TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
MÔN: KINH TẾ KHU VỰC VÀ ASEAN
ĐỀ TÀI:
CƠ HỘI HỢP TÁC THƯƠNG MẠI – ĐẦU TƯ VÀ LAO ĐỘNG
GIỮA VIỆT NAM VÀ BRUNEI
Giảng viên: Nguyễn Ngọc Diệp
Mã LHP: 2163FECO2031
Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Hà Nội – 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
3
NỘI DUNG
4
CHƯƠNG I: CƠ HỘI HỢP TÁC THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM – BRUNEI
4
1. Thực trạng hợp tác thương mại
4
1.1 Thương mại hàng hóa VN - Brunei
4
1.2 Thương mại dịch vụ Việt Nam - Brunei
8
2. Đánh giá thực trạng hợp tác thương mại Việt Nam - Brunei
11
3. Cơ hội và thách thức
13
3.1 Cơ hội
13
3.2 Thách thức
15
4. Biện pháp
16
5. Triển vọng hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Brunei trong tương lai
17
CHƯƠNG II. CƠ HỘI HỢP TÁC ĐẦU TƯ GIỮA VIỆT NAM - BRUNEI
18
1. Thực trạng giữa Việt Nam - Brunei về đầu tư
18
2. Đánh giá thực trạng đầu tư giữa Brunei và Việt Nam
20
3. Cơ hội và thách thức
22
3.1
Cơ hội
22
3.2
Thách thức
23
4. Biện pháp
23
5. Triển vọng về hợp tác đầu tư trong tương lai giữa Việt Nam và Brunei
24
CHƯƠNG III. CƠ HỘI HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM - BRUNEI VỀ LAO ĐỘNG
25
1. Thực trạng giữa Việt Nam và Brunei về lao động
25
2. Cơ hội và thách thức
26
2.1 Cơ hội
26
2.2 Thách thức
27
[2]
KẾT LUẬN
29
LỜI MỞ ĐẦU
Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam – Brunei được thiết lập từ ngày 29/2/1992 – một dấu mốc
quan trọng trong việc mở rộng hợp tác đầu tư, tồn cầu hóa, đa phương hóa của cả hai
nước. Mới bắt tay hợp tác không lâu nhưng Việt Nam – Brunei đã sớm có những ưu đãi,
ký kết thỏa thuận nhằm tạo cơ hội hợp tác sâu rộng hơn nữa giữa hai nước. Đặc biệt,
trong các lĩnh vực thương mại – đầu tư và lao động, Việt Nam và Brunei ln thể hiện sự
sẵn sàng chào đón bằng những thỏa thuận ưu đãi dành cho nhau như các Hiệp định về
Hàng hải, Thương mại, xóa bỏ thị thực, … Việc hợp tác giữa Việt Nam – Brunei so với
các nước trong khối Asean tuy vẫn chưa thực sự hiệu quả bởi cán cân thương mại, tổng
giá trị đầu tư chênh lệch khá lớn do gặp khải những khó khăn cơ bản. Tuy nhiên, Brunei
cũng đã vươn lên vị trí thứ tư trong khối Asean về đầu tư vào Việt Nam. Có thể thấy, hai
nước đang rất nỗ lực trong việc mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế. Trong tương lai,
Việt Nam – Brunei hứa hẹn sẽ có những bước hợp tác phát triển song phương đa lĩnh vực.
Triển vọng lĩnh vực thương mại-đầu tư, lao động giữa hai nước là rất lớn, được cam kết
bằng những thỏa thuận hợp tác đầu tư trong tương lai.
[3]
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ HỘI HỢP TÁC THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM – BRUNEI
1. Thực trạng hợp tác thương mại
Hiệp định hợp tác về Hàng hải, Hiệp định hợp tác về Thương mại được Việt Nam và
Brunei ký kết vào 11/2001, nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác về thương mại giữa 2 nước.
1.1 Thương mại hàng hóa VN - Brunei
Về xuất khẩu
● Năm 2017 Việt Nam xuất khẩu 21,5 triệu USD sang Brunei. Năm 2018 xuất khẩu
đạt 18,4 triệu USD. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Brunei đạt
66,6 triệu USD, tăng 260,9% so với năm 2018.
● Tuy nhiên đến năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid nên tổng giá trị xuất khẩu
đã giảm đi khá nhiều. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng
4/2020 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Brunei đạt 1,05 triệu USD.
Theo cơ sở dữ liệu COMTRADE của Liên hợp quốc về thương mại quốc tế, năm 2020
Xuất khẩu của Việt Nam sang Brunei đạt 16,46 triệu USD.
[4]
Xuất khẩu của Việt Nam sang Brunei - dữ liệu, biểu đồ lịch sử và số liệu thống kê - được
cập nhật lần cuối vào tháng 10 năm 2021.
● Tháng 7/2021 xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Brunei đạt 1 triệu USD tăng
101,93% so với tháng 6/2021 và tăng 80,22% so với tháng 7/2020. Xuất khẩu của
Việt Nam sang Brunei trong 7 tháng đầu năm 2021 đạt 6 triệu USD, giảm 47,92%
so với 7 tháng đầu năm 2020.
● Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Brunei như: hàng thủy sản,
sản phẩm từ sắt thép, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, gạo. Riêng mặt
hàng gạo, hiện các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đang
phải cạnh tranh gay gắt với gạo của Thái Lan, Ấn Độ và Campuchia. Loại gạo mà
thị trường này hay nhập là gạo thơm, đây cũng là loại gạo chất lượng cao mà các
doanh nghiệp Việt Nam đang tăng cường xuất khẩu nhằm tăng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Ngoài gạo, cà phê, nước hoa quả, hoa quả sấy khô đang dần thâm
nhập vào thị trường Brunei.
* Chi tiết các loại hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Brunei tháng 4/2020 và lũy kế 4
tháng đầu năm 2020
[5]
Mặt hàng chủ yếu
Xuất khẩu tháng 4/2020
Lũy kế 4 tháng/2020
Lượng
Trị
(Tấn)
(USD)
(Tấn)
(USD)
1.051.958
9.430.216
Tổng
giá Lượng
Trị
Hàng hóa khác
830.340
3.278.689
Hàng thủy sản
131.246
492.595
Sản phẩm từ sắt thép
47.148
5.316.461
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ
43.223
263.818
171
78.654
giá
tùng khác
Gạo
Về nhập khẩu
● Năm 2017 Việt Nam nhập khẩu gần 51,6 triệu USD sang Brunei. Năm 2018 nhập
khẩu đạt 36 triệu USD. Năm 2019, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Brunei
đạt 177,4 triệu USD, tăng 383,7% so với năm 2018.
[6]
● Tiếp đó, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2020 Việt
Nam nhập siêu từ Brunei hơn 9,5 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu lớn gấp 9 lần so
với kim ngạch xuất khẩu với giá trị lên đến 9,5 triệu USD. Lũy kế từ đầu năm đến
hết tháng 4, tổng nhập khẩu đạt 129,9 triệu USD.
● Tháng 7/2021 Việt Nam nhập khẩu 45,28 triệu USD từ Brunei tăng 253,72% so
với tháng 6/2021 và tăng 89,09% so với tháng 7/2020. Nhập khẩu của Việt Nam
sang Brunei trong 7 tháng đầu năm 2021 là 155,95 triệu USD, giảm 22,61% so với
7 tháng đầu năm 2020.
● Dầu thô là mặt hàng chính Việt Nam nhập từ Brunei, đạt kim ngạch hơn 66,8 triệu
USD trong 4 tháng đầu năm nay.
* Chi tiết các loại hàng hóa Việt Nam nhập khẩu từ Brunei tháng 4/2020 và lũy kế 4 tháng
đầu năm 2020.
[7]
Mặt hàng chủ Nhập khẩu tháng 4/2020 Lũy kế 4 tháng/2020
So sánh tháng/ lũy
yếu
kế
Lượng
Trị
(Tấn)
(USD)
(Tấn)
(USD)
9.505.298
129.908.364 1/14
163.369
66.816.496
Hàng hóa khác
7.958.913
58.432.061
1/7
Hóa chất
1.546.385
4.659.807
1/3
Tổng
Dầu thơ
giá Lượng
Trị
giá
1.2 Thương mại dịch vụ Việt Nam - Brunei
● Những năm qua, khách du lịch Việt Nam sang Brunei đã tăng, nhờ sản phẩm du
lịch của hai nước mang tính bổ trợ lẫn nhau. Hơn nữa hai bên còn đề nghị triển
khai tốt các thỏa thuận hợp tác quốc phòng - an ninh đã ký, xem xét thúc đẩy hợp
tác huấn luyện chung về tìm kiếm cứu nạn, tăng cường tàu hải quân thăm viếng và
phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quốc phòng - an ninh đa phương. Hai bên cũng
tăng cường hợp tác phòng chống các nguy cơ an ninh phi truyền thống như: Chống
khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán ma túy, buôn người, tội phạm công
nghệ cao…
● Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác về kết nối nhằm
thúc đẩy giao thương, du lịch và giao lưu nhân dân; nhất trí cùng xem xét tăng thời
hạn miễn thị thực cho người mang hộ chiếu phổ thông của công dân hai nước. Hai
bên cũng nhất trí tiếp tục thúc đẩy hơn nữa hợp tác trên các lĩnh vực hai nước có
[8]
thế mạnh và tiềm năng như quốc phòng, an ninh, thương mại và đầu tư, năng
lượng, nông nghiệp, hợp tác biển, lao động, giáo dục và đào tạo…
● Hai bên cho rằng hợp tác biển là lĩnh vực quan trọng cần quan tâm đẩy mạnh trong
thời gian tới, hoan nghênh Thỏa thuận cấp Chính phủ về thiết lập Đường dây nóng
hỗ trợ hoạt động nghề cá trên biển, nhất trí triển khai hiệu quả thỏa thuận và mở
rộng hơn nữa hợp tác nuôi trồng và chế biến thủy - hải sản, chia sẻ thông tin thực
thi pháp luật trên biển, đối phó với các thách thức an ninh trên biển nhằm bảo đảm
an toàn và tự do hàng hải.
