Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Ảnh hưởng của Hindu giáo đến văn minh các nước Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.61 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
---------------&----------------

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Đề tài:
Ảnh hưởng của Hindu giáo
đến văn minh các nước Đông Nam Á

Sinh viên

:

Mã SV

:

Lớp

:


Hà Nội - 2022

MỤC LỤC


3


LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG CHÍNH.................................................................................................3
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HINDU GIÁO.....................................3
1.1. Sự xuất hiện của Hindu giáo............................................................................3
1.2. Một số phân nhánh của Hindu giáo................................................................6
1.3. Một số lễ nghi và tục thờ cúng.........................................................................9
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA HINDU GIÁO ĐẾN VĂN MINH ĐƠNG
NAM Á....................................................................................................................13
2.1. Q trình du nhập Hindu giáo vào Đông Nam Á........................................13
2.2. Ảnh hưởng của Hindu giáo đến văn minh Đông Nam Á.............................14
CHƯƠNG 3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ HINDU GIÁO.....................................21
KẾT LUẬN.............................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................24


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hindu giáo (Hinduism) hay Ấn Độ giáo - là một trong những tôn giáo lớn
nhất thế giới trong quá khứ. Khởi nguồn từ Ấn Độ, Hindu giáo đã lan truyền và
ảnh hưởng rất nhiều nước ở châu Á nói chung và Đơng Nam Á nói riêng. Ở Đơng
Nam Á, tơn giáo là một hiện tượng văn hóa xã hội rất phức tạp, là bộ phận không
thể thiếu được trong đời sống tinh thần, văn hóa Đơng Nam Á. Trong đó, Hindu
giáo là tơn giáo có rất nhiều ảnh hưởng quan trọng tới đời sống văn hóa và xã hội
tại các quốc gia như Thái Lan, Lào, Campuchia, Mianmar, Việt Nam, Indonesia,…
Hindu giáo không chỉ đem lại nhiều giá trị văn hóa trong lịch sử mà cịn để lại
nhiều di sản văn hóa tinh thần cho đến tận hôm nay. Trong lịch sử các quốc gia và
dân tộc ở Đông Nam Á, Hindu giáo cịn có mối quan hệ tác động lớn đến thể chế
chính trị các quốc gia. Mặc dù ngày nay, số lượng tín đồ Hindu giáo khơng nhiều

nhưng giá trị tinh thần đặc sắc của Hindu giáo vẫn là một kho tàng văn hóa và là
một đối tượng nghiên cứu đầy lý thú đối với các nhà nghiên cứu thuộc nhiều
ngành khoa học khác nhau.
Chính vì thế, em xin chọn đề tài: “Ảnh hưởng của Hindu giáo đến văn
minh các nước Đông Nam Á” để nghiên cứu, làm rõ hơn về vấn đề này. Trong
khn khổ phạm vi của mình, hi vọng đề tài có thể đóng góp giá trị lý luận mang
tính tham khảo để các đề tài khác liên quan trong tương lai nghiên cứu và triển
khai.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở giới thiệu khái quát về Hindu giáo; đề tài tập trung phân tích
những ảnh hưởng của Hindu giáo đến văn minh các nước Đông Nam Á. Đồng
thời rút ra những đánh giá, nhận xét chung về tôn giáo này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:


2
- Giới thiệu khái quát về Hindu giáo: sự xuất hiện, sự phân nhánh và một số
lễ nghi, tục thờ cúng của nó.
- Phân tích những ảnh hưởng của Hindu giáo đến văn minh các nước Đông
Nam Á trong lịch sử và hiện nay.
- Đồng thời rút ra những đánh giá, nhận xét chung về tôn giáo này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của Hindu giáo đến
văn minh Đơng Nam Á.
* Phạm vi nghiên cứu: Vì là đề tài mở, đi theo dòng thời gian nên phạm vi
nghiên cứu của đề tài tương đối không ổn định. Từ khi hình thành cho tới lúc suy tàn,
Hindu giáo đã đi qua nhiều quốc gia khác nhau, vì vậy đề tài không cố định đặt ra
phạm vi nghiên cứu cụ thể trong không gian địa lý hoặc không gian văn hóa nào. Dù
vậy, tinh thần chung của bài này vẫn là xoay quanh các quốc gia có sự ảnh hưởng ít

nhiều bởi Hindu giáo ở Đông Nam Á cả trong lịch sử và hiện tại: Thái Lan, Lào,
Campuchia, Mianmar, Việt Nam, Indonesia, Singapore.
4. Phương pháp nghiên cứu
Có thể thấy là các đặc tính của tơn giáo ở Đơng Nam Á đa dạng và phức tạp.
Trong khi mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận chỉ là giới thiệu. Vì vậy đề tài chọn
cách tiếp cận lịch sử dân tộc, tôn giáo từ tơn giáo học, văn hóa học và nhân học. Từ
đó, có thể thấy phương pháp nghiên cứu, trình bày là lịch sử - logic, chủ yếu thiên
về lịch sử. Bên cạnh đó có kết hợp sử dụng thêm các phương pháp khác: đọc và
phân tích tài liệu, so sánh, thu thập thơng tin,…
5. Kết cấu đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài
gồm 03 chương chính:
Chương 1. Giới thiệu khái quát về Hindu giáo
Chương 2: Ảnh hưởng của Hindu giáo đến văn minh các nước Đông Nam
Á
Chương 3. Nhận xét chung về Hindu giáo


3


4

NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HINDU GIÁO
1.1. Sự xuất hiện của Hindu giáo
Ấn Độ là đất nước của thần linh, quê hương của những tôn giáo lớn (Phật
giáo, Ấn Độ giáo…), văn minh xứ này tràn đầy khơng khí tơn giáo. Chẳng phải vơ
cớ mà nhiều học giả, nhà nghiên cứu xem nền văn minh Ấn Độ là một trong những
nền văn minh có tính duy tâm cao nhất.

Khởi đầu, Hindu giáo phát triển từ một tôn giáo bình dân, có từ khoảng năm
700 trước cơng ngun. Đạo Hindu (hinduism) hay Ấn Độ giáo là một tôn giáo
được phát triển cao hơn từ một tơn giáo bình dân. Theo tôn giáo này, thần Krishna,
Vishnu, Siva, Rama, thần Brahman và nhiều vị thần thánh cao quý chỉ là hiện thân
của một Thượng Đế (Đấng Tối Cao) duy nhất.
Đến trước thiên niên kỷ thứ I (Tr.CN), cùng với quá trình phân tầng xã hội
bộ lạc, hình thành nhà nước, tham gia của các dân tộc ngày một mới vào q trình
hình thành nền văn hóa Ấn Độ, thì tính chất cổ, tính hạn chế của bộ lạc, tính bí
truyền của hệ thống triết học tơn giáo hình thành trên cơ sở những quan niệm Veda
giáo, được các nhà nghiên cứu xác định như là Bà la môn giáo (Brahmanisme) (do
vai trò đặc biệt, then chốt trong nghi lễ và thực tiễn xã hội của nhà tư tế Brahman), đã trở thành trở ngại đối với sự phát triển xã hội. Bà la môn giáo cũng
không phù hợp với cơ cấu của công xã nông nghiệp láng giềng mà đã trở thành tế
bào kinh tế và xã hội cơ bản của xã hội Ấn Độ. Các nhóm mới, chưa tiếp cận được
với nghi lễ Veda giáo, đã tham gia vào quan hệ kinh tế - xã hội và lễ nghi trong
công xã này.
Sau khi trải qua cuộc khủng hoảng sâu sắc, chuyển hóa đáng kể, chống đỡ
được sự cạnh tranh với Phật giáo và Giai na giáo (Jainaisme), Bà la mơn giáo, mà
nói chính xác hơn là Hindu giáo (Hindouisme), đã có thể đáp ứng đầy đủ nhất các


