LUẬN VĂN:
Du lịch sinh thái ở Tỉnh Kiên Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, du lịch nói chung và du lịch sinh thái (DLST) nói riêng đã
và đang phát triển nhanh chống trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt, trong những năm gần
đây DLST như một hiện tượng và xu thế phát triển ngày càng chiếm được sự quan tâm
của các nước trên thế giới. Bởi đó, không chỉ là một loại hình du lịch thiên nhiên hấp dẫn
mà còn là du lịch có trách nhiệm, hỗ trợ các mục tiêu bảo tồn môi trường tự nhiên, các
giá trị văn hóa bản địa, phát triển cộng đồng, góp phần tích cực vào sự phát triển du lịch
nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng có tính
chất toàn cầu của DLST đối với bảo tồn môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa
của các dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội nên ngày du lịch thế giới 27-9-2002 được Tổ
chức Du lịch thế giới chọn chủ đề “Du lịch sinh thái- bí quyết để phát triển bền vững” và
Liên Hiệp Quốc đã quyết định lấy năm 2002 làm năm quốc tế về DLST.
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu, một hiện tượng phổ biến trong đời sống xã
hội. Du lịch đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Đại hội toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái,
truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du
lịch quốc tế, sớm đạt trình độ khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành
các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác liên kết với các nước [9, tr.178].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích đầu tư phát
triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du
lịch” [10, tr.202].
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 2001- 2010 được Thủ Tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg ngày 22.7.2002 đã xác định:
DLST là một trong hai định hướng ưu tiên phát triển góp phần đảm bảo phát triển du lịch
bền vững, đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Du lịch là ngành kinh tế chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong thu nhập quốc dân.
Trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, thì du lịch nói chung, DLST nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng.
DLST là hình thức du lịch đặc thù, du lịch có trách nhiệm với môi trường thiên nhiên và
môi trường xã hội, được du khách quốc tế và trong nước rất quan tâm.
Tỉnh Kiên Giang nằm trong vùng Tây Nam Bộ - một trong những khu vực trọng
điểm ưu tiên phát triển du lịch của Việt Nam. Tỉnh Kiên Giang được thiên nhiên ưu đãi:
Có rừng, có biển, có hải đảo có đồi núi, đồng bằng, danh lam thắng cảnh đẹp và hệ sinh
thái phong phú; tiềm năng kinh tế tương đối đa dạng, đã tạo ra một lợi thế về du lịch rất
lớn. KDTSQ của tỉnh Kiên Giang được UNESCO công nhận là KDTSQ thế giới (năm
2006). Đó là điều kiện thuận lợi để tỉnh Kiên Giang đẩy mạnh phát triển du lịch nói
chung và DLST nói riêng.
Lịch sử Kiên Giang gắn liền với truyền thống cách mạng anh hùng của cả nước,
có đường biên giới dài, nơi đây là căn cứ cách mạng, sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc.
Chính điều này tạo ra lợi thế về du lịch.
Đại hội Đảng bộ Tỉnh Kiên Giang lần thứ VIII đã khẳng định: Tập trung đầu tư
ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển nhanh và bền vững. Thực hiện
nghị quyết của Tỉnh Ủy về phát triển Phú Quốc thành khu DLST chất lượng cao của cả
nước và khu vực, đồng thời phát triển đồng bộ các vùng du lịch trọng điểm khác của tỉnh
[7, tr.55-56].
Du lịch nói chung và DLST nói riêng được Tỉnh xác định là ngành kinh tế mũi
nhọn, lợi thế so sánh quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, du lịch của tỉnh Kiên Giang đã phát triển nhanh chống và
ngày càng thu hút thêm nhiều du khách nội địa quốc tế. Tiềm năng du lịch của tỉnh Kiên
Giang đặc biệt là biển, đảo, rừng, cảnh quan thiên nhiên… đã từng bước khai thác có hiệu
quả. Thực tế cho thấy, tiềm năng DLST ở tỉnh Kiên Giang là rất lớn. Nhưng trong thời
gian qua, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan việc khai thác du lịch ở đây chưa xứng
tầm. Lượng khách du lịch đến Kiên Giang còn ít, chỉ mang tính tự phát, các trung tâm lữ
hành các tỉnh và trong nước chưa quan tâm đúng mức.
Sản phẩm du lịch là yếu tố quyết định sự thành công của một điểm du lịch. Nếu
được quan tâm đúng mức, đầu tư xứng tầm, sự phối hợp đồng bộ, khai thác kịp thời, hợp
lý,…DLST ở tỉnh Kiên Giang sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài
nước, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, việc nghiên cứu DLST là một trong những vấn đề bức xúc. Đồng thời, việc
nghiên cứu này còn đóng góp, bổ sung nhận thức và sự vận dụng phát triển của DLST nói
chung. Vì vậy tôi chọn đề tài “Du lịch sinh thái ở Tỉnh Kiên Giang” làm luận văn thạc sĩ
kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, du lịch nói chung, DLST nói riêng đã có nhiều tác giả nghiên cứu ở
nhiều khía cạnh, phạm vi khác nhau.
Điển hình là một số công trình nghiên cứu:
- “Thị trường du lịch của Tỉnh Quang Ninh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần
Xuân Ảnh (2006) luận văn làm rõ cơ sở lý luận về thị trường du lịch và một số kinh
nghiệm phát triển thị trường du lịch ở một số địa phương.
- “Kinh tế du lịch Thừa Thiên Huế- Tiềm năng và phương hướng phát triển”, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hòa học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1997).
- “Du lịch trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Tỉnh Bình Thuận”, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế của Dụng Văn Duy (2004) Luận văn nói rõ đặc điểm, vai trò của du
lịch trong sự phát triển kinh tế, các nhân tố tác động đến du lịch trong quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế.
- “Phát triển du lịch ở Bà Rịa – Vũng Tàu”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Trần
Quốc Nhật (1996) luận văn làm rõ tính tất yếu khách quan và vai trò của du lịch đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội
- “Kinh tế du lịch ở Thanh Hóa, thực trạng và giải pháp phát triển”, Luận văn
thạc sĩ kinh tế Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005).
- “Phát triển du lịch ở An Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Hằng
(1999)
- “Phát triển du lịch Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”, luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị của Lê
Mai Khanh (2005).
Tỉnh Kiên Giang có một số đề tài nghiên cứu du lịch:
“Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc Tỉnh Kiên Giang”, Luận văn thạc sĩ
kinh tế của Huỳnh Vĩnh Lạc (2005).
Ngoài ra, còn có quy hoạch tổng thể phát triển ngành thương mại – du lịch của Tỉnh
đến năm 2010, Quy hoạch phát triển du lịch ở đảo Phú Quốc, Hà Tiên, Hòn Đất, Kiên
Lương, định hướng phát triển du lịch ở U Minh Thượng…
Tuy nhiên, đó là định hướng phát triển du lịch ở từng vùng, ngành khác nhau, việc đi
sâu nghiên cứu vai trò, đánh giá thực trạng DLST ở Tỉnh Kiên Giang thì vẩn còn mới mẽ, ít
người nghiên cứu. Là một công trình khoa học được nghiên cứu trên cơ sở kế thừa nhiều
công trình nghiên cứu trước đó, nhưng được vận dụng vào địa bàn mới. Đây là một vấn đề
có ý nghĩa thực tiễn rất cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Trên cơ sở làm rõ đặc điểm, vai trò của DLST với vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội, phân tích đánh giá thực trạng DLST ở tỉnh Kiên Giang thời gian qua, từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu để phát triển DLST trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ đặc điểm vai trò, nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của DLST.