● Tháng 11/2001, hai nước đã ký Bản Ghi nhớ về hợp tác du lịch. Từ 1/8/2007,
Brunei miễn thị thực cho công dân Việt Nam mang hộ chiếu phổ thông (14 ngày)
và từ ngày 8/8/2007, Việt Nam cũng miễn thị thực cho công dân Brunei mang hộ
chiếu phổ thông (14 ngày). Hai nhà lãnh đạo đánh giá cao sự kết nối giữa hai quốc
gia và hoan nghênh việc mở lại đường bay trực tiếp giữa Bandar Seri Begawan và
Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 10/2014, đặc biệt trong việc thúc đẩy quan hệ
gần gũi hơn nữa giữa nhân dân Việt Nam và Brunei Darussalam. Hai nhà lãnh đạo
nhất trí hướng tới ký kết Thỏa thuận Vận tải Biển.
● Lãnh đạo hai nước tái khẳng định tầm quan trọng của hợp tác trong lĩnh vực an
ninh thông qua chia sẻ kinh nghiệm phịng chống tội phạm xun quốc gia có tổ
chức như buôn lậu ma túy, buôn bán người, khủng bố, tội phạm mạng và rửa tiền.
Lãnh đạo hai nước thể hiện quyết tâm khởi động trao đổi về việc ký kết các thỏa
thuận dẫn độ, tương trợ tư pháp và chuyển giao người bị kết án.
● Lãnh đạo hai nước hoan nghênh hợp tác giữa Cơng ty Cơ khí và Xây lắp PTSC và
Công ty Dịch vụ PB trên cơ sở Thỏa thuận khung đã ký kết để thiết lập hợp tác
chiến lược giữa các bên trong các dự án thiết kế, mua sắm, chế tạo, thi công, đấu
nối và chạy thử (EPCIC) tại Bru-nây Đa-rút-xa-lam và trong khu vực.
[9]
● Hợp tác giáo dục giữa hai nước gần đây có nhiều bước phát triển. Trung tâm đào
tạo tiếng Anh FPT UBD Global Center tại Đà Nẵng được khai trương vào tháng
11/2017 (có sự tham dự của Quốc vương Brunei nhân dịp diễn ra Hội nghị cấp cao
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương).
Trong năm học 2017-2018, Trung tâm đã cung cấp nhiều khóa học ngắn hạn cho
sinh viên Việt Nam, sinh viên Brunei và các nước khác trong khu vực. Chính phủ
Brunei cịn cấp một số học bổng bậc sau đại học và học bổng công nghệ cho sinh
viên Việt Nam.
● Ngày 26 đến 28 tháng 3 năm 2019, Quốc vương Brunei Darussalam đã thăm cấp
Nhà nước tới Việt Nam. Chuyến thăm là dấu mốc quan trọng mới trong quan hệ
hữu nghị truyền thống và hợp tác gắn bó giữa hai nước. Hai bên cùng mong muốn
tăng cường hơn nữa tình hữu nghị giữa hai nước với kỳ vọng đưa quan hệ song
phương lên một tầm cao mới
● Lãnh đạo hai nước hoan nghênh hợp tác trong lĩnh vực lao động và chỉ đạo Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Nội vụ Brunei Darussalam phối hợp
chặt chẽ nhằm tăng cường hợp tác lao động vì lợi ích của cả hai bên. Cùng ghi
nhận tầm quan trọng của việc bảo đảm việc làm cho lao động địa phương vì lợi ích
xã hội sở tại, Lãnh đạo hai nước khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam và
Brunei Darussalam tăng cường tuyển dụng và đào tạo nâng cao năng lực cho lao
động địa phương. Hai bên nhất trí tiếp tục tạo thuận lợi cấp phép cho lao động Việt
Nam sang làm việc tại Brunei Darussalam và ngược lại trên cơ sở quy định, chính
sách của mỗi nước.
● Lãnh đạo hai nước khẳng định cam kết tăng cường hơn nữa hợp tác thể thao, văn
hóa và du lịch thông qua tham gia các hoạt động giao lưu thể thao và văn hóa, các
sự kiện du lịch khu vực và quốc tế và các hoạt động quảng bá. Lãnh đạo hai nước
[10]
ghi nhận sự gần gũi về địa lý giữa hai nước và nhất trí cịn nhiều tiềm năng tăng
cường kết nối hàng khơng, góp phần vào mục tiêu chung đẩy mạnh hợp tác thực.
2. Đánh giá thực trạng hợp tác thương mại Việt Nam - Brunei
Bảng: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang/ từ Brunei ( tỷ USD).
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
2018
18.464
36.668
2019
66.628
192.139
2020
16.457
276.867
Nguồn: Trade Map
Bảng kinh ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang/ từ ASEAN ( tỷ USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
2018
24.634.241
31.813.263
2019
24.919.569
32.111.155
2020
23.128.604
30.451.388
Nguồn: Trade Map
Từ Bảng trên ta thấy xuất khẩu của Việt Nam sang Brunei là rất nhỏ so với xuất khẩu của
Việt Nam sang ASEAN (chỉ gần bằng 1/1000 năm 2018).
