Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

nghiên cứu hình thức quảng cáo mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.03 KB, 19 trang )

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM:

1
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
MỤC LỤC
2
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong mỗi thời đại, mỗi chu kỳ sống của Doanh nghiệp, thị trường luôn là vấn đề
quan trọng và có ý nghĩa quyết định. Để giữ vững và nâng cao vị thế của mình trên thị
trường, đòi hỏi các Doanh nghiệp phải luôn có biện pháp tiếp cận thị trường có hiệu
quả. Một trong số đó là quảng cáo. Có rất nhiều hình thức quảng cáo như thong qua
truyền hình, truyền thanh, báo, tạp chí… với mục đích là giới thiệu sản phẩm, quảng
cáo thương hiệu. tuy nhiên không phải Doanh nghiệp nào ngay từ khi ra đời đều có
khả năng thanh toán cho những phương thức quảng cáo đó có được hiệu quả. Vì vậy,
việc áp dụng một hình thức quảng cáo mới phù hợp, giảm chi phí mà vẫn đạt được
hiệu quả nhất định là vấn đề cần cân nhắc của mỗi Doanh nghiệp. Thông thường,
quảng cáo trên báo và tạp chí có chi phí thấp, diễn đạt đủ ý. Thời gian của quảng cáo
là dài nhưng không rộng khắp. Đối với quảng cáo truyền thanh thì truyền tin nhanh
tới mọi miền thị trường mong muốn nhưng thời gian sống của quảng cáo là ngắn.
Loại quảng cáo này phải lưu ý thời điểm, thời gian cho hợp lý. Quảng cáo trên mạng
phù hợp với hiện nay, không bị giới hạn không gian địa lý. Tuy nhiên ở Việt Nam thì
bị giới hạn về đối tượng. Quảng cáo phim ảnh, đây là phương tiện quảng cáo hiệu quả
nhất nhưng chi phí lớn. Còn quảng cáo ngoài trời, khả năng lựa chọn đại lý cao, thời
gian sống của quảng cáo dài, chi phí thấp nhưng quá cô đọng, người tiêu dùng không
hiểu hết nội dung. Còn đối với quảng cáo truyền hình là phương tiện quảng cáo hiệu
quả nhất bởi vì nó khai thác được hiệu quả về âm thanh, màu sắc,…, hình ảnh quảng
cáo phải đặc trưng cho sản phẩm. Đối với những loại quảng cáo đó đều có những ưu,
nhược điểm chính vì vậy đặt ra cho mỗi doanh nghiệp phải tìm, lựa chọn hình thức
quảng cáo sao cho đem lại hiệu quả, chi phí thấp nhất có thể. Khi mà cấu trúc của một


thông điệp quảng cáo là sự kết hợp giữa âm thanh, hình ảnh và ngôn ngữ phải ngắn
gọn, dễ hiểu, xúc tích, phải nêu lên được những ưu điểm của sản phẩm, dịch vụ đó.
Tuy nhiên, liên quan đến việc lựa chọn cách thức hay việc tối thiểu hoá chi phí còn rất
nhiều vấn đề và liệu rằng áp dụng trong thực tế nó có hiệu quả hay không? Chính vì
vậy, trong đề tài lần này nhóm 4 chúng em chọn đề tài: “NGHIÊN CỨU HÌNH
THỨC QUẢNG CÁO MỚI” mà trọng tâm là nghiên cứu về các hình thức quảng cáo
còn khá mới mẻ ở Việt Nam: quảng cáo trên mặt sau, trước các tấm vé xe, vé số, vé
máy bay, thiệp mời, phiếu dự thi,… Thông qua tìm hiểu, phân tích, đánh giá, so sánh,
dự báo lịch sử hình thành, sự phát triển trên thế giới qua đó liên hệ, so sánh với Việt
Nam. Với mục tiêu tìm ra cơ hội thành công và những hạn chế đối với hình thức
quảng cáo này, qua đó tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm phát triển, nâng
cao các hình thức quảng cáo mới này nhằm đạt hiệu quả tối ưu, đặc biệt tối ưu
khi áp dụng tại Việt Nam.
3
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Cơ Sở Lý Luận
1. Một số khái niệm về Marketing
- Theo Phillip Kotler , cha đẻ của marketing hiện đại. “Marketing là những hoạt động
của con người hướng vào việc đáp ứng những nhu cầu và ước nuốn của người tiêu
dùng thông qua quá trình trao đổi”.
- Khái niệm Marketing của Viện Marketing Anh “ Marketing là quá trình tổ chức và
quản lý toàn bộ hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người
tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể, đến sản xuất và đưa hàng
hoá đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận như
dự kiến”.
- Theo I. Ansoff, một chuyên gia nghiên cứu Marketing của Liên Hợp Quốc, một khái
niệm được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cho là khá đầy đủ, thể hiện tư duy
Marketing hiện đại và đang được chấp nhận rộng rãi: “ Marketing là khoa học điều
hành toàn bộ hoạt động kinh doanh kể từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, nó căn cứ