- Phân tích thực trạng của DLST ở tỉnh Kiên Giang thời gian qua, rút ra những
vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển DLST ở tỉnh Kiên Giang
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là làm rõ vai trò, đánh giá đúng thực trạng của
DLST ở tỉnh Kiên Giang và đề xuất các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế
DLST đối với phát triển kinh tế-xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu
DLST trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Kiên Giang từ năm 2001
đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – lênin, các quan điểm
chủ trương, đường lối của Đảng, Chính sách pháp luật của nhà nước về phát triển du
lịch, đồng thời kế thừa những vấn đề lý luận về du lịch và DLST của các học giả
kinh tế trước đó để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở tỉnh Kiên Giang.
Luận văn còn sử dụng phương pháp trong nghiên cứu kết hợp lý luận với thực
tiễn, phân tích, thống kê, tổng hợp, lôgic-lịch.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích rõ vai trò, đánh gia đúng tiềm năng DLST đề ra các giải pháp để
tiếp tục phát triển DLST ở tỉnh Kiên Giang.
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng các kế
hoạch phát triển DLST ở tỉnh Kiên Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH SINH THÁI
1.1. DU LỊCH SINH THÁI VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI
1.1.1. Du lịch sinh thái và những đặc điểm cơ bản
1.1.1.1. Những quan niệm về du lịch sinh thái
Trong những năm qua, DLST như một hiện tượng và xu thế phát triển ngày càng
chiếm được sự quan tâm của các nước trên thế giới. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự
nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng; phát triển DLST đã mang lại
những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập quốc
gia và thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, nơi có
cảnh quan thiên nhiên, văn hóa hấp dẫn. Mặt khác, DLST còn góp phần vào việc nâng cao
dân trí và sức khoẻ cộng đồng thông qua giáo dục môi trường, văn hóa, lịch sử và nghỉ ngơi
giải trí. DLST là loại hình du lịch có trách nhiệm, thông qua các hoạt động nâng cao nhận
thức về bảo vệ môi trường, phát triển phúc lợi cộng đồng và đảm bảo cho sự phát triển bền
vững.
Du lịch sinh thái (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và nhanh chống
thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên,
đến nay chưa có nhận thức thống nhất, còn nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm
DLST. Các tổ chức và cá nhân tham gia nghiên cứu về loại hình du lịch này đều đưa ra
những định nghĩa của riêng mình:
Một trong những định nghĩa được coi là sớm về DLST mà đến nay vẫn được
nhiều người quan tâm là định nghĩa của Hội DLST Quốc tế đưa ra năm 1991: “Du lịch
sinh thái là loại hình du lịch có trách nhiệm đối với các vùng tự nhiên, bảo vệ môi
trường và duy trì cuộc sống yên bình của người dân địa phương” [16, tr.11].
Định nghĩa này đề cao trách nhiệm bảo vệ môi trường, giữ gìn, tôn tạo, tránh sự
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái, và cả cuộc sống của cư dân địa
phương.
Theo quỹ bảo tồn động vật hoang dã (WWF - World Wild Fund): "Du lịch sinh
thái đề cập tới các hoạt động du lịch đi tới các khu vực thiên nhiên hoang dã, gây tác
động tối thiểu tới môi trường tự nhiên và cuộc sống của các loài động thực vật hoang dã
trong khi mang lại một số lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương và những người bản
địa phục vụ tại đó" [16, tr.11].
Ở định nghĩa này, cũng đề cập đến hoạt động của DLST, đó là các khu vực tự
nhiên hoang dã và điều quan trọng là giảm thiểu những tác động tiêu cực đối môi trường
tự nhiên, mang lại những lợi ích kinh tế cho cộng cư dân địa phương, những người bản
địa làm việc trực tiếp trong ngành du lịch.
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO - World Tourism Organisation):
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch được thực hiện tại những khu vực tự
nhiên còn ít bị can thiệp bởi con người, với mục đích để chiêm ngưỡng, học
hỏi về các loài động thực vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm thiểu và
tránh được các tác động tiêu cực tới khu vực mà du khách đến thăm. Ngoài ra,
du lịch sinh thái phải đóng góp vào công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên
và phát triển những khu vực cộng đồng lân cận một cách bền vững đồng thời
phải nâng cao được khả năng nhận thức về môi trường và công tác bảo tồn đối
với người dân bản địa và du khách đến thăm [16, tr.11].
Đây là một định nghĩa tương đối đầy đủ nó phản nội dung hoạt động cũng như
những đặc điểm, mục đích của DLST. Đó là loại hình du lịch mang tính giáo dục, nâng
cao nhận thức và trách nhiệm cho các tổ chức, cá nhân trong việc bảo tồn giữ gìn môi
trường tự nhiên và môi trường văn hoá để đảm bảo cho sự phát triển bền vững ở những
nơi mà du khách tới thăm quan.
Tại hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển DLST tháng 9-1999 tại Hà
Nội: "Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa,
gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với
sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương" [29].
Có thể nói đây là một định nghĩa đầu tiên của Việt Nam về DLST mang đầy đủ những ý
nghĩa và nội dung của loại hình du lịch này. Nó được coi là cơ sở lý luận cho các nghiên cứu và
ứng dụng thực tế việc phát triển DLST ở Việt Nam.
Luật du lịch Việt nam (2005) đưa ra khái niệm DLST như sau: “Du lịch sinh thái
là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, với sự tham
gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững” [26, tr.11].
Mặc dù có thể khác nhau về diễn đạt và cách thể hiện nhưng trong các định nghĩa
về DLST đều có sự thống nhất cao về nội dung ở bốn điểm: Thứ nhất, được thực hiện
trong môi trường tự nhiên còn hoang sơ hoặc tương đối hoang sơ gắn với văn hoá bản địa.
Thứ hai, hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc tính tự nhiên, văn hoá và xã hội. Thứ
ba, có tính giáo dục môi trường cao và có trách nhiệm với môi trường. Thứ tư, phải mang lại
lợi ích cho cư dân địa phương và có sự tham gia của cộng đồng cư dân địa phương.
Các quan niệm trên về DLST đã tiếp cận theo nghĩa rộng bao quát được nội dung,
tính chất, mục đích của DLST.
Xét trên phạm vi nghiên cứu có thể cho rằng: Du lịch sinh thái phản ánh mối quan
hệ tích cực của con người với tự nhiên. Trong đó con người hòa nhập vào tự nhiên, biến
mình thành một bộ phận của tự nhiên, vừa khai thác tự nhiên, hưởng dụng vẽ đẹp, lợi ích
của tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu thưởng ngoạn của mình, đồng thời nuôi dưỡng và
phát triển tự nhiên, bảo đảm cho con người và tự nhiên một cuộc sống trường tồn.
