng với lệnh trang 125 – SGK Sinh học
11. Về mặt bản chất, đây khơng phải là tập tính của chuồn chuồn tương tự câu
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa. Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”. Chuồn
chuồn có cánh rất mỏng nên bay cao, bay thấp phụ thuộc vào độ ẩm của khơng
khí. Khi gió heo may thổi làm độ ẩm cao khiến chuồn chuồn không thể bay cao
mà bay là là hàng đàn dưới mặt đất.
(23). “Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khơ
Tháng tư đi tậu trâu bị
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm.”
Một đoạn ca dao rất hay về thời vụ của những giống cây nông nghiệp phổ
biến của nước ta như đậu, khoai lang, cà, lúa nước. Việc trồng cây đúng thời vụ
rất quan trọng đối với sinh trưởng, phát triển cây trồng từ đó ảnh hưởng đến
năng suất cây trồng. Đoạn ca dao này tôi đã lồng ghép vào bài 34. Sinh trưởng ở
thực vật, mục II.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng – Sinh học 11 và bài
35. Môi trường sống và các nhân tố sinh thái, mục II. Giới hạn sinh thái và ổ
sinh thái – Sinh học 12 .
(24). “Kiến đen tha trứng lên cao
Kiểu gì cũng có mưa rào rất to.”
Câu ca dao này chúng ta dùng tương tự câu “Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại
lụt” ở trên trong bài 31. Tập tính của động vật – Sinh học 11. Đây cũng là một
kinh nghiệm dự báo thời tiết của ông cha ta. Về mặt sinh học, đây là một tập tính
bẩm sinh của lồi kiến. Nhờ quan sát tinh tế về tập tính của lồi kiến mà nhân
dân ta đã có thể dự đốn được thời tiết.
(25). “Đói thì ăn ráy ăn khoai.
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng”.
10
Khi dạy bài 36. Phát triển ở thực vật có hoa – Sinh học 11, chúng ta có
thể nhấn mạnh vai trò của nhân tố nhiệt độ trong sinh trưởng và phát triển của
cây lúa nói riêng và thực vật nói chung khi u cầu học sinh giải thích câu ca
dao trên. Tại sao lúa khơng nên trổ địng vào tháng hai? Tháng hai (âm lịch)
thường là thời điểm gió Bấc (gió mùa) thổi mạnh nhất trong năm làm nhiệt độ
rất thấp. Nếu như lúa trổ gặp phải gió này thì có thể sẽ “ngậm địng” dẫn đến
năng suất kém.
Ngồi ra chúng ta có thể u cầu các em tìm thêm những câu tương tự về
ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài hay bên trong đến sinh trưởng và phát
triển của thực vật như:
“Mồng tám tháng tư không mưa.
Bỏ cả cày bừa mà lấp lúa đi.
Mồng tám tháng tư có mưa.
Mẹ con sắm sửa cày bừa làm ăn.”
“Tháng tám trời thổi gió nồm.
Tháng ba Đơng Bắc có làm khơng ăn.”
“Tua rua đi rắc mạ mùa.
Tiểu thử đi bừa, cày ruộng rất sâu.
Hàn lộ lúa trổ bằng đầu.
Lập đông ta quyết về mau gặt mùa.”
Như vậy, đối với trồng trọt, việc trồng cây đúng thời vụ vô cùng quan
trọng đối với sinh trưởng và phát triển của cây trồng từ đó ảnh hưởng đến năng
suất, sản lượng hằng năm.
(26). “Khơng lân, khơng vơi thì thơi trồng lạc.”
Câu 1c - Đề đề xuất của trường THPT chuyên Hưng Yên duyên hải đồng
bằng Bắc Bộ môn Sinh học lớp 11 năm 2016 có hỏi: Nêu cơ sở khoa học của
câu ca: “Khơng lân, khơng vơi thì thơi trồng lạc”.
Tại sao khơng phải là đạm mà là lân và vơi. Cây lạc nói riêng và các cây
họ đậu nói chung đều có các vi khuẩn cộng sinh ở rễ cây (nốt sần) có tác dụng
cố định nitơ tự do trong khí quyển nên khơng cần phải bón nhiều đạm cho lạc.