vào nhu cầu biến động của thị trường hay nói khác đi là lấy thị trường làm định
hướng”.
- Khái niệm Marketing tại các Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường tại Việt Nam thì
“ Marketing là một dạng hoạt động của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu,
mong muốn của họ thông qua trao đổi về một loại sản phẩm – dịch vụ nào đó trên thị
trường. Trong khái niệm Marketing, điều quan trọng đầu tiên mang tính quyết định
thành hay bại trong kinh doanh của các Doanh nghiệp là phải nghiên cứu nhu cầu,
mong muốn và yêu cầu cũng như hành vi mua hàng của khách hàng, sau đó tiến hành
sản xuất sản phẩm – dịch vụ phù hợp trước khi đem ra tiêu thụ trên thị trường thông
qua các hoạt động trao đổi và giao dịch.
+ Nhu cầu : là khái niệm rộng, bao gồm những cảm giác thiếu hụt của con người về
một cái gì đó và cần được thoả mãn. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu cơ
bản được giảm mạnh và được thay thế bằng nhu cầu được ăn ngon, mặc đẹp, vui chơi
giải chí và hưởng thụ cuộc sống.
+ Mong muốn : là nhu cầu đặc thù, đặc trưng cho một phong tục tập quán, thói quen
tiêu dùng, tôn giáo tín ngưõng của một khu vực, vùng miền và nó mang tính khách
quan.
Ví dụ: Coca-Cola ở Mỹ có độ ngọt ít, độ ga nhiều, còn ở Việt Nam thì ngược lại
Coca-Cola có độ ngọt nhiều và độ ga ít hơn.
+ Yêu cầu : là nhu cầu, là mong muốn kèm theo điều kiện có khả năng thanh toán.
Nhu cầu của con người là vô hạn, trong khi đó nguồn lực để thoả mãn nhu cầu, mong
muốn và yêu cầu khách hàng, hay nói cách khác là phải có sự điều tra thu thập qua
từng thời kỳ.
+ Hàng hoá : là những gì có thể thoả mãn nhu cầu của con người và được phép chào
bán trên thị trường dưới sự dẫn dắt của giá cả. Những sản phẩm được sản xuất ra mà
4
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
không thoả mãn được nhu cầu thì không được gọi là hàng hoá. Như vậy, quá trình trao
đổi đòi hỏi phải làm việc. Doanh nghiệp muốn bán hàng thì cần phải tìm người mua,
xác định những nhu cầu của họ, thiết kế nhưbgx sản phẩm phù hợp, đưa chúng ra xếp