Theo đó, du dịch sinh thái là hình thức phát triển du lịch bền vững. Nội dung hoạt
động diễn ra trong môi trường thiên nhiên, không chỉ là loại hình du lịch thiên nhiên hấp dẫn,
mà còn là du lịch có trách nhiệm, hỗ trợ các mục tiêu bảo vệ môi trường tự nhiên, các giá trị
văn hóa bản địa, phát triển cộng đồng và có tính giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm trong
việc bảo vệ môi trường, duy trì các nguồn tài nguyên du lịch, tiến tới phát triển bền vững.
Mục đích lớn nhất của DLST là góp phần tăng trưởng kinh tế, xã hội của quốc gia và địa
phương. Đây có thể coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển của DLST.
Phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái là những mặt bổ sung cho nhau
của cùng một chương trình hành động. Phát triển du lịch phải đi liền với bảo vệ môi
trường. Nếu không bảo vệ được môi trường sinh thái thì du lịch sẽ không phát triển. Do
đó phát triển DLST tương đồng với phát triển du lịch bền vững. Nếu không phát triển
du lịch theo hướng bền vững thì việc bảo vệ môi trường sẽ thất bại. Do đó, vừa phải
tuân theo xu hướng phát triển du lịch đồng thời phải bảo vệ môi trường sinh thái. Bên
cạnh đó, DLST còn đóng vai trò quan trọng góp phần phát triển kinh tế xã hội của quốc
gia và địa phương.
Tóm lại, DLST là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại
các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và đặc điểm văn
hóa đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động
bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách quan gây ra và tạo ra ích lợi
cho những người dân địa phương tham gia tích cực.
1.1.1.2. Những đặc trưng cơ bản về du lịch sinh thái
- Các đặc trưng xuất phát từ sản phẩm du lịch sinh thái
Sản phẩm DLST về cơ bản cũng không cụ thể không tồn tại dưới dạng vật thể.
Thành phần chính của sản phẩm DLST là dịch vụ, hàng hóa chiếm tỷ trọng nhỏ. Sản
phẩm DLST đa dạng và phong phú.
Do vậy việc đánh giá chất lượng sản phẩm DLST là rất khó khăn, vì thường mang
tính chủ quan và phần lớn là không phụ thuộc người kinh doanh mà phụ thuộc vào người
tiêu dùng - khách du lịch. Chất lượng sản phẩm DLST phụ thuộc vào tài nguyên du lịch.
Sản phẩm DLST thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Do
vậy, sản phẩm DLST ít có khả năng di chuyển được. Trên thực tế, không thể đưa sản
phẩm DLST đến nơi có người tiêu dùng - khách du lịch mà bắt buộc người tiêu dùng phải
đến với nơi có sản phẩm DLST để thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng.
Sản phẩm của DLST được tạo ra trên cơ sở giảm thiểu tác hại đến môi trường.
Dịch dụ vận chuyển: chủ yếu bằng phương tiện như đi bộ trong rừng, xe đạp, du
thuyền ; dịch vụ lưu trú: DLST đòi hỏi chủ yếu là nhà nghỉ sinh thái, sử dụng vật liệu ở
địa phương; dịch vụ ăn uống, đồ ăn, thức uống sạch, an toàn;…những sản phẩm DLST
này thật sự ít gây tác hại cho môi trường sinh thái.
- Các đặc trưng xuất phát từ tạo lập các sản phẩm DLST
Quá trình tạo lập sản phẩm DLST phải được chuẩn bị kỹ lưỡng và công phu, mang
tính thẩm mỹ cao. Việc xây dựng nhà nghỉ sinh thái, sản xuất hàng lưu niệm đòi hỏi
phải có thời gian và đáp ứng được các tiêu chí. Tiêu chí của DLST là khai thác tối đa
nguyên liệu sẵn có tại địa phương nhưng không làm tổn hại đến tài nguyên để tạo ra hàng
hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu du khách. Chính vì vậy, việc tạo lập sản phẩm DLST tốn
nhiều thời gian, phải chuẩn bị kỹ lưỡng để tạo ra những sản phẩm đặc thù.
Tạo lập sản phẩm du lịch không theo ý muốn chủ quan của những người kinh
doanh dịch vụ mà phải theo quy định chung nhằm tạo ra sự đồng bộ, đảm bảo cảnh quan
môi trường. Việc xây dựng cơ sở lưu trú, phương tiện vận chuyển khách du lịch phải theo
quy hoạch thống nhất đảm bảo cảnh quan thiên nhiên, không làm tổn hại đến môi trường
sống xung quanh.
Hướng dẫn viên đòi hỏi phải có chuyên môn, đồng thời là tuyên truyền viên trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường sinh thái, phải có kiến thức hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh
vực như: kiến thức văn hóa dân tộc, am hiểu về tài nguyên thiên nhiên, động thực vật, ý thức
cao trong bảo vệ môi trường,
- Các đặc trưng xuất phát từ tiêu dùng sản phẩm DLST
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm DLST trùng nhau về không
gian và thời gian. Chúng không thể cất đi, tồn kho như các hàng hóa thông thường khác.
Do vậy, để tạo ra sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là khó khăn. Việc thu hút khách
du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm DLST là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các nhà kinh
doanh du lịch.
Việc tiêu dùng sản phẩm DLST thường không diễn ra điều đặn, mà có thể tập trung
vào những thời điểm nhất định trong ngày (đối với dịch vụ lưu trú, nhà hàng, cơ sở ăn
uống), trong tuần (đối với sản phẩm thể loại du lịch cuối tuần), trong năm (đối với sản phẩm
là một số loại hình du lịch như: du lịch biển, du lịch nghỉ núi ) Vì vậy, trên thực tế hoạt
động kinh doanh du lịch thường mang tính mùa vụ. Sự dao động trong tiêu dùng sản phẩm
DLST gây khó khăn cho việc tổ chức và hoạt động kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh.
Trong quá trình tiêu dùng, sản phẩm DLST ít mất đi vì được tạo ra gắn liền với
yếu tố tài nguyên du lịch. Du khách thỏa mãn nhu cầu khi tiêu dùng sản phẩm du sinh
thái thông qua quan sát, ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, Do đó sản phẩm DLST thường vẫn
tồn tại.
Ngoài ra, DLST hoạt động chủ yếu trong môi trường thiên nhiên với đặc điểm đi
kèm là: loại hình du lịch khuyến khích bảo vệ môi trường sinh thái, khuyến khích sự
tham gia của cộng đồng dân cư và đem lại lợi ích về kinh tế xã hội thúc đẩy sự phát triển
bền vững. Loại hình này luôn được sự quan tâm điều hành của Chính phủ và các tổ chức
môi trường thế giới.
DLST là một dạng hoạt động tiêu dùng ở trình độ cao, lại biểu hiện với hình
thức kinh doanh. Người du lịch phải chi tiêu một khoản tiền nhất định cho việc đi lại,
ăn ở, vui chơi, mua sắm…; xã hội phải cung cấp các điều kiện tất yếu về việc giao
thông, phương tiện du lịch cho hoạt động này. Trong quá trình tiêu dùng sản phẩm du
lịch tất nhiên có liên quan với việc trao đổi về mặt chính trị, văn hóa từ đó tạo nên
chỉnh thể du lịch. Do đó, muốn tiêu dùng sản phẩm du lịch dễ dàng đòi hỏi phải phát
triển đồng bộ trên nhiều lĩnh vực.