5
nhu cầu xã hội, trước hết là nhờ mối liên hệ hữu cơ của mình, thậm chí là sự hợp
nhất với hệ thống đẳng cấp. Sau khi vay mượn và phát triển quan niệm của Veda
giáo về sự phân cấp các nhóm người khơng bình đẳng về mặt nghi lễ, về vai trị của
tầng lớp Bà la mơn như người môi giới trong giao tiếp giữa con người với các thần,
sau khi giữ lại kinh Veda với tư cách là sách kinh (nhưng bổ sung cho nó vơ số bình
luận), Hindu giáo xây dựng cẩn thận các khái niệm về sự luân hồi của linh hồn
trong thế giới theo quy luật nghiệp báo (karma) mà trước hết được quy định bởi
việc tuân thủ các chuẩn tắc ứng xử đối với một nhóm cụ thể, một đẳng cấp cụ thể.
Hindu giáo bắt đầu lý giải những khác biệt xã hội bằng sự trong sáng về mặt nghi lễ

của cá nhân sinh ra trong đẳng cấp tương ứng.
Như vậy có thể thấy rằng đạo này chịu ảnh hưởng phần lớn tư tưởng Bà La
Môn, coi kinh Veda như sách thánh và rõ ràng là giới tăng lữ Bà La Môn nắm
quyền cai trị chính trong đó. Nhìn chung đạo Hindu là tơn giáo bình dân đã mang
tính cách nhất thần, thần bí dưới sự ảnh hưởng của đạo Thần bí Bà la môn.
Việc nền văn minh Ấn Độ khai thác vùng ngoại diên rộng lớn, đưa các dân
tộc mới và rất cổ vào hệ thống phân công lao động xã hội với tư cách các đẳng cấp
đã làm cho tính chuẩn tắc của Hindu giáo, vai trò kẻ quy địnđ lối ứng xử của nó
càng trở nên có hiệu quả hơn khi nó tiếp nhận một cách hữu cơ hơn những nghi lễ
địa phương.
Rất nhiều các học giả đã bày tỏ ý kiến với những lý lẽ vững chắc rằng, hình
thức sùng tín Bhakti trong đạo Hindu có nguồn gốc ở miền Nam Ấn và lan rộng
đến tận miền Bắc Ấn. Sankara – bậc thầy của đạo Hindu – cũng là người miền nam.
Ông là người đầu tiên nhận thấy học thuyết Cứu rỗi của hình thức tơn giáo Bhakti
có thể tồn tại song song với thuyết thần bí Bà la mơn, đến từ miền Nam Ấn.
Cũng chính bởi phụ thuộc nhiều vào tư tưởng Bà la môn, đạo Hindu cổ xưa
chỉ có thể phát triển thành tơn giáo nhất thần chứ không phải tôn giáo nhất thần


6
phục vụ đạo đức. Đạo này coi Thượng Đế có ý nghĩa cao hơn tất cả những gì thuộc
về đạo đức và những gì khơng thuộc về đạo đức.
Như vậy ngoài việc tuân thủ thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới của đạo Bà
la môn, đạo Hindu giữ lại cho mình một khía cạnh riêng: thay vì chỉ khoan dung
với hành động, nó cịn tơn vinh hành động. Nhưng đạo giáo của chúng sinh khơng
thể làm gì hơn ngồi việc lưu tâm tới cảm xúc tự nhiên.
Hindu giáo khôgn địi hỏi hành động nào khác ngồi hành động như đạo Bà
la mơn địi hỏi, nhưng thể hiện lại khác. Con người không thể thỏa mãn (như người
Bà la môn) ở sự quý trọng (bên cạnh ý tươnggr từ bỏ cõi trần) một sự đánh giá hạn
hẹp và chỉ liên quan đến hành động (những hành động của bổn phận do tầng lớp

đặc quyền đề ra). Đạo này đòi hỏi con người phải thể hiện lịng tận tụy hồn tồn
với Thượng Đế. Địi hỏi này cũng gắt gao khơng kém nỗ lực từ bỏ cõi trần của một
cá nhân.
Vì đánh giá cao hành động, đạo nhất thần Hindu bắt buộc phải là tơn giáo
của giới bình dân. Khởi đầu đạo Hindu không quan tâm tới việc chống lại học
thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới ở bất cứ hình thức nào. Nó chỉ muốn hành
động được nhìn nhận và được đánh giá đúng mức. Đạo Hindu tưởng rằng có thể kết
hợp (ở một mức độ nhất định) học thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới với học
thuyết công nhận cuộc sống và thế giới.
Trong tư tưởng Hindu cổ đại, quan điểm chối bỏ cuộc sống và thế giới được
hỗ trợ bởi cảm xúc tự nhiên của dân tộc Ấn, cũng phải khuất phục quan điểm công
nhận cuộc sống và thế giới.
Những nguồn tư liệu chính về hệ tư tưởng của đạo Hindu cổ đại này là
những tư liệu mang nội dung triết học pha lẫn tôn giáo được giới thiệu trong hai
thiên sử thi vĩ đại của Ấn Độ là Mahabharata và Ramayana và kinh Puranass.
Purana (tên đầy đủ là Puranams akhyanam) có nghĩa là truyện cổ tích. Thế nên


7
Puranass có nhiều chuyện thần thoại và tơn giáo kèm theo những dòng suy ngẫm về
những câu chuyện này.
Xét về mặt lịch sử, Hindu giáo đã hình thành hai khuynh hướng cơ bản –
Visơnu giáo (Vishnouisme) và Sivai giáo (Shivaisme), hơn nữa là cả hai tôn giáo
này đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những quan niệm tiền Arya, những quan
niệm dựa trên những sự thờ cúng tối cổ, trong đó tư tưởng và biểu tượng sinh đẻ,
vai trị của người mẹ, sự mê hồn của thực tiễn thờ cúng, ý nghĩa của sự hy sinh máu
là rất lớn.
Các cơ sở của Hindu giáo bắt nguồn từ kinh Veda, từ các truyền thuyết và
các văn bản có liên quan tới kinh ấy, chủ yếu quy định tính chất và các đặc điểm
của nền văn minh Ấn Độ trên các phương diện lịch sử văn hóa, triết học tơn giáo