[11]
Nhập khẩu của Việt Nam từ Brunei là rất nhỏ so nhập khẩu từ ASEAN (chỉ gần bằng
1/867 năm 2018).
● Hai bên ghi nhận kim ngạch thương mại hai chiều vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng của hai nước và nhất trí cùng nhau khuyến khích, tăng cường hơn nữa trao
đổi thông tin giữa các cộng đồng doanh nghiệp hai bên; tăng cường các hoạt động
giao thương, xúc tiến đầu tư, hội thảo doanh nghiệp.
● Brunei là thị trường nhỏ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng: Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN ( Năm 2020)
Nước
Giá trị (nghìn USD)
Brunei
16.457
Lào
569.115
Myanmar
633.261
Singapore
3.009.333
Malaysia
3.387.833
Philippines
3.563.389
Campuchia
4,221,096
Thái Lan
4.904.500
[12]
Nguồn: Trade Map
●
Kim ngạch thương mại song phương chỉ đạt vài triệu USD mỗi năm. Nhưng
những năm gần đây, kim ngạch song phương giữa hai nước đã khởi sắc hơn ở mức ba
con số. Điển hình Lũy kế 4 tháng đầu trong năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu đạt 139,3 triệu USD.
●
Mặc dù dịch bệnh diễn biến phức tạp nhưng kim ngạch thương mại song
phương năm 2020 vẫn tiếp tục tăng trưởng so với năm 2019.
Cán cân thương mại thường xun lệch về phía brunei Vì Brunei là thị trường rất nhỏ
trong khi họ lại chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng có sẵn từ nguyên thiên nhiên như dầu
hóa, Gas,.. khơng giống như Singapore mặc dù thị trường Singapore nhỏ nhưng Singapore
lại dựa vào lợi thế của mình để xuất khẩu các mặt hàng nhập khẩu.
Nhìn vào bảng số liệu ta cũng thấy rõ giá trị xuất khẩu của Brunei sang Việt Nam lớn hơn
so với giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Brunei.
3. Cơ hội và thách thức
3.1 Cơ hội
Bảng: Cơ cấu 1 số mặt hàng tiêu biểu của Việt Nam xuất khẩu sang Brunei ( số liệu tham
khảo năm 2020)
Nhóm mặt hàng
Giá trị năm 2020 Tăng trưởng giá trị hàng
(Nghìn USD)
năm trong Gđ 2016-2020
(%)
Các sản phẩm bằng sắt hoặc thép
5.476
[13]
158
Máy móc, thiết bị điện và các bộ phận của 1.559
-3
chúng; máy ghi âm và tái tạo âm thanh,
tivi . . .
Muối; lưu huỳnh; đất và đá; vật liệu trát, 1.479
42
vôi và xi măng
Đồ nội thất; giường, đệm, giá đỡ đệm, 548
99
nệm và đồ nội thất nhồi bông tương tự; …
Các sản phẩm bằng đá, thạch cao, xi 283
128
măng, amiăng, mica hoặc các vật liệu
tương tự
Trái cây và quả hạch ăn được; vỏ của trái 255
203
cây họ cam quýt hoặc dưa
Nguồn: Trade Map
Từ bảng trên ta thấy các mặt hàng chủ lực mà Việt Nam xuất khẩu sang Brunei là: Các
sản phẩm bằng sắt hoặc thép, Máy móc, thiết bị điện và các bộ phận của chúng; máy ghi
âm và tái tạo âm thanh, tivi... , Muối; lưu huỳnh; đất và đá; vật liệu trát, vôi và xi măng,..
Các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu sang Brunei là: Các sản phẩm bằng sắt hoặc thép,
Trái cây và quả hạch ăn được; vỏ của trái cây họ cam quýt hoặc dưa, Các sản phẩm bằng
đá, thạch cao, xi măng, amiăng, mica hoặc các vật liệu tương tự. Đồ nội thất; giường,
đệm, giá đỡ đệm, nệm và đồ nội thất nhồi bông tương tự...
[14]
● Thương vụ Việt Nam tại Brunei cho biết, mặc dù khác nhau về diện tích, dân số,
văn hố, nhưng Việt Nam và Brunei có quan điểm tương đồng trong các vấn đề
quốc tế và khu vực. Đây là tiền đề thuận lợi để đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa hai
nước. Cùng với đó, hai nước đều là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN).
● Việt Nam và Brunei cũng đã tham gia tích cực, chủ động, có nhiều đóng góp quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN cũng như trong việc xác định
tương lai phát triển, phương hướng hợp tác và các quyết sách lớn của ASEAN.
Điều này góp phần tăng cường đồn kết, nâng cao vai trị, vị thế của ASEAN trong
khu vực và trên trường quốc tế.