1.1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới tạo lập và tiêu dùng sản phẩm du lịch sinh
thái
- Các nhân tố ảnh hưởng tới tạo lập các sản phẩm du lịch sinh thái
Tạo lập các sản phẩm DLST ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch.
DLST là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên rõ rệt. DLST còn có mối liên
hệ mật thiết với địa điểm mà khách du lịch có ý định tới thăm quan là cảnh quan quan thiên
nhiên tươi đẹp, môi trường trong lành, sự đa dạng, đặc sắc của văn hoá truyền thống bản
địa, ngành nghề truyền thống. Tài nguyên của DLST gồm: tài nguyên tự nhiên và tài
nguyên nhân văn hai yếu tố này gắn kết với nhau tạo nên sự hấp dẫn của DLST.
Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức hoạt động, phạm vi cũng như
cơ cấu và chuyên môn của khu, điểm DLST. Với mỗi loại tài nguyên có thể tổ chức loại
hình du lịch với những đặc trưng riêng, loại hình riêng để phục vụ các nhu cầu và mục
đích khác nhau của du khách.
Quy mô hoạt động du lịch được xác định trên cơ sở khối lượng, chất lượng nguồn
tài nguyên du lịch. Tài nguyên là yếu tố cơ bản tạo ra sản phẩm của DLST và nó cũng tham
gia vào việc tạo ra tính mùa vụ trong hoạt động du lịch, quyết định tính nhịp điệu của dòng
khách, thị trường khách du lịch.
Tài nguyên du lịch được xem là tiền đề để phát triển DLST. Thực tế cho thấy, tài
nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt
động du lịch càng cao bấy nhiêu. DLST là loại hình du lịch gắn liền với thiên nhiên và môi
trường nên nguồn tài nguyên lại càng quan trọng hơn và cũng có nguy cơ thường xuyên bị
đe dọa xâm hại và tàn phá. Muốn phát triển DLST một cách bền vững thì một hoạt động
mang tính nguyên tắc là việc khai thác phải đi đôi với việc bảo vệ và nuôi dưỡng tài
nguyên.
Một quốc gia, một khu vực được du khách quan tâm chỉ khi ở đó có nguồn tài
nguyên về du lịch phong phú, hệ động, thực vật đa dạng được bảo tồn và phát triển, môi
trường thiên nhiên trong lành, môi trường văn hóa xã hội độc đáo. Vì vậy, việc bảo
tồn và phát triển nguồn tài nguyên cho du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì
chính tài nguyên là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình và sản phẩm DLST.
Việc phát triển nhà nghỉ sinh thái người dân khai thác gỗ trong rừng làm cho nguồn
tài nguyên rừng cạn kiệt, xảy ra tình trạng phá rừng. Dịch vụ ăn uống hàng tiêu dùng
hàng lưu niệm người khai thác săn bắn động vật, hải sản quý hiếm từ đó ảnh hưởng
đến việc bảo tồn. Du khách dùng lửa để đun nấu, nướng các loài động vật, thủy sản
trong khi đi tham quan làm xảy ra nguy cơ cháy rừng, nguy hại đến tài nguyên rừng
Tạo lập sản phẩm DLST chịu ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ DLST là toàn bộ phương tiện vật chất tham gia vào
việc tạo ra sản phẩm dịch vụ hàng hoá du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách du lịch.
Với DLST nó bao gồm các hoạt động nhằm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu
cầu đi lại, ăn uống, lưu trú, mua sắm, giải trí, thông tin liên lạc, các hoạt động giảng giải,
hướng dẫn, nghiên cứu thiên nhiên và văn hoá… của khách du lịch. Vì vậy, phạm vi hoạt
động kinh doanh rất rộng, bao gồm hệ thống các cơ sở lưu trú du lịch, nhà hàng, các điểm
vui chơi giải trí, cho đến hệ thống giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc…
Mặc dù DLST là hình thức du lịch dựa nhiều vào thiên nhiên, tạo lập sản phẩm DLST
phải đảm bảo nguyên tắc hạn chế tối đa việc tác hại đến môi trường thiên nhiên và hệ sinh
thái. Tuy nhiên, đây là một hoạt động phục vụ “con người” trong khi cơ sở hạ tầng kỹ thuật
là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển và thu hút khách du lịch đó là:
đường giao thông, phương tiện đi lại, cơ sở lưu trú, dịch vụ y tế, các dịch vụ bổ sung như hệ
thống thông tin liên lạc, các hoạt động vui chơi giải trí, hàng lưu niệm… đặc biệt vấn đề
thông tin liên lạc là một khâu quan trọng đối với phát triển du lịch nói chung và phát triển
DLST nói riêng. Mặc dù, muốn tách khỏi sự ồn ào của đời sống đô thị công nghiệp tuy nhiên
du khách vẫn cần có thông tin liên lạc để liên lạc với người thân, bạn bè và giải quyết công
việc làm ăn.
Những nơi có điều kiện cho phát triển DLST thường nằm ở vùng sâu, vùng xa
việc đi lại thường gặp nhiều khó khăn, vì vậy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để du
khách có thể đến được những điểm thăm quan là rất cần thiết. Tuy nhiên, nếu việc quy
hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng không hợp lý và khoa học thì sẽ dễ dẫn đến phá vỡ
cảnh quan môi trường. Việc lập quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng cho phù hợp, thân
thiện với môi trường là vô cùng quan trọng. Hệ thống giao thông phải được thiết kế để
chống xói mòn và đảm bảo nơi cư trú cho động thực vật. Triệt để sử dụng các thiết bị
tiết kiệm năng lượng. Các thiết bị xử lý chất thải, nước thải phải được sử dụng phù
hợp, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, nơi vui chơi giải trí là những hạng mục cơ sở hạ
tầng cần được đặc biệt coi trọng về mặt thiết kế cũng như việc sử dụng vật liệu xây
dựng và địa điểm xây dựng… Đó là yêu cầu quan trọng không chỉ đảm bảo cho sự
phát triển DLST bền vững mà còn có cả ý nghĩa kinh tế xã hội. Xây dựng cơ sở vật
chất đảm bảo cho việc cung cấp và làm thỏa mãn nhu cầu của khách tham quan cùng
với việc đảm bảo cho phát triển bền vững là yêu cầu quan trọng của DLST.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu dùng sản phẩm du lịch sinh thái
Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá: Đây là một khâu quan trọng trong quá trình tiêu
dùng sản phẩm du lịch, phát triển và xây dựng thương hiệu, hình ảnh. Đối với DLST việc
tuyên truyền quảng bá và hoạt động xúc tiến thương mại còn quan trọng hơn.
Trên thực tế nhu tiêu dùng sản phẩm du DLST ngày càng cao. Nếu một điểm du
lịch hay một khu du lịch dù có cảnh quan thiên nhiên độc đáo, hấp dẫn, môi trường trong
lành, hệ sinh thái da dạng nhưng nếu những thông tin về nó không được quảng bá, không
đến được với du khách thì chắc chắn điểm du lịch đó cũng không có nhiều khách đến
thăm, tiêu dùng sản phẩm DLST gặp nhiều khó khăn.