giáo, nghi lễ - sinh hoạt, xã hội – gia đình, v.v… Cái mang quyết định đối với quá
trình hình thành các cơ sở tổng hợp của Hindu giáo trong một thời gian dài và rất
phức tạp là quá trình khắc phục dần dần tính chất bí truyền của các nguyên tắc
Veda – Bà la mơn giáo trong văn hóa Ấn Độ cổ.
Một điều không đáng ngạc nhiên là sau khi đã được đơn giản hóa và chỉnh lý
cho phù hợp với nhu cầu của đông đảo quần chúng, Hindu giáo đã đặt lên hàng đầu
các thần mới, chính xác hơn là những bình diện mới của chính các thần cổ được cải
biến chút ít, nhưng có được một cuộc sống mới và có được quyền uy cao chính
trong khn khổ của hệ thống Hindu giáo đang hình thành. Các thần này là gần gũi
và dễ hiểu hơn đối với con người.
1.2. Một số phân nhánh của Hindu giáo
Giáo phái Vishnu
Giáo phái này chủ yếu sùng bái Vishnu (thần giữ gìn vũ trụ) và những hóa
thân của thần này như Thiên nữ tốt lành, chim đại bàng cánh vàng, khỉ thần
Hanôman, trâu thần Nmcát, v.v… Tín đồ của giáo phái này coi trọng sự trung thành
đối với thần, đa số họ đều theo chủ nghĩa khổ hạnh như ăn chay, cấm dục, v.v…


8
Việc thờ cúng được tín đồ Vishnu giáo tiến hành trong chùa, họ phản đối việc dùng
động vật làm vật tế lễ. Hiện nay, giáo phái này chủ yếu phổ biến ở miền Bắc Ấn
Độ.
Vishnu giáo hình thành vào thế kỷ XI. Người sáng lập và đặt cơ sở lý luận
cho nó là Ramanuja. Theo ơng, sự hợp nhất linh hồn của cá nhân với thần là con
đường giải thoát chính. Ngồi ra tín đồ cịn phải thụ lễ theo Vishnu giáo, bày tỏ tình
yêu tuyệt đối với thần, sống cuộc sống tu hành khổ hạnh và chấp hành nghiêm
chỉnh những lễ nghi cúng bái như là điều kiện để nhận được sự ân sủng của thần.
Môn đệ của Ramanuja là Ramananda đã tiếp tục phát triển Vishnu giáo. Ông xây
dựng nên Giáo phái Rama. Theo Ramananda, con đường giải thốt đối với tín đồ là
việc bày tỏ tình u đối với thần Rama và luôn nhắc thầm tên của thần này, là việc

tắm trong ân huệ của thần.
Vào thế kỷ XVI, Jaithanic đã lập ra giáo phái Hắc Thiên để tôn thờ Hắc
Thiên (nhân vật anh hùng trong sử thi Ấn Độ) và Rata. Theo Jaithanic, tình yêu của
Hắc Thiên với Rata tượng trưng cho tình yêu của linh hồn con người đối với thần.
Việc thụ lễ theo đạo không nên tiến hành theo một lễ nghi rườm rà, chỉ cần hát một
bài thánh ca dành cho Hắc Thiên và Rata là đủ điều kiện nhận được sự sùng ái của
thần. Do vậy, khi hát thánh ca, phái này thường phát cao cờ, hò hét, đánh trống, gõ
chiêng.
Giáo phái Siva
Giáo phái này thờ cúng thần Siva (thần thứ ba được tín đồ Ấn Độ giáo thờ
cúng, được coi là người phá hủy và xây dựng lại thế giới). Sankara là người đặt cơ
sở lý luận cho giáo phái này. Siva giáo có nhiều phân nhánh khác nhau, trong đó
cần phải kể tới một số phân nhánh sau đây. 1) Siva giáo ở Casmia phổ biến vào
giữa thế kỷ XI, tuân thủ 64 loại kinh điển. Giáo phái này cho rằng nhờ sức mạnh
thần bí mà Siva tạo ra linh hồn cá nhân và những hiện tượng hữu hình đa dạng.
Linh hồn cá nhân cần phải nhận thức nhiều lần thế giới hiện thực để hợp nhất với


9
Siva và qua đó được giải thốt. 2) Linga giáo bắt đầu hưng thịnh sau sự suy thoái
của Phật giáo và Giana giáo. Người sáng lập ra giáo phái này là Basaoa ở thế kỷ
XII. Giáo phái Linga phủ định quyền uy của kinh Vệ đà và thuyết nghiệp báo luân
hồi, phản đối việc tôn thờ oranh và tượng thần, phủ nhận chế độ đẳng cấp và những
quy tắc hà khắc đối với phụ nữ và sinh hoạt gia đình. 3) Giáo phái Thánh điển xuất
phát từ kinh điển của Siva giáo nên có tên như vậy. Thánh điển giáo coi trọng sự
nghiên cứu và tìm tịi lý luận, tun bố vũ trụ có ba dạng tồn tại cơ bản là thần
Siva, linh hồn cá nhân và vật chất. Vật chất thể hiện dưới 36 loại hiện tượng hư ảo,
nhưng do dốt nát nên con người bị ràng buộc với vật chất (nghiệp), sa vào kiếp luân
hồi. Để được giải thốt thì con người phải loại bỏ được sự dốt nát và nghiệp, giành
được tình yêu của thần Siva, hợp nhất với thần Siva cùng với sức sống và tri thức

vơ hạn.
Giáo phái Tính lực
Là một giáo phái độc lập, tách ra từ Siva giáo. Giáo phái này chủ yếu tôn thờ
vợ của các thần: Donhijia, Nan cận mẫu (vợ của Siva), Cát tường thiên nữ (vợ của
Vishnu), Saravati, hay Biện tài thiên nữ (vợ của Brahma), Rata (vợ của Hắc Thiên).
Giáo phái này quan niệm rằng tính lực (hoạt tính, tính tích cực) của các nữ thần này
là cái biểu hiện của tính tích cực của thần linh tối cao hay của thực tại tối cao
(Phạn), là nguyên nhân sáng tạo ra và phát triển vạn vật trong vũ trụ, cịn bản thân
các thần là thụ động. Tính tích cực có hai hình thức biểu hiện là sự trong sáng, hiền
từ, nhân ái lành mạnh và sự xấu xa, độc ác, hung hãn, bạo tàn. Tính lực giáo có hai
phân nhánh là Tả tính lực giáo và Hữu tính lực giáo. Tả tính lực giáo sử dụng lễ
nghi bí mật mà chủ yếu gồm có: 1) hy sinh, tức dùng động thực vật, kể cả con
người, để tế lễ; 2) luân tọa, tức nam nữ đồng niên thay đổi chỗ giao hợp cho nhau
trong đêm tối; 3) Yoga, tức luyện tập theo những pháp đặc biệt; 4) ma pháp. Giáo
phái này không tin vào nghiệp báo luân hồi, phản đối phân hóa đẳng cấp và kỳ thị
phụ nữ. Hữu Tính lực giáo xuất hiện ở thế kỷ XIII, nó công khai tiến hành những