● Trong những năm qua, hai nước đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao như Chủ tịch nước
Trần Đức Lương thăm Brunei năm 2001, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm
năm 2007… Quốc vương Hassanal Bolkiah thăm Việt Nam và tham dự các hội
nghị: ASEAN, ASEM, APEC vào các năm 1998, 2004, 2006.
● Khơng dừng lại ở đó, hai nước cũng đã có nhiều cơ chế hợp tác và ký kết nhiều
Hiệp định, thỏa thuận song phương; trong đó, quan hệ kinh tế thông qua việc tăng
cường các hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ, hội thảo giới thiệu tiềm
năng kinh tế của mỗi nước được tổ chức thường xuyên.
● Đặc biệt, hai bên cũng đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Bản ghi nhớ về
hợp tác thể thao và thanh niên, Bản ghi nhớ về hợp tác dầu khí… Đây là những
văn kiện sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc tăng cường quan hệ hợp tác song
phương trong các lĩnh vực thương mại, dầu khí và thể dục-thể thao.
● Brunei là chủ tịch ASEAN đã tạo cơ hội cho hợp tác giữa Việt Nam – Brunei.
[15]
3.2 Thách thức
● Quan hệ giữa Việt Nam và Brunei cịn có nhiều khó khăn. Do những đặc tính nội
tại của nền kinh tế Brunei: thị trường nhỏ bé, kinh tế nhiều năm qua vẫn cịn gặp
nhiều khó khăn; bộ máy hành chính lại trì trệ, quan liêu; bộ phận kinh tế tư nhân ở
Brunei so với các nước ASEAN khác lại nhỏ bé, yếu kém và thụ động (95% là
doanh nghiệp vừa và nhỏ). Về thương mại, là nước phải nhập khẩu hầu hết các loại
hàng hóa nên từ lâu Brunei đã thiết lập được các mạng lưới cung cấp tin cậy từ các
bạn hàng truyền thống; do đó, hàng ta chen chân vào là khá khó khăn (như hàng
năm Brunei nhập khoảng 30 ngàn tấn gạo từ Thái Lan đoàn Bộ Thương mại ta
sang Brunei đề nghị nhập thêm gạo của ta nhưng bạn từ chối).
● Bên cạnh đó, tình hình dịch covid kéo dài đã làm cán cân xuất nhập khẩu giảm
mạnh, các tuyến đường kết nối thương mại thông qua các đường bay thương mại
quốc tế, các đường vận tải đường biển giữa hai nước đều bị hạn chế để đảm bảo an
tồn cho cơng tác phòng, chống dịch.
4. Biện pháp
● Phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và định hướng đầu tư phù hợp các mặt
hàng sắt, thép, xi măng và các sản phẩm nơng nghiệp có khả năng xuất khẩu sang
Brunei (gạo, cà phê, trái cây, các loại hạch ăn được...)
● Khuyến khích đầu tư vào các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng công nghệ kỹ
thuật tiên tiến và các công nghệ sau thu hoạch để cải thiện mẫu mã, chất lượng và
giá thành.
● Đối với mặt hàng gạo tập trung nâng cao chất lượng vào các mặt hàng gạo chất
lượng cao để nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước khác như Thái Lan, Ấn
Độ,..
[16]
● Tập trung nghiên cứu thị trường Brunei, với tinh thần nắm bắt nhu cầu của người
Brunei người tiêu dùng, giảm chi phí, cam kết chặt chẽ về thời gian và chất lượng
sản phẩm để tăng độ tin cậy
● Doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp ASEAN nói chung và Brunei nói
riêng phải có những biện pháp hạn chế những khó khăn và tăng cường những cơ
hội có được khi đã là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN.
● Có rất nhiều lý do khiến mặt hàng gạo và thuỷ sản Việt chưa xuất khẩu được nhiều
sang Brunei, mà một trong những lý do chính là các doanh nghiệp chưa áp dụng
đúng những đặc trưng thị trường, đặc biệt là chứng nhận đạt chuẩn sản phẩm Hồi
giáo Hanal. Từ đó Để tăng cường xuất khẩu sang Brunei thì các doanh nghiệp Việt
Nam phải chủ động chuẩn bị chu đáo nhằm cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu có
mức giá ngày càng giảm bằng cách xây dựng các yêu cầu kỹ thuật tối thiểu như kê
khai nguồn gốc, xuất xứ, kiểm soát chất lượng, chứng nhận sản phẩm…
● Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần cải thiện mẫu mã, chất lượng sản phẩm, dịch
vụ sau bán hàng, có chiến lược kinh doanh phù hợp… để giữ vững thị phần trong
nước đồng thời tìm kiếm các thị trường mới để đầu tư phát triển.
● Quan trọng nhất là cần chủ động tiếp cận nguồn thông tin để tận dụng tốt việc lưu
thơng hàng hóa từ việc cắt giảm thuế quan trong ASEAN, chủ động tìm hiểu các
thị trường trong khu vực ASEAN.