Hoạt động xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá bằng nhiều hình thức khác nhau.
Một trong những đặc điểm của tiêu dùng sản phẩm DLST là nó chỉ xuất hiện khi
khách hàng, khách du lịch đến sử dụng, thăm quan… Ngày nay, với sự phát triển vượt
bậc của khoa học - kỹ thuật, sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin, do
đó có rất nhiều hình thức quảng bá, xúc tiến phát triển du lịch. Việc xây dựng, duy trì
và nâng cao chất lượng sản phẩm DLST, môi trường cảnh quan thiên nhiên độc đáo
hay thái độ phục vụ, hành vi ứng xử có văn hóa của nhân viên phục vụ, cộng đồng dân
cư địa phương đó là những phương thức quảng bá hữu hiệu nhất. Nếu như công tác
quảng bá được chú trọng đúng mức, duy trì thường xuyên thì nó sẽ là một nhân tố quan
trọng cho việc phát triển DLST.
Số lượng dân cư và chất lượng lao động: Việc tiêu dùng sản phẩm DLST thông
qua khách du lịch. Vì vậy, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh và quan trọng
hơn là ảnh hưởng tới môi trường sinh thái, hệ động thực vật. Hệ sinh thái, môi trường tự
nhiên sẽ rất dễ bị phá vỡ nếu mật độ dân cư quá đông, trình độ dân trí thấp.
Đối với DLST, sự tham gia của cư dân địa phương đóng một vai trò quan trọng.
Trên thực tế, mối quan hệ giữa người dân bản địa và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là
một quan hệ gắn bó được thiết lập lâu đời. Ở nhiều nơi, người dân địa phương sử dụng tài
nguyên thiên nhiên như phương tiện sống hay một kế sinh nhai của mình và họ biết cách
để bảo vệ, kiểm soát việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tránh đi tình trạng tàn phá tài
nguyên.
Lao động là yếu tố quan trọng trong tiêu dùng sản phẩm và phát triển DLST. Lao
động làm việc trong các đơn vị này ngoài những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, họ
còn phải là các chuyên gia về môi trường, sự hiểu biết sâu rộng về hệ động, thực vật tại
khu vực mà họ làm việc, giảng giải thuyết minh cho khách tham quan.
Rõ ràng vai trò của dân cư và ngồn nhân lực là rất quan trọng, phải có những chiến lược
để quy hoạch dân cư và phát triển nguồn nhân lực một cách khoa học có như vậy mới đảm bảo
cho DLST đi đúng hướng và phát triển bền vững.
Việc tạo ra và tiêu dùng sản phẩm DLST ngay tại chỗ, tức là thời điểm sản xuất và
tiêu thụ diễn ra liền kề tại một địa điểm. Do đó, để tạo ra ăn khớp giữa sản xuất và tiêu
dùng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc thu hút khách du lịch là vấn đề vô cùng quan
trọng đối với các nhà kinh doanh du lịch. Sản phẩm DLST là các hàng hóa, dịch vụ phục
vụ nhu cầu của du khách, do đó việc tiêu dùng cũng bị giới hạn bởi không gian và thời
gian, chất lượng sản phẩm. Nhu cầu tiêu của khách du lịch đa dạng, tiêu dùng sản phẩm
DLST có tính đa chức năng. Chính vì vậy, việc tiêu dùng sản phẩm DLST cũng bị ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm DLST.
Ngoài ra, trong quá trình tiêu dùng sản phẩm DLST không mất đi nó vẫn tồn tại.
Đặc điểm này cho thấy, nếu dùng công cụ điều tiết lượng cung ứng sản phẩm ra thị
trường thì không thể có tác động nhanh chống như các hàng hóa khác.
Tiêu dùng sản phẩm DLST củng bị ảnh hưởng đến thời tiết, khí hậu và mùa vụ.
Trước hết đa số khách DLST là những người có tuổi, trình độ văn hóa, thu nhập
cao, thường họ đi du lịch vào những kỳ nghỉ cùng với gia đình, bạn bè. Nếu thời tiết, khí
hậu và mùa vụ không phù hợp thì ảnh hưởng đến tiêu dùng sản phẩm DLST. Ngoài ra, do
đặc trưng của tiêu dùng sản phẩm DLST cho nên cũng mang tính thời vụ cao. Sự giao
động về thời gian trong tiêu dùng sản phẩm DLST gây khó khăn cho tổ chức và hoạt
động kinh doanh. Khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh du lịch luôn là vấn đề bức
xúc.
Ngoài ra, tiêu dùng sản phẩm DLST chịu ảnh hưởng đến các qui định, các cơ chế,
chính sách và hệ thống pháp luật. Chính yếu tố này đảm bảo cho DLST phát triển đồng
thời cũng làm hạn chế nhu cầu tiêu dùng, không thể đáp ứng, phục vụ đầy đủ yêu cầu tiêu
dùng của du khách.
1.1.2. Các hình thức tồn tại của du lịch sinh thái
DLST là ngành kinh tế có định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên DLST rất phong phú
và đa dạng cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Do đó, DLST tồn tại với
nhiều hình thức khác nhau. Dựa vào tài nguyên DLST và sự hướng dụng các sản phẩm du lịch có
thể chia DLST thành các loại hình sau:
- Một là: du lịch biển: đó là du lịch mà du khách đến thưởng ngoạn các phong
cảnh hữu tình của mặt biển, đáy biển và các phong cảnh đẹp của đảo, bán đảo và hưởng
dụng các sản phẩm do biển cung cấp như: cua, sò, cá, san hô, thảm cỏ biển…
Mục tiêu chủ yếu của du khách là về với thiên nhiên, tham gia các hoạt động du
lịch biển, đảo như: tắm biển, thể thao biển, lặn biển, xem chim thú các loài động thực vật
trên đảo, dưới biển, nghỉ dưỡng biển, câu cá, thẻ mực, du thuyền trên biển, Thời gian
thuận lợi cho loại hình này là mùa nóng, khi nhiệt độ nước biển và không khí trên 20
0
C.
Tuy nhiên, thường bị ảnh hưởng đến thời tiết, nhưng lại có nơi có thể tổ chức du lịch
quanh năm. Mặt khác, điều kiện chất lượng mặt nước biển, bãi biển, độ dốc không phải
nơi nào cũng phù hợp cho du lịch tắm biển. Loại hình này được những người có thu nhập
cao ưa thích và có thể lưu lại dài ngày.
- Hai là: Du lịch núi và hang động: là loại hình du lịch mà du khách khám phá
các đỉnh núi cao, hang động huyền ảo, ngắm phong cảnh, chim thú lạ…Do tính độc đáo
loại hình du lịch này rất thích hợp cho du lịch tham quan, nghỉ núi, khám phá núi và hang
động, cắm trại, mạo hiểm rất thích hợp những du khách ưa thích cảm giác mạnh.
- Ba là: Du lịch rừng sinh thái thiên nhiên: là oại hình du lịch mà du khách tham
quan hệ sinh thái thiên nhiên hoang dã, ngắm phong cảnh, xem chim, thú và hưởng dụng
các sản phẩm của rừng cung cấp như: cá, thú… Hệ sinh thái thiên nhiên điển hình là
Vườn quốc gia, KDTSQ. Đây là một khu vực thiên nhiên hoang dã có đặc điểm nổi bậc
về hệ sinh thái và các loài động, thực vật được bảo vệ để duy trì đảm bảo phát triển bền
vững.