Nhưng nếu khơng có lân và vơi thì cũng khơng đạt năng suất mà người nơng dân
mong muốn bởi vì:
- Lân có tác dụng thúc đẩy hoạt động của vi khuẩn cộng sinh trong nốt sần
rễ cây họ đậu, làm tăng hoạt động cố định đạm và chống hạn hiệu quả.
- Vôi điều chỉnh pH, giúp khử chua và giúp vi khuẩn nốt sần hoạt động
thuận lợi; cung cấp canxi cho cây lạc, là thành phần quan trọng của vỏ lạc;
phòng trừ sâu bệnh hại; làm tăng hiệu quả sử dụng lân, nâng cao năng suất, chất
lượng lạc.
Với câu thành ngữ trên, các thầy cơ có thể vận dụng để đưa vào dạy bài 4.
Vai trị của các ngun tố khống hoặc bài 5,6. Dinh dưỡng nitơ ở thực vật –
Sinh học 11.
(27). “Tị vị mà ni con nhện.
Ngày sau nó lớn, nó quyện nhau đi.
11
Tị vị ngồi khóc tỉ ti.
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đằng nào.”
Chúng ta có thể “văn học hóa” bài giảng của mình bằng cách lồng ghép
một vài câu ca dễ thuộc, từ đó giúp học trị thêm u thích môn học. Ở bài 40.
Quần xã sinh vật và một số đặc trưng cơ bản của quần xã – Sinh học 12, mục
III. Quan hệ giữa các loài trong quần xã sinh vật, chúng ta có thể củng cố bằng
câu hỏi sau:
Mối quan hệ nào giữa tò vò và nhện được nhắc đến trong câu ca sau: “Tị vị
mà ni con nhện…”
A. Quan hệ kí sinh.
B. Quan hệ hội sinh.
C. Quan hệ ức chế - cảm nhiễm.
D. Quan hệ vật ăn thịt - con mồi.
Ở tò vò, khi tò vò mẹ sinh sản liền làm một cái tổ, rồi bay đi bắt một con
sâu và nuôi cho béo tốt. Sau đó, nó liền đẻ trứng vào và lấp tổ lại. khi trứng nở
thành tò vò con sẽ sử dụng chú sâu béo tốt để làm thức ăn. Khi ăn hết con sâu, tò
vò con phải cần bổ sung thức ăn nên tò vò mẹ sẽ đi bắt tiếp sâu. Trong q trình
đó, nhện lợi dụng chui vào tổ tị vị và ăn hết tò vò con. Hằng ngày, tò vò mẹ vẫn
đều đặn kiếm ăn về để nuôi nhện mà cứ tưởng là ni tị vị con. Sau một thời
gian thì nhện sẽ bỏ đi. Đây là mối quan hệ vật ăn thịt – con mồi.
Chúng ta cũng có thể sử dụng câu ca dao trên để làm ví dụ về tập tính
bẩm sinh trong bài 31, 32. Tập tính của động vật – sinh học 11.
(28). “Mùa thu chim ngói, mùa hè chim cu.”
Khi dạy bài 39. Biến động số lượng cá thể của quần thể sinh vật, mục I.1.
Biến động theo chu kì. GV có thể u cầu HS giải thích câu tục ngữ trên để làm
ví dụ. Đây là một kinh nghiệm đánh bắt chim của nhân dân ta. Vào mùa thu,
chim ngói rất nhiều, tương tự như số lượng chim cu thường rất đông vào mùa
hè. Đây là sự biến động số lượng có tính chất chu kì mùa, phụ thuộc vào nguồn
thức ăn trong mơi trường.
Một số câu tục ngữ tương tự có thể sử dụng trong bài 39 – Sinh học 12:
“Tháng chín đơi mươi, tháng mười mồng năm.”
Cũng là một câu tục ngữ phản ánh chu kì mùa của sinh vật – biến động số
lượng cá thể theo chu kì. Vào ngày 20 tháng chín và ngày mồng 5 tháng mười
hàng năm (âm lịch) thì rươi xuất hiện nhiều bởi đây là giai đoạn kết đôi sinh sản.
Nhờ vậy mà nhân dân ta sẽ thu hoạch được nhiều rươi vào những thời điểm này.
(29). “Cố công không bằng giống tốt.”