10
nghi thức cúng tế của Vệ đà giáo, việc cúng tế diễn ra ở chùa, dùng hoa quả và bột
gạo làm vật cúng tế.
Giáo phái Kabir
Là một trong các giáo phái xuất hiện trong phong trào cải cách tôn giáo ở
thời trung cổ. Kabir là người sáng lập ra giáo phái này. Theo ông, thực tại hay thần
tối cao trong vũ trụ là Brahma, Vishnu và Siva. Sự giải thoát diễn ra nhờ có sự
thành kính đối với thần và hợp nhất với thần. Ông phản đối việc thờ tranh và tượng
thần, sự phân hóa đẳng cấp và kỳ thị đối với phụ nữ, kêu gọi sự đoàn kết giữa tín
đồ Hindu giáo và Hồi giáo.
Giáo phái Samai (Phạn xã)
Là một giáo phái ra đời trong phong trào cải cách Hindu giáo. Giáo phái này

dựa trên nhất thần luận của Upanisah, những nhân tố của Hồi giáo và Thiên Chúa
giáo. Tín đồ của giáo phái này thờ Phạn (thực tại tối cao, lý tính tối cao), loại bỏ
mọi nghi thức cúng tế nghiêm khắc, rối rắm. Họ kiên quyết phản đối sự phân hóa
và sùng bái đẳng cấp, sự kỳ thị đối với phụ nữ, coi dị giáo là kẻ thù, đề xướng nền
giáo dục hiện đại và coi trọng khoa học – kỹ thuật phương Tây. Môn đệ của Roy là
Taker đã đưa ra một loạt chương trình cải cách tôn giáo triệt để hơn. Vào năm
1866, một môn đồ khác của giáo phái là Keshab đã kết hợp nội dung của Brahma
Samaj giáo, của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Nho giáo thành Tân Thiên Giáo với
khẩu hiệu “phục vụ thần tức là phục vụ con người”, triển khai cải cách xã hội và
văn hóa. Như vậy, giáo phái Brahma Samaj đóng một vai trị quan trọng trong
phong trào khai sáng và dân tộc chủ nghĩa của Ấn Độ.
1.3. Một số lễ nghi và tục thờ cúng
Ngày nay, Ấn Độ giáo vẫn là tôn giáo mạnh và đầy sức sống ở Ấn Độ, đặc
điểm của nó là có rất nhiều niềm tin và cách hành đạo. Những truyền thống của nó
khởi nguyên từ khoảng năm 800 trước CN, hoặc thậm chí sớm hơn, và nó nhấn
mạnh sự thống nhất của mọi sinh linh, tính tất yếu của việc tái sinh và việc thờ


11
phụng nhiều vị thần khác nhau… Một số là những người vơ thần. Hồn tồn khơng
có giáo lý hay địi hỏi nghi thức, tính đa dạng của Ấn Độ giáo tự thể hiện trong vô
số phong tục, truyền thống và văn chương.
Đạo Hindu khơng nhất qn. Tơn giáo này có nhiều hình thức thờ cúng,
khơng chỉ có hình thức của người Aryan, mà cịn hình thức của những người Ấn Độ
ngun thủy. Nó khơng có thiên hướng thờ một thần, mà gắn bó với thiên hướng đa
thần.
Một điểm khác biệt nữa giữa đạo thần bí Hindu với đạo Bà la môn (và cả với
Cơ Đốc giáo) là: lý tưởng sống ẩn dật xa lạ với đạo này. Nó khơng thơi thúc con
người phải rời bỏ cuộc sống bình thường. Hindu giáo mong đợi con người trải qua
mọi thăng trầm trong tư tưởng và việc làm, nhưng vẫn tận tâm thờ Thượng Đế.

Mặc dù có nhiều thần linh nhưng cũng chính bởi phụ thuộc nhiều vào tư tưởng Bà
la môn, đạo Hindu cổ xưa chỉ có thể phát triển thành tơn giáo nhất thần chứ không
phải tôn giáo nhất thần phục vụ đạo đức. Đạo này coi Thượng Đế có ý nghĩa cao
hơn tất cả những gì thuộc về đạo đức và những gì khơng thuộc về đạo đức.
Như vậy ngồi việc tuân thủ thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới của đạo Bà
la môn, đạo Hindu giữ lại cho mình một khía cạnh riêng: thay vì chỉ khoan dung
với hành động, nó cịn tơn vinh hành động. Nhưng đạo giáo của chúng sinh khơng
thể làm gì hơn ngồi việc lưu tâm tới cảm xúc tự nhiên. Hindu giáo không địi hỏi
hành động nào khác ngồi hành động như đạo Bà la mơn địi hỏi, nhưng thể hiện lại
khác. Con người không thể thỏa mãn (như người Bà la môn) ở sự quý trọng (bên
cạnh ý tưởng từ bỏ cõi trần) một sự đánh giá hạn hẹp và chỉ liên quan đến hành
động (những hành động của bổn phận do tầng lớp đặc quyền đề ra). Đạo này đòi
hỏi con người phải thể hiện lịng tận tụy hồn tồn với Thượng Đế. Địi hỏi này
cũng gắt gao khơng kém nỗ lực từ bỏ cõi trần của một cá nhân.
Bản chất nhất thần nhưng thực tế cho thấy trong Hindu giáo có hệ thống thần
linh đồ sộ và phong phú đến mức khó mà ghi nhớ hết. Tuy nhiên, hình ảnh tam thần


12
là nổi bật nhất và có ý nghĩa quan trọng nhất. Trong Hindu giáo có hình ảnh của
Tam thần (Trimutri – thần sáng tạo, thần bảo vệ và thần phá hủy) – bản nguyên tinh
thần của vũ trụ, có ba ngôi – Vishnu, Shiva và Brahman tương ứng với ba thần nêu
trên. Thần được tơn kính nhất trong Shiva giáo là Shiva mà chức năng cơ bản là sử
dụng năng lượng do tinh thần hy sinh tích lũy được vào việc phá hủy và tái tạo thế
giới. Phù hợp với hình ảnh khủng khiếp, phá hủy và gây ra nỗi sợ hãi của Shiva là
hình ảnh của người vợ của nó (chính xác hơn là ngơi bổ sung năng lượng cho nó) –
nữ thần Kalia (hay Đurghi, Parvati). Dĩ nhiên, hệ thống thần linh của Hindu giáo đã
khác đi nhiều so với các tơn giáo cổ và khơng cịn giống với nguồn gốc của nó.
Đồng thời các thần linh được thờ cúng theo một cách ít nhiều khác biệt.
Thứ nhất, lễ hiến sinh bằng máu của Veda giáo (yadjya) đã bị loại bỏ bằng