Hệ sinh thái Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên là những vùng có sức cuốn
hút lớn đối với khách du lịch. Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên được xây dựng
nhằm ngăn chặn việc khai thác quá mức đời sống hoang dã và cảnh quan môi trường. Do
tính độc đáo của nó, cho nên rất thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch như: du lịch
tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí ngoài trời, tìm hiểu thiên nhiên hoang dã, giáo dục, văn
hóa, du lịch khám phá, cấm trại, về nguồn, xem chim thú, câu cá, đi bộ trong rừng,…
Loại hình du lịch này có khả năng thu hút người có thu nhập, trình độ cao, những
người làm việc bận rộn, căn thẳng, người thành thị họ muốn thưởng thức cuộc sống yên
tỉnh, môi trường trong lành, tiềm hiểu lịch sử, nghiên cứu khoa học Đây là hình thức tồn
tại đặc trưng của DLST. Loại hình này khuyến khích phát triển nhà nghỉ sinh thái, bảo
tồn thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường.
-Bốn là: Du lịch thăm bản làng dân tộc: Đây là nguồn tài nguyên nhân văn ở các
khu sinh thái tự nhiên. Ở các làng bản dân tộc, nét độc đáo thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước đó là cộng đồng dân cư với vốn văn hoá truyền thống của họ như: các món ăn
đặc sản, kiến trúc nghệ thuật, lối sống, sinh hoạt lễ hội và văn hoá dân gian…loại hình
này rất hấp dẫn du khách nước ngoài.
- Năm là: Du lịch thôn quê: Đối với người dân đô thị, làng quê là nơi có không khí
trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng. Tất cả các yếu tố đó, lại hoàn
toàn không còn tìm thấy ở thành thị. Như vậy, về nông thôn có thể giúp họ phục hồi sức
khỏe sau những chuỗi ngày làm việc căng thẳng. Về phương diện kinh tế, người dân đô
thị nhận thấy giá cả nhiều hàng hóa nông sản thực phẩm ở nông thôn rẻ hơn, tươi hơn.
Điều đó làm cho tăng mối thiện cảm khi du khách tiềm năng quyết định du lịch về nông
thôn. Mặt khác, về mặt tình cảm người đô thị tìm thấy ở nông thôn cội nguồn của mình.
Dưới gốc độ xã hội, người thành thị thấy người dân ở làng quê tình cảm chân thành, mến
khách và trung thực.
Loại hình du lịch thôn quê được ưa thích là tham quan phong cảnh làng quê, du
thuyền trên sông nước, câu cá, thăm vườn cây ăn trái, trải nghiệm cuộc sống làng quê - ở
nhà dân, du lịch về nguồn, thăm giếng người thân.
Sáu là: Du lịch gắn với chữa bệnh: là loại hình du lịch thưởng ngoạn cảnh quan
thiên nhiên, yên tỉnh, môi trường trong lành gắn với chữa bệnh như suối nước, nghỉ
dưỡng…. loại hình nay rất thích hợp cho người lớn tuổi.
1.2. VAI TRÒ CỦA DU LỊCH SINH THÁI VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Vai trò của du lịch sinh thái với vấn đề phát triển kinh tế
1.2.1.1. Vai trò của du lịch sinh thái trong tích luỹ vốn cho phát triển nông
nghiệp và công nghiệp
DLST có tác động tích cực góp phần làm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
DLST đạt hiệu quả kinh tế cao là nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước và được
xem là ngành “công nghiệp không khói”, “xuất khẩu tại chỗ” đem lại nguồn thu ngoại tệ
lớn góp phần tăng nhanh nguồn thu cho vùng du lịch, thông qua tiêu dùng sản phẩm du
lịch và xuất khẩu hàng hóa.
Tổ chức du lịch thế giới tổng kết trong vòng 40 năm (1950-1991) Số tiền các nước
thu được do tiếp nhận khách du lịch tăng 57,4 lần (từ 2,1 tỷ USD lên 278 tỷ USD). Chi
tiêu bình quân của một khách du lịch quốc tế đã tăng từ 80 USD năm 1950 lên 681 USD
năm 1991. Tốc độ tăng trưởng bình quân của du lịch quốc tế hàng năm 7% lượng khách và
11% về thu nhập, chiếm 6,5% tổng sản phẩm quốc dân và bằng 1/3 doanh thu khối dịch du
toàn cầu.
Thông qua tiêu dùng sản phẩm DLST, tác động đến lĩnh vực lưu thông và xuất
hiện “cung - cầu” hàng hoá, dịch vụ. Lượng khách càng nhiều thì nhu cầu hàng hoá, dịch
vụ càng lớn. Hàng hóa dịch vụ bao gồm vô hình và hữu hình. Chính vì vậy, nó tác động
mạnh đến các lĩnh vực, các ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao
thông vận tải, Lượng khách đến điểm du lịch sẽ tiêu thụ một lượng hàng hoá lớn dưới
dạng các món ăn, đồ uống, hàng lưu niệm…tạo cho ngành nông nghiệp phát triển, giúp
cho địa phương có được nguồn thu ngoại tệ tại chỗ với hiệu quả cao. Nông nghiệp phát
triển kéo theo công nghiệp phát triển để sản xuất ra những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu
của khách như: Công nghiệp chế biến, bảo quản,…Việc xuất khẩu thông qua khách du
lịch sẽ có lợi hơn rất nhiều vì bán giá nội địa, giá thành thấp, tiết kiệm chi phí bảo quản,
vận chuyển…Từ đó làm tăng thu nhập cho vùng du lịch và tăng hiệu quả nền kinh tế.
Từ nguồn thu DLST sẽ có thêm nguồn vốn, khoa học kỹ thuật để đầu tư đẩy mạnh
cho phát triển công nghiệp và nông nghiệp phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách
du lịch. Mở rộng đầu tư, trùng tu, tôn tạo, nghiên cứu bảo tồn các khu DLST. DLST là
cầu nối để phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Trong điều kiện nước ta hội nhập ngày càng sâu, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới
sẽ có điều kiện thuận lợi mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ, huy động và
khai thác có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của các tổ chức cá nhân như: nguồn vốn hỗ trợ
ưu đãi của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng phát triển châu
Á (ADB), nguồn vốn tài trợ của các tổ chức môi trường thế giới, nguồn vốn đầu tư của các
tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước các nguồn vốn này sẽ tạo
điều kiện phát triển DLST nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
1.2.1.2. Vai trò của du lịch sinh thái trong tăng thu nhập
DLST là một trong những giải pháp tích cực để nâng cao thu nhập. Nguồn tài
nguyên hoang sơ, thú quý hiếm, không khí trong lành, nền văn hóa độc đáo là tiền đề để
phát triển DLST, từ đó sẽ tạo ra cơ hội để phát triển kinh tế ở địa phương. Khi DLST
phát triển người dân được nhận vào làm tại các cơ sở kinh doanh du lịch trở thành hướng
dẫn viên hoặc tham gia phục vụ du lịch tại địa phương. Điều này, làm giảm sức ép đối
với các khu bảo tồn và làm giảm việc tàn phá tài nguyên thiên nhiên của con người.