Câu thành ngữ trên nêu lên vai trò của giống trong việc quyết định năng
suất cây trồng. Giống tốt chính là kiểu gen tốt quy định năng suất (kiểu hình)
của giống. Cố cơng (mơi trường) quy định năng suất cụ thể của một giống trong
mức phản ứng do kiểu gen quy định. Do đó, giống tốt cho năng suất cao, cịn
giống xấu thì dù bỏ nhiều cơng sức ra để chăm sóc thì năng suất vẫn bị giới hạn
bởi mức phản ứng của kiểu gen.
Một câu tục ngữ khác cũng phản ứng mối quan hệ giữa kiểu gen, mơi
trường và kiểu hình mà giáo viên có thể dẫn vào bài như
“Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa.”
12
Yếu tố đầu tiên đảm bảo cho cây lúa khỏe là cần phải có hạt giống tốt
(kiểu gen). Gieo trồng hạt giống tốt là điều kiện để có cây mạ tốt, mạ tốt thì lúa
tốt. Nhưng giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh hiểu rằng: nếu muốn phát huy
hết khả năng của giống cần chăm sóc tối ưu. Cịn nếu muốn vượt giới hạn của
giống về năng suất thì cần cải tạo giống cũ hoặc thay thế giống cũ bằng một
giống khác ưu việt hơn.
Với câu tục ngữ trên, GV có thể lồng ghép vào bài 13. Ảnh hưởng của
môi trường lên sự biểu hiện của gen, mục III. Mức phản ứng của kiểu gen –
Sinh học 12.
(30). “Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.”
Khi dạy bài 36. Quần thể sinh vật và mối quan hệ giữa các cá thể trong
quần thể, mục II. Quan hệ giữa các cá thể trong quần thể - Sinh học 12, giáo
viên có thể sử dụng câu ca dao trên để dẫn chứng cho “hiệu quả nhóm” trong
mối quan hệ hỗ trợ cùng loài. Các cây sống gần nhau thì khả năng chống gió
bão, chống hạn,…tốt hơn rất nhiều so với sống đơn lẻ.
Bên cạnh đó, chúng ta có thể dùng nghĩa chuyển của câu ca dao trên để
nhắc nhở học sinh về ý nghĩa của tình đồn kết, gắn bó giữa người với người
trong cộng đồng. Xã hội chỉ tốt đẹp hơn nếu chúng ta biết đoàn kết, yêu thương
và tương trợ lẫn nhau.
(31). “Cá lớn nuốt cá bé.”
Cũng trong bài 36, mục II – Sinh học 12 chúng ta có thể dẫn ra câu tục
ngữ trên để nói đến sự cạnh tranh cùng lồi. Đây là hiện tượng ăn thịt đồng loại.
Về nghĩa thực, quần thể ln có xu hướng duy trì số lượng cá thể trong quần thể
ở trạng thái cân bằng, phù hợp với nguồn sống của mơi trường nên có hiện
tượng tách đàn hay ăn thịt lẫn nhau ở động vật khi số lượng cá thể vượt giới hạn
cho phép.
Câu tục ngữ trên cũng có thể sử dụng trong bài 38. Các đặc trưng cơ bản
của quần thể sinh vật (tiếp theo), mục V1. Kích thước tối thiểu và kích thước tối
đa.
Mặt khác, giáo viên có thể khai thác nghĩa chuyển của câu tục ngữ để giáo
dục học sinh rằng: đây là hành động đáng lên án trong cộng đồng khi những kẻ
mạnh hơn, quyền thế hơn ức hiếp kẻ yếu thế.
(32). “Cấy thưa hơn bừa kĩ”
“Cấy thưa thừa thóc, cấy dày cóc được ăn.”
Ở bài 37. Các đặc trưng cơ bản của quần thể sinh vật, mục IV. Mật độ cá
thể của quần thể - Sinh học 12, giáo viên có thể định hướng cho học sinh thảo
luận về ý nghĩa của các câu tục ngữ trên, qua đó làm rõ nội dung bài học là: Mật
độ cá thể của quần thể được coi là một trong những đặc trưng cơ bản của quần
thể, vì mật độ cá thể có ảnh hưởng tới mức độ sử dụng nguồn sống trong môi
trường, tới khả năng sinh sản và tử vong của cá thể. Vì vậy, trong trồng trọt,
nhân dân ta đã rút ra được kinh nghiệm về mật độ cá thể để có những vụ mùa
bội thu.