việc thờ cúng thần không bằng máu (pudjya). Mặc dù theo truyền thống người ta
vẫn quan niệm rắng sát hại vì thần khơng phải là sát hại (luận điểm này cho tới nay
vẫn chưa bị bác bỏ hoàn toàn: tế lễ bằng máu, kể cả bằng máu người, thường được
áp dụng tại các khu vực khác ở Ấn Độ), song nguyên tắc ahimsa (không sát sinh)
đã bắt đầu quy định tính chất tế lễ. Thứ hai, cùng với Phật giáo Đại thừa, thực tiễn
chế tạo ra các ngẫu tượng – hình ảnh và các đền thờ chúng đã được phổ biến rộng
rãi ở Ấn Độ vào đầu cơng ngun. Được phản ánh dưới hình thức kiến trúc và nghệ
thuật hồn hảo, thần được thờ cúng đã có được bộ mặt người và bắt đầu trở nên gần
gũi hơn, cụ thể hơn, có mọi đặc tính của con người, đi liền với những con vật phù
hợp với thần ấy. Được đặt trong đền thờ của mình, thần này là dễ hiểu đối với mỗi
người. Bộ mặt, các đặc điểm của thần, các động vật đi liền với thần biểu tượng cho
các đặc quyền, các khả năng, các thiên hướng của thần, chúng được mỗi người biết
rõ trong các truyền thuyết và các thần thoại. Biết được tiểu sử của thần, con người
được định hướng một cách tương ứng và chờ đợi ở thần u q chính những gì mà
con người mong muốn. Có thể yêu quý, sợ hãi các thần như vậy, có thể đặt hy vọng
vào chúng. Và, cuối cùng, thứ ba, các thần chính của Hindu giáo là khác với các


13
tiền bối cổ của chúng mà chủ yếu mang tính trung lập đối với quần chúng nhân
dân, đã có được những mơn đệ, tức những người ưa thích thờ cúng vị thần đã lựa
chọn của mình và chủ yếu giao tiếp với thần ấy. Hơn nữa, thái độ chung thủy của cá
nhân đối với thần đã trở thành đặc điểm quan trọng của Hindu giáo.
Hindu giáo rất coi trọng việc cúng tế và các lễ nghi tơn giáo. Có thể chia
cúng tế của Hindu giáo ra làm hai loại là cúng tế trong gia đình và cúng tế nơi cơng
cộng. Cúng tế trong gia đình có mục đích là tái sinh giống nịi, khi đó tín đồ năm
loại tế là cúng tế Brahma (thực hiện vào tối và sáng, đọc kinh Vệ đà); cúng tế thần
(trước bữa ăn, đem thức ăn đổ vào lửa thánh, cúng tế lửa; cúng tế sinh linh (bố thí
cho mọi sinh linh, rắc cơm gạo để biểu thị lòng yêu thương; cúng tế tổ linh (dúng
nước tưới rửa các vật cấm kỵ đề cầu được phù họ; cúng tế nhân gian (cúng dưỡng

các tín đồ Bà la môn giáo hoặc thết đãi khách. Hindu giáo có 12 loại nghi lễ truyền
thống, trong đó có kết tóc (đánh dấu sự bắt đầu tuổi nhi đồng), gọt tóc (đánh dấu sự
bắt đầu tuổi thành niên), nhập pháp, kết hơn, lễ mai táng v.v…
Tín đồ Hindu giáo có một số hình thức hoạt động tơn giáo quan trọng như là
đọc kinh, bố thí, cúng tế, nhảy múa, niệm chú, ăn chay, giải tội, khổ hành, yoga,
tắm gội, du hành vào ngày tết, làm lễ, v.v… Các giáo phái có chung một nghi lễ.
Nơi làm lễ là thánh địa gắn liền với thần thoại trong sử thi hoặc là nơi hội tụ của
các con sông. Nổi tiếng nhất là thánh địa Varanaxi trên bờ sông Hằng, thánh địa
Matơra trên bờ sông Chômuna, thánh địa Allahabad ở nơi hội tụ của sơng Hằng và
sơng Chơluma…
Hindu giáo có một số ngày lễ quan trọng sau đây. Thứ nhất, tết xuân là ngày
tết lớn nhất của Hindu giáo, được tiến hành vào ngày trăng tròn trong tháng 2 hoặc
3 dương lịch. Mục đích của lễ này là khác nhau: mừng mùa ngũ cốc bội thu ở Tây
Ấn Độ, kỷ niệm những anh hùng hy sinh ở Matơra, sùng bái sự hoạt động của các
Hắn thêin ở Bengalia. Vào ngày này, tín đồ ca hát, nhảy múa, té nước hồng vào
nhau để chúc mừng nhau. Thứ hai, tết tất niên được tiến hành vào ngày 4 trong


14
tháng 10 dương lịch (đầu tháng Mão theo lịch Ấn Độ). Theo truyền thuyết thì đây
là tết dành cho tầng lớp bình dân, nên cịn gọi là tết trốn nợ, thương dân. Vào ngày
tết, tín đồ mặc áo quần mới, bạn bè thăm hỏi, chúc mừng nhau, tặng quà cho nhau,
đốt pháo ăn mừng. Thứ ba, tết Song thập được tiến hành vào tháng 5 và 6 hàng
năm. Vào những ngày này, tín đồ tắm gội trên sơng Hằng để miễn trừ 10 đại tội là
lời nói bẩn thỉu, lời nói bịa đặt, lời nói phỉ báng, lời nói khích bác, lời nói ám hại,
sự mù quáng, sự ham mê dâm dục, ý nghĩ ác độc, dục vọng, ngu muội, v.v… Thứ
tư, Tết lên xe được tổ chức vào tháng 5 hay 6 dương lịch, tại chùa Tracơnat ở thành
phố Pơri. Khi đó tín đồ mang tượng thần Tracơnat ra khỏi chùa, đặt lên cao, dạo
quanh mấy vịng, sau đó đặt lại ở Ly Cung 14 ngày để cúng bái và cuối cùng lại
đưa về chùa cũ. Tín đồ Vishnu giáo cho rằng việc cúng tế Tracơnat cho phép họ

thoát kiếp luân hồi.
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA HINDU GIÁO
ĐẾN VĂN MINH ĐƠNG NAM Á
2.1. Q trình du nhập Hindu giáo vào Đơng Nam Á
Các tơn giáo lớn hịa nhập được vào ý thức hệ văn hóa Đơng Nam Á từ rất
sớm là nhờ các tín ngưỡng bản địa của các cộng đồng dân cư vốn đã phong phú, đa
dạng. Với sự phát triển kinh tế cịn trì trệ, nghè đói, tham vọng chính đáng của các
tộc người Đơng Nam Á muốn vươn lên, nên có tư tưởng cầu an hưởng lạc khiến
cho q trình hịa nhập giữa tơn giáo và văn hóa diễn ra sn sẻ ngay từ khi mới
tiếp xúc. Hai nguyên nhân trên tạo điều kiện cho bốn tôn giáo lớn cắm rễ sâu bền
được ở Đông Nam Á. Trong phần này, chúng tôi giới thiệu một số trường hợp du
nhập Hindu giáo vào một vài dân tộc, quốc gia cổ Đông Nam Á.
Chân Lạp do vua Jayavarman II “trị vì từ cuối thế kỷ thứ VIII đến năm 834,
đã giải phóng vùng đất này khỏi sự thống trị của “Java” (có lẽ khơng có ý nói đến
đảo Java cùng tên), ông ta đã chinh phục những tiểu quốc, và thống vương quốc.
Vào khoảng thời gian này, việc dẫn thủy nhập điền đã phổ biến rộng khắp.