vào kho, vận chuyển, thương lượng về giá cả trên thị trường Nền tảng của hoạt động
Marketing là những việc tạo ra sản phẩm, khảo sát, thiết lập quan hệ giao dịch, tổ
chức phân phối, xác định giá cả, triển khai các dịch vụ.
Các định nghĩa trên ít nhiều có sự khác biệt nhưng tất cả đều có chung những điểm
sau:
• Marketing có phạm vi hoạt động rất rộng.
• Marketing chỉ cung cấp cái thị trường cần.
• Marketing theo đuổi lợi nhuận tối đa.
• Marketing là một quá trình liên tục.
• Marketing không bỏ qua khâu tiêu thụ.
Marketing là quá trình làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi nhằm
thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Cũng có thể hiểu, Marketing
là một dạng hoạt động của con người (bao gồm cả tổ chức) nhằm thỏa mãn các nhu
cầu và mong muốn thông qua trao đổi.
Chỉ có Marketing mới có vai trò quyết định và điều phối sự kết nối các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường, có nghĩa là đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và
ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh
doanh.
Mặc dù mục tiêu cơ bản của mọi công ty là lợi nhuận nhưng nhiệm vụ cơ bản của hệ
thống Marketing là đảm bảo sản xuất và cung cấp các mặt hàng hấp dẫn có sức cạnh
tranh cao cho các thị trường mục tiêu. Nhưng sự thành công của chiến lược và sách
lược Marketing còn phụ thuộc vào sự vận hành của các chức năng khác trong công ty.
Ngược lại, các hoạt động chức năng khác nếu không vì những mục tiêu của hoạt động
Marketing, thông qua các chiến lược cụ thể để nhằm vào những khách hàng – thì
trường cụ thể thì những hoạt động đó sẽ trở nên mò mẫm và mất phương hướng.
Chức năng cơ bản của Marketing là tạo ra khách hàng cho Doanh nghiệp. Có thể
nói đây là chức năng quan trọng nhất của Doang nghiệp khi Doanh nghiệp hoạt
động trong cơ chế thị trường, nhưng muốn chức năng này thành công nó phải được
phối hợp hài hoà với các chức năng khác bắt nguồn từ những lĩnh vực: sản xuất, tài

chính, nhân sự.
Trong các loại hình truyền thông Marketing như khuyến mại, quan hệ công chúng,
bán hàng cá nhân, tiếp thị trực tiếp, tổ chức sự kiện, truyền thông tại điểm bán hàng,
truyền thông điện tử, trong đó Quảng cáo được xem là hình thức truyền thông
Marketing hữu hiệu nhất.
2. Quảng cáo
Định nghĩa :
Theo Điều 102, Luật Thương mại Việt Nam 2005: “Quảng cáo thương mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình”.
5
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
Theo Hiệp hội Marketing Mỹ: “Quảng cáo là bất cứ loại hình nào của sự hiện diện
không trực tiếp của hàng hóa, dịch vụ, tư tưởng đến một nhóm người mà người ta
phải trả tiền để nhận biết người quảng cáo”.
Theo Philip Kotler: “Quảng cáo là những hình thức truyền thông không trực tiếp, phi
cá nhân, được thực hiện thông qua các phương tiện truyền tin phải trả tiền và các chủ
thể quảng cáo phải chịu chi phí”.
Theo Armand Dayan: “Quảng cáo là những thông báo phải trả tiền, một chiều và
không cho cá nhân ai, được thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng và các dạng truyền thông khác nhằm cổ động cho một hàng hóa, một nhãn
hiệu, một tổ chức nào đó”.
Theo quan điểm quản lý, quảng cáo là phương sách có tính chất chiến lược để đạt
được hoặc duy trì một lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Trong nhiều trường hợp đầu
tư trong quảng cáo là một sự đầu tư dài hạn.
Nhiều Doanh nghiệp rất đề cao quảng cáo, coi nó là hình thức truyền thông Marketing
hữu hiệu nhất. Họ quan niệm “ làm kinh doanh mà không có quảng cáo thì cũng giống
như nháy mắt tỏ tình với một cô gái trong bóng đêm biết mình đang làm gì nhưng
chẳng ai khác biết cả”.
* Các loại hình quảng cáo phổ biến:

- Quảng cáo thương hiệu :
Là quảng cáo nhằm xây dựng hình ảnh hay sự nhận biết về một thương hiệu về lâu
dài. Nội dung quảng cáo này thường rất đơn giản vì chỉ nhấn mạnh vào thương hiệu là
chính.
- Quảng cáo địa phương :
Chủ yếu thông báo đến khách hàng rằng sản phẩm đang có mặt tại một địa điểm bán
hàng nào đó nhằm lôi kéo khách hàng đến cửa hàng.
- Quảng cáo chính trị :
Các chính trị gia thường làm quảng cáo để các cử tri bỏ phiếu cho mình hoặc ủng hộ
chính kiến, ý tưởng của mình.
- Quảng cáo hướng dẫn :
Đây là hình thức quảng cáo nhằm hướng dẫn khách hàng làm thế nào để mua một sản
phẩm hoặc dịch vụ.
- Quảng cáo thị trường doanh nghiệp :
Loại hình quảng cáo này chỉ nhắm vào khách mua hàng là doanh nghiệp, công ty chứ
không phải là người tiêu dùng. Chẳng hạn như quảng cáo các sản phẩm là nguyên liệu
sản xuất, hoặc các sản phẩm chỉ dùng trong chương trình máy.
- Quảng cáo hình ảnh công ty :
Loại hình quảng cáo này nhằm xây dựng sự nhận biết về một tổ chức, hay thu phục
cảm tình hay sự ủng hộ của quần chúng đối với một công ty, tổ chức.
6
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
* Quảng cáo được truyền đi bằng nhiều phương tiện truyền thông khác nhau,
như :
- Các phương tiện nge nhìn: bao gồm truyền hình, trên đài phát thanh và trên
Internet. Trong đó quảng cáo trên truyền hình là hình thức phổ biến nhất và có phạm
vi tác động rất rộng, lại vừa có thể truyền tải hình ảnh và âm thanh chân thực đến
người xem.
- Các phương tiện in ấn: gồm có báo chí, tạp chí, tờ rơi, niên giám, mà quảng cáo
trên báo và tạp chí là hai hình thức áp dụng phổ biến nhất. Quảng cáo bằng báo chí có

thể kết hợp cả ngôn ngữ và hình ảnh, có thể truyền tay nhau, được lưu giữ hoặc đọc
lại.
- Các phương tiện quảng cáo ngoài trời: loại hình quảng cáo này có thể xuất hiện
bất cứ đâu, đặc biệt là những nơi có mật độ ngưòi qua lại cao như công viên, ngã tư,
và các đường phố chính. Ví dụ: biển quảng cáo điện tử, áp phích, pa-nô
- Các phương tiện quảng cáo di động: quảng cáo trên phương tiện giao thông như
xe buýt hay taxi và trên các vật phẩm quảng cáo như áo phông, mũ, áo mưa, túi sách,
ba lô
* Quảng cáo trên các tấm vé xe, vé số, vé máy bay, hoá đơn siêu thị đây là hình
thức quảng cáo bằng cách đưa các thông điệp quảng cáo, hình ảnh thương hiệu, hình
ảnh sản phẩm lên mặt trước thậm chí mặt sau của các tấm vé xe, vé số, vé máy bay
Bằng cách trao tận tay thông điệp về thương hiệu và các hình thức giớ thiệu sản
phẩm, khuyến mại tới người tiêu dùng sau mỗi lần mua hàng, sử dụng dịch vụ một
cách tiết kiệm và đạt hiệu quả tối đa, chi phí tối thiểu. Đây là hình thức quảng cáo khá
phổ biến nó tồn tại và phát triển ở các nước Châu Âu-Châu Mỹ đã hơn 30 năm nay
rồi. Hình thức quảng cáo trên đã được nhiều công ty ở Việt Nam áp dụng. Hiện nay
đang phát triển ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, hiện tại không ít
người đã biết đến hình thức quảng cáo này. Tuy nhiên, hình thức quảng cáo này vẫn
còn khá mới mẻ nên vẫn chưa thực sự phát triển.
3. Khách hàng
- Người tiêu dùng là người mua sắm và tiêu dùng những sản phẩm và dịch vụ nhằm
thoả mãn nhu cầu và ước muốn cá nhân. Họ là người cuối cùng tiêu dùng sản phẩm
do quá trình sản xuất tạo ra. Khách hàng là người tiêu dùng.
- Khách hàng là thị trường của Doanh nghiệp, đồng thời khách hàng lại là một trong
những lực lượng-yếu tố quan trọng nhất chi phối mang tính quyết liệt tới các hoạt
động Marketing của Doanh nghiệp. Mỗi sự biến đổi về nhu cầu, về quyết định mua
sắm của khách hàng yêu đều buộc Doanh nghiệp phải xem xét lại các quyết định
Marketing của mình.
Khi khách hàng quyết định mua sắm một nhãn hiệu hàng hoá cụ thể, họ thường kỳ
vọng vào những lợi ích do tiêu dùng nhãn hiệu hàng hoá đó mang lại. Cùng một nhu