13
(33). “Trời sinh voi sinh cỏ.” (Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam – Vũ
Ngọc Phan, 2017)
Giáo viên có thể đặt vấn đề rằng: “Trong xã hội hiện nay, câu tục ngữ
“Trời sinh voi sinh cỏ” có cịn đúng?” để học sinh thảo luận khi học bài 47.
Điều khiển sinh sản ở động vật và sinh đẻ có kế hoạch ở người, mục II. Sinh đẻ
có kế hoạch ở người – Sinh học 11.
Hiện nay, việc sinh đẻ cần có kế hoạch để ngăn chặn sự gia tăng chóng
mặt của dân số, để mỗi gia đình có đầy đủ các điều kiện chăm sóc và ni
dưỡng con cái tốt nhất.
(34). “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính” (Từ điển thành ngữ và tục ngữ
Việt Nam, Nguyễn Lân 2014).
Phải chăng tính cách con người do “trời sinh”?. Chúng ta có thể dẫn câu
tục ngữ trên khi vào bài 13. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen
– Sinh học 12 để đưa học sinh vào nội dung trọng tâm của bài: mối quan hệ giữa
kiểu gen, môi trường và kiểu hình.
Xét về tâm – sinh lí, tính cách con người được hình thành do 4 yếu tố.
Thứ nhất là về tư chất, nói khác đi chính là yếu tố di truyền. Thứ hai là mơi
trường, hồn cảnh sống, điều kiện sống. Thứ ba là yếu tố giáo dục. Nếu giáo dục
đúng cách, đúng hướng thì sẽ giúp phát triển nhân cách của đứa trẻ. Do vậy, giáo
dục phải làm sao để phát triển nhân cách trẻ một cách toàn diện. Thứ tư là bản
thân mỗi cá nhân biết tự điều chỉnh, tự giáo dục mình.
Vậy đâu là yếu tố tác động chính đến tính cách con người? Theo nhiều
chun gia thì yếu tố tác động chính đến tính cách con người là yếu tố mơi
trường và giáo dục. Nhưng vấn đề mà di truyền học nên quan tâm là rõ ràng tính
cách con người ít nhiều cũng được di truyền từ cha mẹ. Vậy làm cách nào để có
thể giúp trẻ hội tụ được những đức tính tốt? Đâu là thời điểm thích hợp để tác
động lên tính cách đứa trẻ?
(35). “Cá khơng ăn muối cá ươn”.
Cắt nghĩa từ ngữ câu tục ngữ trên như sau:
“Ươn” là hiện tượng cá đang bị phân hủy, bị ôi thiu do các vi khuẩn trên
bề mặt cá hoạt động mạnh, vì vậy chúng ta khơng thể sử dụng để làm thực phẩm
được nữa. Tại sao khi ướp muối (ăn muối) thì cá lại khơng bị hư hỏng. Về mặt
sinh học, khi ướp muối trên bề mặt cá, do áp suất thẩm thấu cao nên các vi
khuẩn này bị mất nước (hiện tượng co nguyên sinh) dẫn đến làm chết hay ức chế
hoạt động của chúng. Vì vậy, cá sẽ được bảo quản một cách tươi ngon.
Đây là một kinh nghiệm bếp núc vơ cùng cần thiết, chúng ta có thể dùng
muối để bảo quản nhiều thực phẩm như cá, thịt, trứng,…
Câu tục ngữ trên thường ghép với câu “Con cãi cha mẹ trăm đường con
hư” để thành một câu hoàn chỉnh nhằm răn dạy con cái. Việc con cái không
nghe lời cha mẹ cũng giống như cá không được ướp muối. Xét về nghĩa đen và
nghĩa bóng thì câu tục ngữ trên đều có giá trị sâu sắc đối với con người trong
cuộc sống hiện nay.
14
Câu tục ngữ trên GV có thể sử dụng trong bài 11. Vận chuyển các chất
qua màng sinh chất và bài 12. Thực hành: Thí nghiệm co và phản co nguyên
sinh – Sinh học 10.
* Một số cách tổ chức lồng ghép văn học dân gian vào bài giảng.
Giáo viên có thể sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào tất cả các khâu
của quá trình lên lớp. Từ khởi động dẫn dắt vào bài, đến khai thác kiến thức bài
mới, củng cố hoặc kiểm tra đánh giá.