15
Jayavarman II sau cùng đã thiết lập kinh đô của ơng ở phí bắc Biển Hồ, đóng đơ tại
Harharalaya (Roulos hiện nay), gần Angkor. Tên kinh đô băt nguồn từ Harihara,
một vị thần hoặc hình tượng kết hợp những thuộc tính của thần Siva và thần Vishnu
của Ấn Độ giáo. Năm 802, Jayavarman II được tấn phong là dewaraja, thần vương,
chắc chẳn có nghĩa rằng ơng đã đồng nhất với thần Siva.
Người Môn ở đông nam Myannma và tây bắc Thái Lan là cùng một ngữ
hệ… Ở vương quốc Tharavadi khoảng thế kỷ VII-VIII, cịn văn bia ghi lại hình ảnh
Sari hacsavacman cháu vua Sri Isanecva lúc lên ngôi theo nghi lễ Ấn Độ giáo
“bước lên ngai vàng có hình sư tử theo quyền kế vị hợp pháp”… Vua Sari
hacsavacman còn là một nghệ sĩ múa ca theo nghi lễ Ấn Độ giáo và ông đã làm thơ
dâng lên thần Siva.

Đầu thế kỷ VI, một tu sĩ Ấn Độ giáo tên là Kaundinya đến Phù Nam lấy vợ
người bản địa và làm vua; luôn xưng là người bảo vệ kinh Vêda, lấy lịch “Shaka để
tính ngày tháng”.
Ở Việt Nam có hiện tượng tương tự Campuchia. Phù Nam thời cổ lại là tâm
điểm tìm đến của Ấn Độ giáo khi mới du nhập… tượng thần Vishnu và gần hai
trăm di vật có liên quan đến Ấn Độ giáo phát hiện được ở đồng bằng sông Cửu
Long, là điều minh chứng thuyết phục cho sự phát triển rộng khắp của đạo ở khu
vực thế kỷ I đến thế kỷ XI. Sở hữu nền văn hóa đậm chất Ấn Độ giáo, trải dài từ
miền trung đến miền Nam là người Chăm và một số người Khơme…” vua Chăm
biến đổi chút ít từ ngữ trong cách viết Phạn ngữ, để gắn với tên mình. Văn bia Hịn
Cụt ở QUảng Nam, có đoạn viết là thần Bhadravacman “đã thần hóa vua thành Ấn
Độ giáo của người Chăm từ thế kỷ IV”. Bi ký Chăm khẳng định vai trò của vua
chúa quan chức Chăm, trong đời sống xã hội, thực chất là những trang sử ghi lại
hình thức tổ chức nhà nước sơ khai.
Ấn Độ giáo không truyền vào được bắc Việt Nam, đông bắc Lào, đơng bắc
Thái Lan và Myanma. Những dấu tích nhỏ, lẻ tẻ ở đông bắc Myanma và Thái Lan


16
khơng gợi được dấu ấn lịch sử đáng kể. Cịn các nước hải đảo ở phía đơng nam
Đơng Nam Á cũng có q trình tiếp nhận Ấn Độ giáo từ thế kỷ I đến thế kỷ XV,
nhưng mức độ đậm nhạt khác nhau do địa thế.
Những bi ký được xem là xưa nhất của một vương quốc Java là những bi ký
của vị vua xứ Taruma thế kỷ XV, Purnavarman, người đã đóng đơ khơng xa Jakarta
hiện nay. Ơng đã để lại một bi ký gắn liền ông ta với Vishnu, cho tạc vào đá và
trang trí thêm bằng những dấu chân của công và con voi của ông.
Giống như những vị vua Angkor, những nhà vau Java trong lúc sống đã được
đồng nhất với các thần Ấn Độ giáo như Siva hoặc Vishnu, và trong lúc chết họ
được cho là đã tái hợp nhất với các vị thần đó trong một bức tượng thần đặt trong
đền thờ.

2.2. Ảnh hưởng của Hindu giáo đến văn minh Đông Nam Á
Rõ ràng là q trình truyền giáo của bốn tơn giáo lớn ở Đông Nam Á đã làm
thay đổi bản chất văn hóa của bộ phận lớn cư dân qua các thời đại. Tuy vậy cơ sở
của Ấn Độ giáo, nhưng ít ảnh hưởng ở Đông Nam Á, là ý tưởng về đẳng cấp. Trong
những xã hội thoải mái hơn ở Đông Nam Á, thì đẳng cấp ít có ý nghĩa hơn.
Thực chất, quá trình truyền giáo đồng nhất với quá trình hội nhập văn hóa là
do tính bản địa háo và thế tục hóa của tơn giáo. Khi mỗi tơn giáo đã bám rễ và phát
triển ở mỗi cộng đồng tộc người thì sớm hay muộn giai cấp thống trị cũng phải vào
cuộc để điều chỉnh mọi hoạt động của xã hội, điều chỉnh xu hướng bảo vệ và phát
huy những giá trị tinh thần truyền thống của mình.
Những hoạt động cơ bản của văn hóa là chữ viết, văn học, mỹ thuật, và lễ hội
tơn giáo… góp phần bổ sung vai trị của tơn giáo trong đời sống văn hóa và ngược
lại, tôn giáo cũng làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc ở khu vực
Đơng Nam Á.


17
Ở Việt Nam, do nhiều lần va chạm nên có lúc văn hóa Ấn Độ giáo của người
Chăm đã lưu lạc khắp từ miền Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long và
một vài điểm ở Lâm Đồng.
Tượng thần Vishnu cùng tượng các hóa thân của thần ở Ĩc Eo (Việt Nam) có
khn mặt thơ, ngắn, đội mũ trụ, tai đeo trang sức hình lưỡi liềm, có bốn tay, hai
tay trên đã bị gẫy, tay trái dưới cầm tù và đặt ngang hơng, tay phải cầm một vật
hình trịn, áo dài rủ xuống tận bệ. Tác phẩm này là bằng chứng cho sự hưng thịnh
của Ấn Độ giáo ở Phù Nam.
Ấn Độ giáo biến thể, nhập thân vào lễ Puis của người Chàm ở Việt Nam là
một dẫn chứng cụ thể. Đây chỉ là lễ hội của một dòng họ nhưng cả hai yếu tố lễ và
hội đều đã kế thừa cách làm của nghi thức cầu mưa nắng của Ấn Độ giáo với tục
thờ cúng tổ tiên. Các vị thần Ấn Độ đã được Chăm hóa như Po Inư Nưga là sự tổng
hòa của các thần Indra, Brahma, Shiva, Vishnu, Harihara, Po Ginor Mưtri là biến

dạng của thần Shiva… và một số tín danh của các vị thần vua Chăm đã quá cố;
được mời gọi. Lễ hội Katê và tháng 7 hàng năm theo lịch Chăm cũng diễn ra tương
tự, nhưng nội dung và hình thức hướng tới thần Shiva đã được các đời vua Chăm
đồng nhất.
Ở Mỹ Sơn cịn nhiều tượng thần Bà la mơn giáo như Braman, Shiva, Vishnu,
Rắn thần Naga, Chim thần Garuda, Bò thần Nandin được tạc bằng đá sa thạch với
nhiều tư thế, dáng vẻ. Đặc biệt là tượng Thần Shiva và vợ Thần là Parvati được kết
hợp trong một tượng lớn vừa có râu vừa có vú – tượng độc đáo ở Đông Nam Á.
Các ngẫu tượng Linga và Yoni (giới nam vật và nữ) với nhiều kích cỡ cũng được
tìm thấy ở Mỹ Sơn, thể hiện quan niệm tín ngưỡng và cả nghệ thuật điêu khắc
Champa một thời. Mỹ Sơn cũng là nơi có số lượng bi ký nhiều nhất được tìm thấy
trong các cơng trình kiến trúc, tín ngưỡng của Champa.
Tuy tất cả các thành viên của Tam vị Ấn Độ giáo – Brahma, Vishnu và Siva –
đều được phản ánh trong những di tích của Đơng Nam Á, nhưng Siva là vị thần