● Để tăng cường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào Brunei, ngay từ bây giờ các
doanh nghiệp cần bắt đầu bằng việc xây dựng và triển khai các chiến lược kinh
doanh hiệu quả dựa trên việc phân tích và đánh giá đúng những điểm mạnh, yếu,
cơ hội và thách thức, vị thế của doanh nghiệp hiện tại và đích cần đạt tới…
[17]
● Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, thì việc thực hiện một chiến lược marketing
xuất khẩu sang thị trường Brunei là điều phải tính đến trước tiên.
● Đây là điều kiện tiên quyết để xuất khẩu bền vững sang thị trường này và cũng là
góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại hai nước phát triển mạnh mẽ trong thời
gian tới.
5. Triển vọng hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Brunei trong tương lai
● Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng cơ cấu hàng hóa giữa hai nước có nhiều điểm
đối lập nhau. Điều này tạo cơ hội hợp tác thương mại giữa 2 nước phát triển.
● Trong năm 2016 Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã sang thăm chính thức Brunei
và hai bên đã ký Tuyên bố chung, trong đó khẳng định cam kết tăng cường hợp tác
kinh tế giữa Việt Nam và Brunei với mục tiêu đạt được kim ngạch thương mại
song phương là 500 triệu USD vào năm 2025. Quốc vương Hassanal Bolkiah thăm
Việt Nam và tham dự các Hội nghị: Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC)…
● Hai Bộ trưởng nhất trí xây dựng kế hoạch hành động triển khai quan hệ Đối tác
toàn diện trong 5 năm tới và duy trì thường xuyên, hiệu quả cơ chế ủy ban chung
về hợp tác song phương giữa các quốc gia, đồng thời nghiên cứu thiết lập cơ chế
tham vấn chính trị và ký kết biên bản ghi nhớ. về hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao
trong thời gian sớm nhất.
● Chủ tịch Hội đồng Lập pháp Brunei Abdul Rahman Taib đánh giá rất cao việc Việt
Nam có năng lực sản xuất được vaccine phịng COVID-19, bày tỏ mong muốn hợp
tác trong lĩnh vực này nhằm bảo đảm nguồn cung vaccine công bằng. Cho biết Việt
Nam là một trong các quốc gia Brunei luôn hướng tới để nhập khẩu các mặt hàng
nông sản thiết yếu phục vụ cho nhu cầu của người dân.
[18]
CHƯƠNG II. CƠ HỘI HỢP TÁC ĐẦU TƯ GIỮA VIỆT NAM - BRUNEI
1. Thực trạng giữa Việt Nam - Brunei về đầu tư
Giữa hai nước chưa có Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư trong khi đó Việt Nam
đã ký Hiệp định này với các nước Asean khác.
● Việt Nam đầu tư vào Brunei
- Tính đến hết năm 2018 phía Việt Nam hiện có hai dự án đầu tư tại Brunei với số vốn
đăng ký là 3,6 triệu USD. Các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam cũng trúng nhiều gói
thầu có giá trị cao xây dựng cơ sở hạ tầng tại Brunei như là cầu-đường, nhà máy dầu khí
và phân bón…
+ Việt Nam có 1 dự án đầu tư tại Brunei của Công ty TNHH Kim Thịnh trị giá 650.000
USD trong lĩnh vực kinh doanh kim loại, kim loại màu, kim loại quý, hóa chất.
+ Tháng 5/2018, Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam đã thành lập công ty LILAMA South
East Asia Sdn Bhd (LILAMA SEA), doanh nghiệp đầu tiên tại quốc gia này có 100% vốn
đầu tư từ Việt Nam, để chuẩn bị tham gia hợp đồng thi cơng xây lắp với Tập đồn
Thyssenkrupp Industrial Solution AG (Đức, Tổng thầu EPC) trị giá 65 triệu và có thể đến
85 triệu USD của dự án Nhà máy phân bón tại Brunei.
● Brunei đầu tư vào Việt Nam
- Tính đến hết năm 2018, Brunei hiện đứng thứ 21/128 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư
vào Việt Nam và đứng thứ tư trong khu vực ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái
Lan, với 179 dự án có tổng vốn đạt hơn 1 tỷ USD.
- Đến hết năm 2019 Brunei có 170 dự án đầu tư tại Việt Nam còn hiệu lực với tổng số vốn
1.08 tỷ USD, đứng thứ 4 trong ASEAN và thứ 22 trong tổng số hơn 130 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Tính riêng năm 2019 Brunei có thêm 13 dự án (gồm cấp
mới, tăng vốn, và góp vốn mua cổ phần) đạt mức 69.6 triệu USD đầu tư vào Việt Nam.
[19]
Bảng: Các lĩnh vực đầu tư Brunei sang Việt Nam 2016-2019 (Đơn vị: triệu USD)
Quốc gia đối tác
2016
2017
2018
2019
Brunei
354.8
55.5
12.0
69.6
1
3
6
1
0
0.21
0
0.10
0
0.70
0
Trong
Xây dựng
đó
Thương mại bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, 2.05
xe máy
Vận chuyển và bảo quản
0
0.70
0.01
0
Thông tin và giao tiếp
0.25
0
0
0
Các hoạt động dịch vụ hành chính và hỗ trợ
1.07
0
0
0
Các hoạt động dịch vụ khác
0
0.02
0
0
Sản xuất không xác định
351.4
54.6
11.3
69.5
4
0
5
1
Nguồn: Thống kê Investment Map của ITC
2. Đánh giá thực trạng đầu tư giữa Brunei và Việt Nam
[20]
● Mức đầu tư của Brunei vào Việt Nam là ngày càng lớn, thứ 22 trong tổng số hơn
130 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam và đứng ở vị trí cao về đầu tư
trong khối ASEAN.