cầu có nhiều hàng hoá hoặc nhãn hiệu hàng hoá có thể hướng đến để thoả mãn.
Nhưng theo cảm nhận của người tiêu dùng thì mức độ cung cấp những lợi ích của các
7
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
hàng hoá đó không giống nhau. Hàng hoá này có ưu thế về cung cấp lợi ích này,
nhưng lại có hạn chế trong việc cung cấp lợi ích khác. Khi quyết định mua, người tiêu
dùng buộc phải lựa chọn. Để lựa chọn, người tiêu dùng phải căn cứ vào khả năng
cung cấp các lợi ích và khả năng thoả mãn nhu cầu của từng hàng hoá và nhãn hiệu.
Chương 2: Thực trạng
1. Trình bày về quảng cáo và vai trò của quảng cáo:
Mặc dù chi phí quảng cáo không hề rẻ nhưng quảng cáo ngày càng xuất hiện dày đặc
ở khắp mọi nơi và gây chú ý cho chúng ta ở mọi góc độ. Chúng ta đang sống trong
thế giới đủ sắc màu của quảng cáo và dưới mọi hình thức: Bật ti vi lên thấy quảng
cáo, cầm báo lên đọc thấy quảng cáo, lướt net thấy quảng cáo, ra khỏi nhà thấy quảng
cáo ngoài trời, bước vô toà nhà thấy quảng cáo trên LCD, đi uống cafe thấy tờ rơi
quảng cáo đặt ngay trên bàn, đang đi trên đường cũng được dúi vào tay một tờ rơi
quảng cáo
Liệu tăng cường mức độ quảng cáo như vậy, có thực sự đem lại hiệu quả cao và
Doanh nghiệp đạt được mục tiêu doanh số bán hàng và lợi nhuận trong kinh doanh?
- Đối với người tiêu dùng:
Một số người tiêu dùng nhận thấy quảng cáo thực sự cũng cần thiết, hữu dụng và
đánh giá cao những thông tin một số chương trình quảng cáo. Nhưng nghiên cứu cho
thấy người tiêu dùng muốn dẹp sự hỗn loạn của quảng cáo và giành lại quyền kiểm
soát các thônh tin mà họ nhận được. Điều này được phản ánh trong cách người tiêu
dùng “ tiêu hoá ” quảng cáo: sau khi đụng phải quảng cáo, cảm thấy bị bão hoà, họ trở
nên nghi ngờ về Doanh nghiệp và cuối cùng chia sẻ những quan điểm tiêu cực của
mình với bạn bè.
Một số người tiêu dùng đã bày tỏ cảm giác mệt mỏi và mất tin tưởng vào quảng cáo.
Họ có cảm giác mình bị lợi dụng. Bên cạnh đó, quảng cáo ngày càng xuất hiện một
cách dày đặc khiến họ cảm thấy khó kiểm soát và phân vân chọn lựa giữa sản phẩm