18
được sùng kính rộng khắp nhất. Sự tơn kính Siva được nối kết chặt chẽ với quyền
lực hoàng gia. Các quốc vương Champa tiếp nhận việc thờ cúng Siva vào nửa sau
thế kỷ thứ 4, theo các bi ký. Một sứ thần từ Phù Nam tới triều đình Trung Hoa đã
báo cáo rằng việc thờ cúng Siva thịnh hành ở đó. Và các vị vua Khmer được sùng
kính và được đồng nhất với Siva, ban đầu dưới hình thức một linga (tượng dương
vật), sau đó là một pho tượng cụ thể. Khi tiếp thu văn hóa Ấn Độ, các dân tộc ở
Đông Nam Á tiếp thu tục thờ cúng Linga (giới vật nam), Yoni (giới vật nữ) và được
coi là thờ năng lực sáng tạo, biểu tượng của thần Siva trong Ấn Độ giáo. Tục này
đã có sự kết hợp, giao thoa với tục thờ sinh thực khí, với tín ngưỡng phồn thực vốn
có ở Đơng Nam Á và trở thành tục lệ phổ cập trong nhiều thế kỷ ở các dân tộc
Đông Nam Á. Ở một số dân tộc ít người, cho đến nay, tục thờ sinh thực khí còn
được thể hiện trong các tượng nhà mồ, trong các hang động biểu diễn dân gian ở
các vùng núi, hải đảo, thể hiện trong các hình thức nặn tượng bằng đất sét để nung,

trong các lễ vật những người phụ nữ mang theo có hình giới vật nam được đẽo gọt
bằng gỗ, bằng xương thú. Ngày nay, trong các di tích lịch sử ở một số quốc gia
Đơng Nam Á, người ta có thể thấy các ngẫu tượng (sinh thực khí) bằng đá và một
số dân tộc vẫn trang trí trong các đền thờ, trong các bảo tàng và trước vườn hoa,
cửa khách sạn dành cho du khách. Một số lễ hội liên quan đến tín ngưỡng phồn
thực vẫn được tái hiện khá sinh động.
Ở các nước hải đảo, chỉ có Indonesia và Malaysia ảnh hưởng nhiều bởi Ấn
Độ giáo. Dường như, “với sự kỳ vĩ của núi Penangungan, Ấn Độ giáo hưng thịnh
và trở thành một trung tâm lớn. Cho đến nay, hai hồ nước Jalatunda và Belahan,
bên cạnh gần tám mươi cụm kiến trúc Ấn Độ giáo vẫn thu hút sự chú ý của nhiều
người. Lễ hội Ấn Độ của người Ba tắc ở Indonesia dùng tiết gà trống bôi vào gậy
múa cầu mưa làm bùa. Lễ hội Navraatri ở Singapore tôn vinh ba vị nữ thần –
truyền thuyết kể là ba bà vợ của các vị thần Brahma, Vishnu, Shiva ở đảo này. Một
người con trai thần Shiva (với nữ thần Shakti) chậm trễ khi mang vật dâng lễ cho


19
cha, mà nay tín đồ Ấn Độ giáo phải móc vật tượng trưng vào da thị, đi diễu hành
trong lễ hội.
Cụm cơng trình Lơrơ Giơng Grang là cơng trình kiến trúc gồm hàng trăm
ngôi đền lớn, nhỏ được xây dựng trong khuôn viên khá rộng với việc xây nền ba
sân vuông vắn, lồng vào nhau – biểu tượng của ba thế giới: Thần linh, Thánh, trần
tục. Cơng trình được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ IX tại vùng đồng bằng
Prambanan của đảo Java (Indonesia). Cơng trình Lơrơ Giơng Grang để thờ ba vị
Thần tối cao của đạo Hindu là Shiva, Brama và Vishna. Đền thờ Shiva ở chính
giữa, hai đền thờ hai Thần còn lại ở Hai bên và bao bọc là hàng trăm đền khác.
Trong đền thờ hiện còn tượng của một số vị thần được tạc bằng đá, đặc biệt là
tượng Shiva Mahadeva cao 3m trên bệ. Nhiều tượng thần khác cũng khá sinh động,
vừa tạo nên sự trang nghiêm của đền, vừa lôi cuốn con người vào thế giới tâm linh,
thế giới huyền bí. Khi nghiên cứu cơng trình này, các nhà khoa học cịn phát hiện

bao điều lý thú: gần nghìn bức tượng và 224 chiếc giếng. Trong giếng ở đền thờ
Thần Shiva có bình hài cốt (tro) và các đồ vật quý bằng vàng, bạc, đồng,… khẳng
định cơng trình cịn là một khu mộ táng lớn. Lơrơ Giơng Grang được nhìn nhận
như một tổng thể các mộ táng và đền thờ các Thần trong Ấn Độ giáo của Java.
Chính xác hơn, đây là đền thờ Shiva giáo. Bôrôbuđur và Lôrô Giông Grang đều là
hai mặt của một tổng thể kiến trúc, tổng thể văn hóa của miền Trung Java thời Cổ
đại.
Vùng cao nguyên ở Tây Bắc đảo Java (Indonesia) này được coi là nơi thờ
phụng các đấng thần linh của cư dân. Từ thế kỷ thứ VII, vùng cao nguyên này là
nơi các đế vương cho xây dựng các đền tháp do ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, đến
đầu thế kỷ XIX khu đền tháp này mới được biết đến. Các cơng trình kiến trúc đền
tháp ở Điêng được xây dựng theo nhóm các Chandi (tên vị thần Dunga – vợ thần
Shiva trong Hindu giáo, gọi theo tiếng Indonesia) và kế cận nhau thành hàng từ Bắc
xuống Nam. Chiều cao thường từ 7 – 8m và chiều dài nền đền tháp thường là 5 –