● Đến hết năm 2016, Singapore có tổng vốn đầu tư đăng ký là 38.255,4 triệu USD,
chiếm 63,78% tổng vốn đầu tư trực tiếp từ ASEAN vào Việt Nam và chiếm 13%
trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; tiếp theo là Malaysia đầu
tư vào Việt Nam 543 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 11.966,5 triệu USD, chiếm
19,95%; Thái Lan đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đăng ký đạt 7.799,7 triệu USD,
chiếm 13,%; Brunei với tổng vốn đăng ký đạt 432,1 triệu USD, chiếm 2,29%. Có
thể thấy từ năm 2016, Brunei đã là một đối tác quan trọng của Việt Nam về đầu tư.
Tuy nhiên lượng đầu tư là chưa nhiều, kém xa so với Singapore, Thái Lan,
Malaysia,.. Một số ít dự án còn lại là của Indonesia, Lào và Campuchia.
[21]
● Tuy nhiên, Những năm gần đây, Brunei đã đầu tư tương đối nhiều vào Việt Nam.
Tính đến năm 2019, lượng FDI của Brunei vào Việt Nam là tương đối lớn, mặc dù
vẫn xếp sau một số nước nhưng khoảng cách là khá ngắn. Singapore đầu tư 19,98
tỷ, Thái Lan với 10,8 tỷ USD, Malaysia với 1,53 tỷ USD ( tính đến tháng 4/2019)
cịn Brunei với 1,08 tỷ.
● Nhưng trái lại, mức đầu tư của Việt Nam sang thị trường Brunei còn tương đối thấp
chỉ dừng lại ở mức một vài dự án so với các nước thuộc khu vực ASEAN ví dụ
như Singapore đầu tư 379.100 vào Brunei ( năm 2017 ). Ta có thể thấy rõ ở những
nguyên nhân sau:
-
Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức thuận lợi.
-
Nguồn nhân lực thực sự là một tài sản lớn của Việt Nam với dân số khoảng
97,34 triệu người (2021) và chi phí nhân cơng lao động thấp.
-
Việt Nam có nền chính trị ổn định.
-
Kết quả tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020 đạt 2,91%, bất chấp tác
động nặng nề của dịch bệnh, biến đổi khí hậu đến các hoạt động kinh tế.
Điều này khiến Việt Nam trở thành điểm sáng cho quá trình chuyển dịch
chuỗi giá trị ở châu Á.
-
Sau hơn 35 năm đổi mới, mở cửa hòa nhập với nền kinh tế thế giới, Việt
Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có độ mở lớn nhất về kinh
tế.
-
Việt Nam là một trong những nền kinh tế năng động trên thế giới với tốc độ
tăng trưởng GDP cao, dòng vốn FDI lớn và tăng trưởng xuất khẩu cao.
3. Cơ hội và thách thức
3.1 Cơ hội
● Trong năm 2016, Tuyên bố chung ký giữa hai nước cũng tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ hội đầu tư và kinh doanh giữa hai nước.
[22]
● Hiện tại hai lĩnh vực được Brunei chú trọng đầu tư vào Việt Nam là dệt may và bất
động sản.
● Trong tương lai Việt Nam sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Brunei
đầu tư tại Việt Nam, đặc biệt vào các lĩnh vực then chốt như phát triển hạ tầng, năng
lượng, nông nghiệp công nghệ cao, chế biến thực phẩm, du lịch và dịch vụ. Bên phía
Brunei hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư về dầu khí. Hiện nước ta
và Brunei đang triển khai một số thỏa thuận hợp tác về dầu khí. Việt Nam có nhiều
điều kiện thuận lợi như: vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú,... để
các nhà đầu tư Brunei mở rộng đầu tư trong nông nghiệp.
● Brunei cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam sản xuất các sản phẩm đạt tiêu chuẩn halal quốc
tế để tiếp cận thị trường Hồi giáo, nhất là đối với các mặt hàng có lợi thế của Việt
Nam như gạ, nông sản, thủy sản.
● Việt Nam đang có mức tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc mặc dù hiện nay
diễn biến căng thẳng thương mại và gián đoạn chuỗi cung ứng do dịch Covid 19 nên
đây là điểm đến thành cơng và an tồn của đầu tư của Brunei.
● Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn dịch chuyển dịng vốn nước ngồi và những lợi
thế về việc sớm ký kết FTA với EU. Dịch bệnh đang diễn ra nhưng đây lại “cơ hội
vàng” để Việt Nam bứt tốc thu hút vốn FDI.