này với sản phẩm khác.
- Đối với Doanh nghiệp:
Một thực tế là nhiều Doanh nghiệp quá lạm dụng quảng cáo nên bị người tiêu dùng
gán cho tội “lừa bịp” vì quảng cáo không phản ánh đúng chất lượng sản phẩm. Hầu
hết Doanh nghiệp Việt Nam chưa có kinh nghiệm về thuê làm quảng cáo nên có tình
trạng Doanh nghiệp thua lỗ trước khi chào bán sản phẩm vì chi quá nhiều tiền cho
quảng cáo nhưng quảng cáo không đạt yêu cầu. Rốt cuộc tiền mất tật mang.
Vấn đề chính là do Doanh nghiệp đã hiểu sai hoặc đánh giá chưa chính xác vai trò của
quảng cáo trong tiếp thị, do đó dẫn đến việc sử dụng nó không hiệu quả.
Nhiều Doanh nghiệp đau đầu, lúng túng mỗi khi cần chiển khai chiến dịch quảng cáo
nên dẫn đến kết quả hầu như không mong muốn. Nguyên nhân do họ xác định sai
hoặc không xác định đúng các yếu tố cần thực hiện để có một quảng cáo đạt tiêu
chuẩn. Để có một quảng cáo như ý muốn, Doanh nghiệp cần quyết định quảng cáo
dựa trên năm chữ M của quảng cáo: Misson-nhiệm vụ; Message-thông điệp; Media-
phương tiện truyền thông; Money-tiền; Measurement-đánh giá kết quả.
Nhiều Doanh nghiệp lớn trong nước cũng ngày càng nhận ra hiệu quả của quảng cáo
trong việc truyền bá thương hiệu và sẵn lòng chi nhiều tiền hơn cho dịch vụ này. Theo
nhận xét của những người trong ngề, dù chi phí phát sóng chỉ 30 giây xuất hiện trên
truyền hình có thể xấp xỉ 30 triệu đồng hoặc chi cả tỷ đồng để làm ra một quảng cáo
8
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
hiệu quả các nhà sản xuất vẫn sẵn lòng. Thị trường quảng cáo nhanh chóng bùng nổ
khi các đại gia tập đoàn lớn nước ngoài như Unilever, Colgate, Coca-Cola, Pepsi
vào Việt Nam sau cấm vận, và nhãy vào lĩnh vực quảng cáo theo bước các công ty của
nước ngoài, nhiều công ty Việt Nam cũng phất lên nhờ gia công, sản xuất hay quan hệ
đối nội với các cơ quan ban hành, truyền thông để lên kế hoạch truyền hình, phát
sóng
Tổng kết về ưu, nhược điểm của các loại hình quảng cáo :
LOẠI
HÌNH

QUẢN
G CÁO
ƯU ĐIỂM NHƯỢC
ĐIỂM
THÍCH HỢP KHÔNG
THÍCH HỢP
Truyền
hình
+ kết hợp tốt giữa âm
thanh, màu sắc, hình
ảnh, dễ liên tưởng.
+ phạm vi rộng.
+ tần suất cao.
+ dễ gây sự chú ý, có
tính hấp dẫn.
+ không chọn
lọc khán giả.
+ có thể bị
nhàm chán, bỏ
qua.
+ thời gian
quảng cáo
ngắn.
+ chi phí cao.
Thích hợp với
các Doanh
nghiệp lớn, có
nhiều lợi
nhuận. Các sản
phẩm cần giải

thích hoặc
chứng minh
bằng hình ảnh.
Với các doanh
nghiệp nhỏ,
vốn kinh
doanh ít. Các
quảng cáo có
mục đích làm
cho khách
hàng thể hiện
hành động
ngay, hoặc
mua sản phẩm
ngay.
Internet + là khai thác quảng
cáo trên website,
google search, các
forum, hiệu quả có thể
đo lường được luôn,
đối tượng khách hàng
tiềm năng cho nhiều
sản phẩm đang có xu
hướng sử dụng
Internet ngày càng
tăng.
+ tương đối chính xác
trong việc nhắm vào
một đối tượng nào đó
thậm chí có thể điều

chỉnh thông điệp
nhắm đến từng cá
nhân;nếu bạn có được
cơ hội, thì khả năng
được đọc rất cao. Khả
năng ứng dụng công
nghệ nghe nhìn rất đa
dạng
Là một hình
thức mới, chưa
được khai thác
nhiều, dịch vụ
còn nhiều thiếu
sót.
Có thể bị cắt
bỏ ngay cả
trước khi đọc,
ứng dụng công
nghệ nghe nhìn
hiện đại thì có
thể làm cho
những người
có cấu hình
yếu không đọc
được; có thể bị
xem là thư
điện tử rác
rưởi
Tuỳ vào nội
dung trang

web; Ví dụ
trang web thời
trang thì tốt
cho mỹ phẩm;
trang web về
thông tin khoa
học thì thích
hợp cho hàng
điện tử và
sách
Sản phẩm rời
mua với khối
lượng lớn; sản
phẩm mua
theo kiểu tiền
trao cháo múc;
sản phẩm cần
thôi thúc mua
hàng ngay
9
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
Tờ rơi Chi phí rẻ đơn giản,
dễ kiểm soát và đo
được hiệu quả.
Hình thức này
chỉ phù hợp
với khai
trương, khánh
thành,khuyến
mãi.