Việc lồng ghép văn học dân gian vào bài giảng phải thật khéo léo và tinh
tế, không ngượng ép, tránh làm rối bài học. Mục đích của việc lồng ghép là tăng
sự sinh động, sức hấp dẫn của tiết học để các em u thích mơn học, u thích
giá trị cốt lõi của mơn học. Mặt khác, qua đó các em sẽ cắt nghĩa rõ hơn về
những vần điệu đó, thêm yêu văn học Việt Nam, yêu quê hương đất nước và
những giá trị nhân văn mà những vần điệu đó mang lại.
Dưới đây, tơi chỉ đưa ra một số ví dụ thực tế mà tôi đã lồng ghép, tùy vào
cấu trúc của bài giảng mà quý đồng nghiệp có cách sử dụng khác, sáng tạo hơn.
Với cá nhân tôi, việc kết hợp giữa hiệu ứng con chữ và hình ảnh, video minh
họa phù hợp trong bài giảng powerpoint luôn được tôi ưu tiên để làm bài giảng
thêm sinh động, hấp dẫn.
- Sử dụng văn học dân gian trong mở bài:
Ví dụ:
+ Bài 13. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen – Sinh học
12.
Vào bài, GV đưa ra câu tục ngữ “Cố công không bằng giống tốt” và đặt
vấn đề với HS: Em hiểu như thế nào về câu tục ngữ trên?
Sau khi nghe câu trả lời của HS, GV dẫn dắt vào bài: Để có một vụ mùa
bội thu (năng suất cao – kiểu hình) thì cần có cơng sức vun trồng, chăm sóc của
người nơng dân (môi trường) và giống cây tốt (kiểu gen). Mối quan hệ giữa kiểu
gen, mơi trường và kiểu hình sẽ được làm rõ hơn trong bài mới.
+ Bài 22. Bảo vệ vốn gen của loài người và một số vấn đề xã hội của di
truyền học – Sinh học 12, GV có thể vào bài như sau:
Bằng các kiến thức đã học, em hãy giải thích câu tục ngữ sau: “Lấy vợ
xem tông, lấy chồng xem giống”.
15
Sau khi HS trả lời, GV cần chốt lại: Để sinh ra được những đứa con khỏe
mạnh, không bị bệnh tật di truyền thì bản thân người vợ và người chồng cần
khỏe mạnh, không mang bệnh, tật di truyền. Do cịn hạn chế về y học tư vấn nên
ơng cha ta chỉ mới dẫn giải ra câu tục ngữ nhằm khuyên răn con cháu cần cẩn
trọng khi kết hôn và sinh con bằng cách tìm hiểu tổ tiên, dịng họ hai bên. Trong
y học hiện đại, chúng ta đã có những biện pháp hiệu quả hơn để bảo vệ vốn gen
loài người cũng như hiểu rõ hơn về một số vấn đề xã hội của di truyền học. Đó
chính là nội dung chính của bài học hơm nay.
- Sử dụng văn học dân gian trong khai thác bài mới hoặc củng cố theo
mục, theo bài:
Hoạt động này thường được tích hợp nhiều nhất.
Ví dụ:
+ Bài 40. Quần xã sinh vật và một số đặc trưng cơ bản của quần xã – Sinh
học 12.
GV có thể củng cố bằng câu hỏi sau: Mối quan hệ nào giữa tò vò và được
nhắc đến trong câu ca sau:
“Tị vị mà ni con nhện.
Ngày sau nó lớn, nó quyện nhau đi.
Tị vị ngồi khóc tỉ ti.
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đằng nào.”
A. Quan hệ kí sinh.
B. Quan hệ hội sinh.
C. Quan hệ ức chế - cảm nhiễm.
D. Quan hệ vật ăn thịt - con mồi.
+ Bài 36. Quần thể sinh vật và mối quan hệ giữa các cá thể trong quần thể
- Sinh học 12, GV có thể giúp HS ghi nhớ về ý nghĩa của mối quan hệ hỗ trợ
giữa các cá thể cùng lồi (hiệu quả nhóm) bằng câu hỏi sau: Bằng kiến thức vừa
học trong bài, hãy giải thích câu ca dao sau:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
- Sử dụng văn học dân gian trong kiểm tra – đánh giá:
Sử dụng văn học dân gian trong kiểm tra bài cũ:
+ Bài 39. Biến động số lượng cá thể của quần thể sinh vật – Sinh học 12.