20
6m. Cửa đền mở về hướng tây. Trừ Chandi Semara có kiến trúc khác mở về hướng
đơng, các Chandi cịn lại đều theo phương cách kiến trúc đền tháp của Ấn Độ giáo
với nền vng, hình khối thu lại trên đỉnh theo cấu trúc ba tầng, các mặt tháp đều
có cột ốp, các ơ khảm đặt tượng Thần. Tồn bộ phần thân của đền tháp còn được
lắp gờ nổi, tường khá cao và được chia ba ô bằng các cột ốp. Các tầng mái rất hài
hòa với thân tháp và gắn kết bằng bốn tháp nhỏ ở bốn góc hành lang bao quanh các
mái. Ở mỗi nhóm đền tháp cũng có các chi tiết kiến trúc đặc sắc khác nhau.
Ngồi ra, trên cao nguyên Điêng cũng có các đền tháp khác cùng với các
tượng thần Shiva, Vishnu, Brama,… góp phần tạo nên bức tranh kiến trúc mỹ thuật
tuyệt diệu ở Đông Nam Á. Giống như những vị vua Angkor, những nhà vau Java
trong lúc sống đã được đồng nhất với các thần Ấn Độ giáo như Siva hoặc Vishnu,
và trong lúc chết họ được cho là đã tái hợp nhất với các vị thần đó trong một bức
tượng thần đặt trong đền thờ, đó vừa là ngơi mộ vừa là đài tưởng niệm. Dù vậy, chỉ

có một ít khu vực nơi Ấn Độ giáo vẫn được coi như một tín ngưỡng phổ biến.
Nhiều khu như thế vẫn còn ở Java, nhưng điển hình về Ấn Độ giáo nổi tiếng nhất là
ở đảo Bali… Đẳng cấp cũng tồn tại ở Bali, nhưng quyền lực của chúng yếu hơn so
với ở Ấn Độ. Mơ hình mỗi ngơi làng có ba ngơi đền thờ Ấn Độ giáo ở Bali khiến
cho tổng số các điểm thờ ở đây có đến 10.000 đền đài.
Hệ thống văn tự Phạn ngữ, Saneri, Pali... của Ấn Độ từ trước C.N đến thế kỷ
X đã được hầu hết các bia ký, văn khắc của các tộc người theo Ấn Độ giáo ở Đông
Nam Á sử dụng. Rất nhiều kinh Phật, bia ký từ các nước lục địa đến hải đảo đều đã
lấy chữ viết cổ của ẤN Độ làm phương tiện khắc bản, in sách. Một bộ phận nhỏ
của các điểm truyền giáo ở Thái Lan, Myanma, Lào, Campuchia, Việt Nam đều có
sự tíêp thu chữ viết này rồi cải tiến thành chữ viết của mình. Điển hình cho hình
thức biến đổi trên là chữ Thái thời Ramkhanhẻng, chữ Lào thời Phạ Ngừm, chữ
Grantha của người Môn ở Myanma, chữ Khơme ở Campuchia và chữ Chăm,
Khơme ở Việt Nam. Thời thịnh của các dạng văn tự Ấn Độ cổ phai nhạt dần từ thế


21
kỷ XIV trở đi. Đặc biệt, hệ chữ Hán được các chức sắc tôn giáo Đông Nam Á sử
dụng từ đầu C.N ở phía Bắc Việt Nam. Về văn học, các truyện thơ Deva Mưnô,
Inra Patra, Ariya Bini Căm… của người Chăm đều là truyện tâm lý xã hội có ảnh
hưởng cả tích cực và tiêu cực của Ấn Độ giáo và Hồi giáo.
Ở Thái Lan, pho tượng thần Vishnu phát hiện được tại Chaiya cũng có phong
cách nghệ thuật gần gũi với tượng thần Vishnu ở Óc Eo. tượng thần Vishnu, Hara
Hara, Kalkil mình người đầu ngựa và các nữ thần Laksmi, Uma, Mahisasura,
Mardini và một số tượng Avlokitesvasa phát hiện được ở Campuchia đều diễn tả
tương đối xác thực với giải phẫu cơ thể là biểu hiện sống động nhất ở Đông Nam Á
trước thế kỷ X.
Giao điểm thế kỷ X, khu đền Ăngko và Ăngko Thom ở Campuchia đã tạo ra
một quần thể kiến trúc đồ sộ với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Ấn Độ giáo và Phật
giáo. Angkor Wat cịn có vơ số lan can chạm khắc vơ số hình rắn Thần Nagar

(tượng Bà la mơn giáo). Người thành lập Angkor, vua Yasovarman (trị vì 889 –
910), đã chuyển thủ đô từ Hariharalaya đến một địa điểm phía bắc Biển Hồ. Ngơi
đền đầu tiên của ông, Phnom Bakheng, được xây trên một ngọn đồi và bản thân nó
mơ tả một ngọn núi, núi Meru, trung tâm của vũ trụ Phật giáo và Ấn Độ giáo và là
trung tâm huyền bí của vương quốc. Bên trong Phnom Bakheng là một linga, một
biểu tượng của dương vật và là dấu hiệu của Siva, nhưng cũng là một biểu tượng
của chính đức vua thời đó.
Angkor Wat là cơng trình lớn nhất của nó (wat có nghĩa là ngơi đền), cao
60m và được xây bởi Suryavarman II (trị vì 1113 – khoảng 1145) vào thế kỷ XII để
tôn vinh và gắn kết với thần Vishnu và để kỷ niệm sự tái thống nhất của vương
quốc sau một thời gian xung đột. Tuy bản thân ngôi đền đại diện cho cả vương
quốc lẫn vũ trụ, nhưng những bức phù điêu của nó thể hiện nhiều giai đoạn trong
cuộc đời Rama, một hóa thân của Vishnu, như đã được kể lại trong thiên sử thi


22
Ramayana; nhiều cảnh từ thiên sử thi khác, Mahabharata; một số cảnh triều đình
“mang tính lịch sử”.
Trong lễ hội ban phúc cho các giống lúa ở Campuchia do các nhà sư ở
Campuchia đứng ra tổ chức, phải có một tu sĩ Ấn Độ giáo đóng vai vua Mâkh.
Trung tâm lễ hội Ấn Độ giáo lớn nhất là ở đền Vátphu ngày 4 tháng 6 theo lịch
Lào. Ơng đồng bà bóng lại kêu khấn đến tính danh các vị thần Ấn Độ giáo. Các
điệu múa tôn giáo của lễ hội đền Vátphu phong phú hơn bởi cách điệu hóa động tác
phi ngựa, cưỡi voi, đua thuyền, thao tác cung kiếm.
Sự tích tranh cãi giữa thần Indra và Brahma dẫn đến việc cắt đầu Brahma
gây mưa gió, hạn hán được lễ hội dân gian cịn lại ở Đơng Nam Á khai thác với
nhiều biến dạng cầu cúng. Tu sĩ Ấn Độ giáo đích thân dùng kiếm chọc tiết trâu, lấy
máu hiến tế. người Myanam tổ chức lễ hội nước vào tháng Tư ở các điểm tụ hội là
chùa thờ Phật, nhưng sự tích lại là câu truyện cắt đầu thần Brahma của Ấn Độ giáo.
Phật Xẳnđon và Mathi ở Lào trong lễ hội Phạvệt, vào tháng Tư, còn giữ lại ảnh

hưởng của Ấn Độ giáo bởi sự có mặt của cim thần Upạkhụt đã giúp sư xây dựng
xong tháp Phật.


×