Có thể bị xem
là xả rác, và
lãng phí.
Hầu hết sản
phẩm
Không có
Báo chí Được đánh giá là đáng
tin cậy;
Có đủ diện tích để
diễn đạt thông điệp
của mình đến khách
hàng;
Có thể nhắm vào một
đối tượng nhân khẩu
học nào đó căn cứ trên
yếu tố địa lí
Thời gian
quảng cáo
ngắn
Thông tin dễ bị
bỏ hoặc đọc sơ
lược
Chất lượng
hình ảnh, màu
sắc kém
Các hoạt đọng
bán lẻ sử dụng
giá đẻ kích
thích khách
hàng; Thích

hợp cho các
chiến dịch
khuyến mãi
ngắn; Thích
hợp cho các
hoạt động càn
giải thích dài
dòng về lợi ích
và các hoạt
đọng thúc giục
hoạt động ngay
Các lĩnh vực
tiêu dùng hằng
ngày, ngoại
trừ một
chương trình
khuyến mại
đặc biệt nào
đó.
Radio + phạm vi rộng
+ thính giả có chọn
lọc tương đối.
+ chi phí thấp.
+ linh động về khu
vực địa lý.
+ tần suất cao.
+ chỉ đánh vào
thính giác.
+ ít gây chú ý
hơn tivi.

+ thời gian
quảng cáo
ngắn.
Thực phẩm ăn
nhanh và các
sản phẩm khác
dựa vào yếu tố
thôi thúc mua
sản phẩm và
nhắc nhở hằng
ngày; bất kỳ
sản phẩm nào
cần dội bom
bằng thông
điệp để khách
hàng mua sản
phẩm.
Bất kỳ loại sản
phẩm nào cần
chứng minh
bằng hình ảnh,
chẳng hạn như
máy giặt, tủ
lạnh
10
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
Biển
quảng
cáo
Có thể nhắm vào một

khu vực địa lý nhất
định;
Có thể đặt gần nơi bán
hàng;
Nhìn thấy nhiều lần;
Ít chịu áp lực quảng
cáo cạnh tranh
+ hạn chế sáng
tạo.
+ không chọn
lọc người xem.
+ bị chi phối
về yêu cầu mỹ
quan.
Thông điệp
phải ngắn gọn
vì khách hàng
thường đi lướt
qua; đối tượng
nhìn thấy
thường chỉ giới
hạn trong
những người
có việc đi
ngang qua khu
vực ấy.
Thức ăn nhanh
hoặc những
sản phẩm cần
thúc giục mua

ngay; lĩnh vực
kinh doanh
trong phạm vi
địa phương; tốt
trong việc bổ
sung cho
quảng cáo
truyền hình;
sản phẩm may
mặc; giới thiệu
điểm bán hàng.
Sản phẩm cần
chú ý trong
thời gian dài
như xe hơi,
sản phẩm /
dịch vụ cần
giải thích dài
dòng.
Điện
thoại
+ có hiệu quả tác
động cao nhất so với
những phương tiện
khác. Do bạn được
trực tiếp trao đỏi với
khách hàng nên có cơ
hội lớn để giới thiệu
chi tiết về sản phẩm
dịch vụ và tìm hiểu

được chính xác nhu
cầu và mong muốn
của khách hàng, ngoài
ra bạn cũng có thể xây
dựng mối quan hệ và
chiếm được thiện cảm
của khách hàng hoặc
có thể bán ngay được
sản phẩm. Trong
trường hợp này khách
hàng thường trả lời rất
chính xác nhu cầu và
mong muốn của họ,
qua đó bạn có thể
chuẩn bị cho các bước
bán hàng và quảng
cáo tiếp theo.
Tuy nhiên chi
phí quá đắt, chỉ
tiếp cận được
một số ít khách
hàng và có thể
làm mất thời
gian của khách
hàng dẫn đến
khách hàng có
ác cảm, bạn
cần tính toán
thời gian nào
thì phù với