Câu hỏi kiểm tra bài cũ như sau:
“Có mấy kiểu biến động số lượng cá thể của quần thể. Phân biệt chúng
theo các ví dụ sau:
“Mùa thu chim ngói, mùa hè chim cu”
16
Ở Việt Nam, vào mùa xuân và mùa hè có khí hậu ấm áp, sâu hại xuất hiện
nhiều.
Rừng U Minh Thượng bị cháy vào tháng 3 năm 2002 đã giết chết rất
nhiều sinh vật rừng.
…
+ Bài 37. Các đặc trưng cơ bản của quần thể sinh vật – Sinh học 12.
Câu hỏi kiểm tra bài cũ như sau: “Đặc trưng nào của quần thể được đề
cập đến trong câu tục ngữ sau: “Cấy thưa hơn bừa kĩ”? Nêu ý nghĩa sinh thái
của đặc trưng đó.”
Hoặc trong kiểm tra thường xuyên hoặc định kì với một số câu hỏi sau:
- Bằng kiến thức đã học, em hãy giải thích câu tục ngữ sau “Khơng lân,
khơng vơi thì thơi trồng lạc”.
- Hãy cho biết các tập tính nào dưới đây là tập tính bẩm sinh, tập tính
học được?
+ “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa. Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
(ca dao).
+ Mỗi buổi sáng trong tuần, em đều dạy sớm tập thể dục.
+ Nhện thực hiện rất nhiều động tác nối tiếp nhau để kết nối các sợi tơ
thành một tấm lưới.
…
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Việc lồng ghép văn học dân gian nói chung mà chủ yếu là ca dao, tục ngữ,
thành ngữ nói riêng đã được tôi áp dụng trong nhiều năm học trước. Tuy nhiên,
sau khi sưu tầm thành một tài liệu có hệ thống, năm học vừa qua tôi đã sử dụng
nhiều hơn vào các tiết dạy của mình một cách chọn lọc, tinh tế hơn. Với mục
đích chính của sáng kiến thì điều tôi quan tâm hơn cả không phải là những con
điểm khá, giỏi của HS mà là hứng thú trong học tập của các em. Trong khuôn
khổ SKKN này, tôi không so sánh sự khác biệt về những học lực trước và sau
khi áp dụng các giải pháp trên mà là sự thay đổi trong hứng thú học tập môn học
này trước và sau khi áp dụng các giải pháp trên ở lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm.
Cũng với 4 lớp 11A4, 11A7, 12A2 và 12A12 nhưng kết quả từ phiếu
thăm dò đo độ hứng thú của HS khi các em chuẩn bị kết thúc năm học (đo vào
cuối tháng 5/2020 – Phụ lục 2). Xin lưu ý là tôi chỉ khảo sát về mức độ hứng thú
của HS đối với việc lồng ghép văn học dân gian vào bài giảng. Đó là phạm vi
nghiên cứu của đề tài.
Cụ thể như sau:
17
Lớp
Sĩ
số
Khơng
thú
hứng Bình thường
Hứng thú
Rất hứng
thú
SL
7
%
17,1
SL
12
SL
15
SL
7
%
17,1
%
29,3
%
11A4
41
36,
5
11A7
41 5
12,2 8
19,5 15
36,6 13
31,
7
12A2
45 8
17,8 11
24,4 10
22,2 16
35,
6
12A12 48 8
16,6 10
20,8 15
31,3 15
31,
3
Như vậy, từ 29,1% HS hứng thú, quan tâm đến mơn học thì sau gần một
năm học áp dụng đề tài, số học sinh hứng thú, hào hứng với bài học có tích hợp
văn học dân gian đã lên 63,4%.
Dù còn nhiều yếu tố khách quan từ việc đánh giá của HS nhưng là người
trực tiếp giảng dạy các em tôi nhận thấy sự thay đổi trong hứng thú và thái độ
học tập của HS mình. Điều đó là những gì mong đợi trong khuôn khổ của sáng
kiến kinh nghiệm này.