Sự phát triển DLST có quan hệ và tác động qua lại với trình độ phát triển kinh tế
xã hội. Kinh tế xã hội phát triển cao thúc đẩy sự ra đời và phát triển DLST. Đồng thời,
DLST phát triển tác động trở lại thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn, thực hiện phân
công lại lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng
của ngành công nghiệp và dịch vụ, nâng cao thu nhập xã hội, cải thiện đời sống con
người.
Phát triển DLST thu hút một lượng lao động lớn tham gia trực tiếp và gián tiếp
vào các hoạt động phục vụ khách du lịch. Trong đó, thu nhập từ các hoạt động phục vụ
khách du lịch như: lưu trú, ăn uống, hướng dẫn viên, các hàng hoá mỹ nghệ mang tính
chất đặc thù của địa phương chiếm tỷ trọng lớn. Điều này, làm cho đời sống của cư dân
địa phương ngày càng được cải thiện và đảm bảo có một mức sống tốt hơn.
Nhiều nước trên thế giới phát triển du lịch thu hút một lượng lao động rất lớn. Đơn
cử như việc phục vụ khách sạn du lịch bình quân ở châu Âu cứ 1 phòng sử dụng 1 đến
1,2 lao động; Đặc biệt, có những đảo du lịch huy động lực lượng lao động từ 30-35% lao
động ở địa phương. Theo số liệu của Tổ chức Du lịch thế giới toàn ngành du lịch thế giới
đã tạo ra trên 200 triệu chỗ làm việc, thu hút được 10,2% lực lượng lao động toàn cầu.
Dự kiến đến năm 2010 sẽ tạo thêm 150 triệu chỗ làm. Ở nước ta, tại các cơ sở lưu trú du
lịch, tỷ lệ lao động bình quân từ 1,2 đến 1,7 người/phòng với mức thu nhập hiện nay
khoảng từ tám trăm đến 1,5 triệu đồng/tháng. Mức thu nhập gián tiếp trung bình khoảng
sáu trăm đến 1,2 triệu đồng/tháng.
Phát triển DLST còn được coi là một giải pháp để thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh
tế nông nghiệp và nông thôn và phát triển nền kinh tế hàng hoá với các ngành nghề đa
dạng, đưa tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh.
Khách DLST ngoài việc đi du lịch họ còn có những nhu cầu thưởng thức những
món ăn đặc sản địa phương, mua sắm quà lưu niệm điều này sẽ tạo việc làm, phát triển
sản xuất nông, lâm nghiệp và thúc đẩy phát triển những ngành nghề thủ công truyền
thống như sản xuất đồ lưu niệm bằng nguyên liệu mây, tre, gỗ, đá, dệt thổ cẩm
Văn hóa địa phương luôn hấp dẫn khách DLST, họ muốn được xem, tìm hiểu
nghiên cứu. Khi DLST phát triển nó như là một hình thức để giữ gìn bản sắc, văn hóa bản
địa, vừa tạo thu nhập cho nhân dân địa phương thông qua các buổi biểu diễn văn nghệ,
các lễ hội truyền thống.
1.2.1.3. Vai trò của du lịch sinh thái trong thúc đẩy đầu tư
Trong quá trình hoạt động, DLST đòi hỏi số lượng lớn vật tư, hàng hoá đa dạng,
chất lượng cao. DLST là lĩnh vực đầu tư vốn ít và thu lợi nhuận cao. Do đó, thu hút nhiều
nhà đầu tư kinh doanh du lịch, dịch vụ. Ngoài ra, DLST góp phần huy động nguồn vốn
nhàn rỗi trong nhân dân vào vòng chu chuyển. Khách du lịch mang tiền tư nơi khác đến
tiêu dùng ở khu du lịch góp phần làm sống động kinh tế của vùng và đất nước. Thông
qua lĩnh vực lưu thông mà DLST có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của nhiều
ngành kinh tế như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ… Do đó, cần phải có sự đầu tư
đáng kể để phục vụ nhu cầu của khách du lịch.
Phát triển DLST có khả năng thu hồi tiền tệ. Đối với những nơi xa điều kiện kinh
tế chậm phát triển thì phát triển DLST là con đường đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế -
xã hội nâng cao đời sống nhân dân. Trong tình hình khả năng có hạn, thông qua phát triển
DLST để thu hồi tiền tệ là biện pháp ổn định lượng lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả. Khối
lượng tiền tệ mà du lịch mang vào và tiêu thụ tại vùng du lịch và những khoản thuế, lệ
phí khác đã tạo thuận lợi cho chính quyền địa phương có thêm nguồn vốn để đầu tư phát
triển như: Đầu tư cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, các dịch vụ phục vụ khách
du lịch và đầu tư phát triển các ngành kinh tế khác như: Thủ công mỹ nghệ, công nghiệp
và nông nghiệp…
Trong lĩnh vực kinh doanh, phát triển DLST là một cơ hội cho các nhà đầu tư thu
lợi nhuận cao thông qua việc cung ứng những hàng hoá và dịch vụ phục vụ nhu cầu
khách du lịch. Do đó, phát triển DLST sẽ tăng cường thúc đẩy các thành phần kinh tế đầu
tư. Bên cạnh đó, DLST góp phần định hướng cho sự phát triển của các ngành kinh tế trên
các mặt: Số lượng, chủng loại, chất lượng, sản phẩm và chuyên môn hoá trong sản xuất.
Sự sẵn sàng đón khách ở địa phương không chỉ thể hiện ở chỗ: Những nơi có tài
nguyên du lịch mà bên cạnh chúng cần phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật. Việc khai thác có
hiệu quả tài nguyên du lịch là phải đầu tư xây dựng đường sá, mạng lưới thương mại, bưu
điện…qua đó kích thích sự phát triển tương ứng của các ngành kinh tế có liên quan như:
kiến trúc, cảnh quan, môi trường, y tế, giáo dục đào tạo, xây dựng nông nghiệp, công
nghiệp, vận tải…Ngoài ra, đánh thức một số ngành, nghề sản xuất thủ công truyền thống.
Phát triển DLST trên cơ sở mang lại lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư và cho xã hội.
Do đó, việc đầu tư phát triển các ngành phải trên cơ sở thị hiếu tiêu dùng đa dạng của
khách du lịch, cung - cầu của thị trường du lịch.
Trong thời gian qua, việc tích cực đẩy mạnh hợp tác và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế đã thu hút vốn đầu tư rất lớn cho phát triển du lịch của các tổ chức, thành phần
kinh tế trong và ngoài nước….Tính từ năm 2001 đến năm 2007 đã thu hút vốn đầu tư
FDI với tổng số vốn trên 4 tỷ USD với 182 dự án; Riêng năm 2007 thu hút 35 dự án với
vốn đầu tư 1,800 tỷ USD. Đầu tư hạ tầng du lịch giai đoạn 2001 đến 2007 đạt 3.316 tỷ
đồng.
1.2.1.4. Vai trò của du lịch sinh thái trong mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Cùng với xu thế chung của thế giới, DLST cũng có vai trò trong mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, DLST chính là con đường tiếp cận
với các quốc gia bên ngoài một cách hữu hiệu nhất góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau, đoàn kết các dân tộc, địa phương vì hoà bình hợp tác và phát triển. Đồng thời, thu
hút nhiều nhà đầu tư vào kinh doanh du lịch và phát triển cơ sở hạ tầng.