3.2 Thách thức
● Việt Nam và Brunei đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, có nhiều cơ chế hợp tác và ký kết
nhiều hiệp định, thỏa thuận song phương. Tuy nhiên, quan hệ đầu tư giữa Việt Nam
và Brunei chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai quốc gia
● Chính phủ khơng có cơ chế rõ ràng để thúc đẩy hoặc khuyến khích đầu tư ra nước
ngồi, cũng như khơng có quy định hạn chế các nhà đầu tư trong nước đầu tư ra nước
ngoài.
4. Biện pháp
[23]
Thực trạng cho thấy, Việt Nam là một thị trường nhỏ đầu tư vào Brunei. Nhà nước, cũng
như các doanh nghiệp cần có những biện pháp để khắc phục thách thức ấy :
● Hồn thiện khn khổ pháp lý và cải cách thủ tục hành chính.
● Việt Nam cần giải quyết các vấn đề lớn còn tồn đọng, triển khai các biện pháp để tạo:
Môi trường kinh doanh lành mạnh; Sở hữu trí tuệ được đảm bảo, bản quyền, thương
quyền cải cách hành chính tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Brunei nói riêng và các
doanh nghiệp có vốn FDI nói chung được cấp phép đầu tư…
● Các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực nâng cao năng lực về tất cả các mặt, từ cơng
nghệ đến năng lực, trình độ của đội ngũ người lao động, quản lý. Chỉ khi đó, các
doanh nghiệp FDI mới tìm đến đặt hàng và hỗ trợ hồn thiện quy trình sản xuất đáp
ứng yêu cầu của họ.
● Tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là lĩnh vực
xây dựng nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư trong quá trình tiến
hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam… Ban hành các chính sách thích
hợp nhằm khuyến khích tư nhân, gồm cả cơng ty, xí nghiệp tham gia tích cực vào đầu
tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng.
● Việt Nam cần chú trọng phát triển quy mô trong các lĩnh vực bán buôn, bán lẻ sửa
chữa ô tô, xe máy .
● Tiếp tục phát triển các dự án về dệt may và bất động sản.
5. Triển vọng về hợp tác đầu tư trong tương lai giữa Việt Nam và Brunei
● Việt Nam và Brunei ra tuyên bố chung thiết lập quan hệ Đối tác Toàn diện nhân
chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Quốc vương Brunei Darussalam Haji
Hassanal Bolkiah từ 26- 28/3/2019.
● Hiện tại, lĩnh vực trọng tâm hợp tác giữa hai nước là xây dựng cơ sở hạ tầng, cụ thể là
các dự án xây dựng cầu/đường, các nhà máy công nghiệp, dầu khí mà Việt Nam có
thế mạnh và ngày càng dành được nhiều hợp đồng tại Brunei nhờ sự tín nhiệm vào
[24]
năng lực thi công, kinh nghiệm cũng như tay nghề công nhân cao. Đây cũng là lĩnh
vực được kỳ vọng sẽ góp phần nhiều nhất vào mục tiêu 500 triệu USD kim ngạch
thương mại giữa hai nước đến năm 2025.
● Trong mục tiêu hợp tác song phương đạt 500 triệu đến năm 2025, lĩnh vực trọng tâm
hợp tác giữa hai nước là xây dựng cơ sở hạ tầng, cụ thể là các dự án xây dựng cầu
đường, các nhà máy cơng nghiệp/dầu khí mà Việt Nam có thế mạnh và ngày càng
dành được nhiều hợp đồng tại Brunei nhờ sự tín nhiệm vào năng lực thi cơng, kinh
nghiệm cũng như tay nghề công nhân cao.
● Việc Brunei là chủ tịch ASEAN năm 2021 cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn cơ
hội hợp tác giữa 2 nước về cả đầu tư và thương mại. Vấn đề Biển Đông được đề cập
trong buổi chuyển giao giữa VN với Brunei từ đây hứa hẹn cơ hội tốt hơn cho vấn đề
biến động ở Việt Nam.
CHƯƠNG III. CƠ HỘI HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM - BRUNEI VỀ LAO ĐỘNG
1. Thực trạng giữa Việt Nam và Brunei về lao động
● Năm 2012 có khoảng 1.000 lao động Việt Nam làm việc tại Brunei, chủ yếu là lao
động phổ thông trong lĩnh vực xây dựng, cơng nghiệp hóa dầu và lọc dầu. Một số
doanh nghiệp đưa lao động sang Brunei làm việc với chi phí rất cao (trên 50 triệu
đồng).
● Giờ làm việc: 8 giờ/ngày, 6 ngày/tuần, làm thêm giờ được hưởng tiền làm thêm theo
quy định của Chính phủ Brunei; chỗ ở cho người lao động được chủ sử dụng lao động
cung cấp miễn phí; phí dịch vụ cho doanh nghiệp Việt Nam
● Đối với lao động xây dựng: mức lương cơ bản đối với lao động không nghề không
thấp hơn 16B/ngày(1B tương đương 10.000 VND); đối với lao động có nghề khơng
[25]