18
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trên đây là những vần điệu văn học dân gian và một số cách tổ chức mà
tôi đã lồng ghép vào trong tiết học của mình. Qua mỗi tiết học có sử dụng kiến
thức tích hợp, tơi nhận thấy:
- Phần lớn HS đã có sự u thích nhất định đối với mơn học. Các em
khơng thấy nhàm chán vì lối rao giảng kiến thức cũ mà đã hứng thú hơn với bài
giảng.
- Việc đưa ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào bộ môn sinh học nói riêng và
các bộ mơn khác nói chung là vơ cùng cần thiết, góp phần gìn giữ và phát huy
một di sản văn hóa đáng tự hào của ông cha ta để lại.
Tuy nhiên, khi sử dụng văn học dân gian vào bài giảng khác môn, GV cần
lưu ý một số điểm sau:
- Cần chọn lọc các câu ca dao, tục ngữ,…kỹ càng, cẩn trọng, phải phù hợp
với bài học, tránh lan man, làm rối bài giảng.
- Việc sử dụng cũng cần khéo léo, tránh làm mất thời gian và ảnh hưởng
đến nội dung trọng tâm của tiết học. Các câu ca dao, tục ngữ,…mà chúng ta sử
dụng chỉ nên coi là một tài liệu tham khảo, bổ sung giúp HS hứng thú với môn
học và củng cố thêm kiến thức bài học.
- Bên cạnh việc lồng ghép ca dao, tục ngữ,…vào bài giảng, chúng ta cũng
nên thiết kế bài giảng thật khéo léo và khoa học.
3.2. Kiến nghị.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm:
Quan tâm hơn đến việc học của các em không chỉ là những môn theo khối
mà tất cả các môn. Thường xuyên trao đổi với các em để biết tâm tư nguyện
vọng của các em từ đó có phản hồi với giáo viên trực tiếp giảng dạy.
- Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy môn sinh học:
Trước hết phải tạo hứng thú dạy học cho bản thân và truyền thơng điệp đó
đến người học. Phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để hiểu biết về công
nghệ thông tin, biết khai thác thông tin trên mạng Internet, có kĩ năng sử dụng
thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại. Đặc biệt phải biết phát huy các
tính năng của trang thiết bị hiện đại trong việc thiết kế bài dạy. Đồng thời, có
niềm u thích đối với văn học dân gian và văn hóa dân tộc, yêu quê hương đất
nước và vẻ đẹp bình dị của văn học truyền miệng của Việt Nam.
- Đối với nhà trường:
19
Cần quan tâm hơn về cơ sở vật chất như trang thiết bị, máy tính có nối
mạng, máy chiếu Projector...tại các phịng học đa năng, khuyến khích và động
viên giáo viên áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
Thiết nghĩ, sau mỗi tiết học, điều theo HS chưa hẳn là những con điểm,
những note ghi nhớ hay chú thích mà là thái độ tích cực đối với việc học và sáng
tạo. Với bản thân tôi, tôi tin rằng đây sẽ là một giải pháp hay giúp bản thân tôi
và các đồng nghiệp có được những tiết dạy ý nghĩa. Không chỉ là môn sinh học
mà cá nhân tôi đã áp dụng cho việc giảng dạy môn công nghệ hay nghề làm
vườn – những môn tôi được phân công dạy. Do nhiều hạn chế, chắn hẳn đề tài
còn nhiều thiếu sót, kính mong các thầy cơ, anh chị đồng nghiệp sẽ bổ sung cho
người viết để hoàn thiện đề tài để sáng kiến này không chỉ dừng lại để văn bản
mà có giá trị thực tiễn cao hơn nữa.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 6 năm
2020
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người viết
PHẠM THỊ HỒNG
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam – Vũ Ngọc Phan - NXB Văn học, tái
bản 2017.
2. Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam – GS Nguyễn Lân – NXB Đà
Nẵng – tái bản lần 3.
3. Luật giáo dục (đã sửa đổi bổ sung) – NXB Lao động - 2010
4. Từ điển giáo khoa sinh học – NXB GD Việt Nam –Trần Bá Hoành (chủ
biên), tái bản.
21
DANH MỤC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC ĐÁNH
GIÁ VÀ ĐẠT GIẢI GẦN NHẤT
STT
1
Tên đề tài
Một số phương pháp tạo hứng thú
cho học sinh khi học phần 2. Tạo
lập doanh nghiệp – công nghệ 10
Năm học
2015 - 2016
Xếp loại (cấp tỉnh)
B
2
3
4
22
23