Phát triển DLST giúp ích cho việc cải thiện và nâng cao vị thế quốc gia trên
trường quốc tế. DLST là cầu nối mở rộng quan hệ đối ngoại, giao lưu kinh tế, văn hoá
giữa các dân tộc các địa phương “DLST là sứ giả của hoà bình”. Thông qua phát triển
DLST các quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và mở rộng. Mở rộng giao lưu hợp tác
quốc tế trong việc bảo tồn tài nguyên du lịch, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích văn
hoá lịch sử; hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, bảo tồn
động, thực vật quý hiếm, hợp tác đầu tư, tua, tuyến du lịch, trao đổi hàng hoá…
Các nước trong khu vực hoặc các nước trên thế giới là điểm đến của du lịch.
DLST thực hiện sự giao lưu không gian, sản phẩm xã hội và của cải quốc dân, phân phối
lại thu nhập giữa các khu vực, tăng thu ngoại tệ, cân bằng thu, chi quốc tế, thu hồi ngoại
tệ…
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đã ký 25 hiệp định hợp tác song phương với
các nước, đồng thời thiết lập quan hệ bạn hàng trên một nghìn hãng của hơn 60 nước và
vùng lãnh thổ. Đặc biệt, nhằm tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế Việt Nam đã áp
dụng miễn thị thực song phương cho công dân 6 nước trong khối ASEAN, đơn phương miễn
thị thực cho du khách đến từ nhật Bản, Hàn Quốc và 4 nước Bắc Âu vào Việt Nam trong
vòng 15 ngày.
1.2.1.5. Vai trò của du lịch sinh thái trong phát triển kinh tế thị trường
DLST phát triển kích thích, làm động lực cho kinh tế thị trường phát triển. Sản
phẩm của DLST thường phong phú, đa dạng chất lượng cao. Dó đó, đòi hỏi phải mở rộng
giao lưu hợp tác, ứng dụng khoa học - công nghệ trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực để
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch. DLST có ảnh hưởng đến kinh tế thể hiện
thông qua tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá
trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến những lĩnh
vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trên bình diện chung, hoạt động DLST có tác động biến đổi cán cân thu chi của
khu vực và của đất nước. Khách du lịch quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước du lịch làm
tăng nguồn thu ngoại tệ. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế
khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước, song có tác dụng điều
hòa các nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kém phát triển hơn, kích thích
phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa.
Khi khu vực nào đó trở thành một điểm DLST, du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm
cho nhu cầu mọi hàng hóa tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn vật tư, hàng
hóa các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành kinh tế có liên quan đặc biệt là nông
nghiệp và công nghiệp chế biến…Bên cạnh đó, hàng hóa và vật tư du lịch đòi hỏi phải có
chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là
yêu cầu hàng hóa phải được sản xuất trên một công nghệ cao, trình độ tiên tiến. Các chủ
xí nghiệp bắt buộc phải đầu tư trang thiết bị hiện đại tuyển chọn và sử dụng công nhân có
tay nghề cao để sản xuất các mặt hàng đáp ứng nhu cầu du khách.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa trong hợp tác và phát triển luôn giữ vai trò chủ đạo
trên thế giới. Hội nhập kinh kế quốc tế yêu cầu của mỗi quốc gia cần thực hiện chính
sách kinh tế thị trường, kinh tế mở, tham gia các chế định kinh tế quốc tế, thực hiện tự do
hóa và thuận lợi hóa trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Thực hiện hội nhập kinh tế
theo hướng bền vững là định hướng chung cho sự phát triển của các quốc gia trên thế giới
vì lợi ích chung của toàn nhân loại. Mục tiêu của Tổ chức Thương mại thế giới chính là
tạo điều kiện thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho phát
triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường. Vì thế, đối với phát triển DLST bao gồm
các lĩnh vực kinh tế chủ yếu, các dịch vụ, thương mại, trao đổi hàng hóa quốc tế và bảo
vệ môi trường sinh thái…đều có vai trò quan trọng trong phát triển bền vững của nền
kinh tế thế giới. Phát triển DLST bảo vệ môi trường có ảnh hưởng mang tính quyết định
đối với sự sống của nhân loại. Do đó, bảo vệ, cải thiện môi trường sinh thái là nhiệm vụ
chung của các quốc gia đồng thời cũng là nhằm bảo vệ mục tiêu phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia và toàn thế giới phát triển một cách ổn định và bền vững. DLST phát triển
có vai trò quang trọng trong việc nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa và
dịch vụ.
1.2.2. Vai trò của du lịch sinh thái trong phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường
1.2.2.1. Vai trò của du lịch sinh thái trong phát triển xã hội
- Du lịch sinh thái có vai trò thúc đẩy đào tạo con người phục vụ nhu cầu phát
triển.
Nhu cầu lao động trong ngành DLST và các ngành có liên quan là rất lớn với
nhiều cấp độ chuyên môn khác nhau. Có bộ phận đòi hỏi chuyên môn rất cao như: quản
lý, hướng dẫn viên, quản lý tổ chức hoạt động lữ hành…, nhưng cũng có những bộ phận
trình độ chuyên môn ở cấp thấp hơn như: nhân viên khách sạn, nhà hàng, làm tạp
vụ…Chính tính đa dạng phong phú về chủng loại và đông về số lượng đòi hỏi việc đào
tạo cán bộ, nhân viên cho ngành du lịch phải được coi trọng cả về chất lượng, cơ cấu và
qui mô. Phát triển DLST đòi hỏi phải có hệ thống giáo dục đồng bộ, đa dạng.
Mục tiêu của DLST là phát triển du lịch bền vững. Do đó, con người là yếu tố
quyết định cho sự phát triển đó. Vì vậy, giáo dục, đào tạo được đặc biệt quan tâm. Đào
tạo những người có tay nghề về quản lý, phân tích đánh giá tài nguyên, hoạch định chiến
lược và thực hiện chiến lược phát triển du lịch… Phát triển DLST không nằm ngoài mục
tiêu vì con người. Đào tạo lao động có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu phát triển
DLST, ngoài ra còn phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Du lịch sinh thái có vai trò nâng cao trình độ dân trí.
Khách DLST có trình độ cao, do đó người lao động phục vụ và người dân địa
phương phải được đào tạo nâng cao trình độ. Đây là yêu cầu, yếu tố không thể thiếu.
Trình độ dân trí cao tạo ra cho mỗi người có ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi
trường sinh thái, công trình văn hoá, tài nguyên du lịch, an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội; nâng cao phong cách ứng sử lịch sự hòa nhã với khách, thể hiện rõ bản sắc dân
tộc, tạo ra cho khu DLST có tính chất đặc thù thu hút lượng khách du lịch.
Du khách đến địa điểm du lịch ngoài tham quan cảnh quan thiên nhiên họ còn giao
lưu văn hóa học hỏi lẫn nhau. Sự so sánh các nền văn hóa bổ sung thêm những yếu tố tích
cực của nền văn hóa khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp của địa phương mình là
phần tích cực mang tính giáo dục cao.