từng ngành
nghề, từng
khách hàng
khác nhau và
hỏi ý kiến họ
trước khi trao
đổi
11
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
Tạp chí Chọn lọc độc giả
Chất lượng in ấn tốt
Gắn bó với độc giả
trong thời gian dài
Thời gian gián
đoạn dài giữa
hai lần xuất
bản
Tần suất thấp
Thời gian
chuẩn bị lâu
Mỹ phẩm;
Thời trang,
Máy vi tính;
Xe hơi; Bất cứ
sản phẩm gì
mà người tiêu
dùng chịu bỏ
thời gian để
xem hình ảnh;
Tốt cho xây

dựng thương
hiệu
Xúc tiến
thương mại
trong thời gian
ngắn hoặc sản
phẩm/dịch vụ
mau lỗi thời,
như sản phẩm
rau quả tươi
hoặc thức ăn
nhanh
Thư
trực
tiếp
Linh động
Chọn lọc tương đối
Không chịu tác động
của các quảng cáo
cạnh tranh
Cá nhân hoá
Đủ diện tích cho
những thông điệp
phức tạp; Có thể kèm
theo phiếu giảm giá;
Có thể gửi hàng mẫu
Người đọc dễ
bỏ qua, ít chú ý
Chi phí khá
cao

Chào hàng cho
khách hàng
trọng tâm;
Khuyến mại
trong một khu
vực địa lí hạn
chế; Hàng tạp
phẩm và hàng
tiêu dùng
Doanh nghiệp
hoật động toàn
quốc, vận tải
hàng không,
cho thuê xe
Mỗi hình thức quảng cáo đều có một ưu nhược điểm riêng. Vậy, trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh găt gao, khi mà người tiêu dùng đã cảm thấy chán nản với các hình
thức quảng cáo và yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao thì các doanh nghiệp
nên có biện pháp như thế nào để giới thiệu sản phẩm của mình đến người tiêu dùng
một cách có hiệu quả vừa tiết kiệm được chi phí quảng bá mà vừa cảm thấy tin tưởng
và hài lòng?
Căn cứ vào ưu điểm và nhược điểm của các loại hình quảng cáo trên thì đối với những
doanh nghiệp có chiến lược quảng cáo trong thời gian ngắn như : promotion, khuyến
mại, giảm giá nhân dịp lễ, ngàu đặc biệt thì những phương phàp trên khá tốn kém và
cao so với doanh thu lại trong thời đại cạnh tranh khốc lọêt như hiện nay. Bởi vậy, các
doanh nghiệp cần phải nghĩ ra phương thức quảng cáo giới thiệu sản phẩm trực tiếp
với tay người tiêu dùng một cách thông minh.
2. Thực trạng về các hình thức quảng cáo mới:
Các hình thức quảng cáo mới như : quảng cáo mặt sau các vé xe, mặt sau hoá đơn
siêu thị, quảng cáo trên vé số, vé máy bay… đang dần được hình thành ở Việt Nam.
Đặc biệt ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP HCM.

Quảng cáo film trên mặt sau bill siêu thị:
Với mong muốn mang đến cho người xem những thông tin nóng hổi về các bộ phim
đang chiếu trên HTV3, TVM đã quyết định đầu tư them một kênh quảng cáo mới.
TVM đã thực hiện chiến lược tiếp cận khan giả tiềm năng của mình trên kênh
quảng cáo film trên mặt sau của hoá đơn siêu thị. Ngoài ra đây còn là một công cụ
thực nghiệm nhằm tiếp cận thị trường Hà Nội trong thời gian sắp tới.
12
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
Quảng cáo trên bill siêu thị là mẫu quảng cáo thông tin in màu bắt mắt trên mặt
sau hoá đơn tính tiền tại các siêu thị. Với những người thường xuyên đi mua sắm ở
siêu thị thì đây là một hình thức mới mẻ giúp họ cập nhật thông tin nhanh và cực kỳ
tiện lợi.
Theo ước tính lượng khách ở các siêu thị như sau :
STT SIÊU THỊ QUẬN LƯỢNG KHÁCH
1 Coop Nguyễn Đình Chiểu Q.3 1534500
2 Coop Cống Quỳnh Q.1 1534500
3 Coop Đinh Tiên Hoàng Q.Bình Thạnh 1534500
4 Coop Lý Thường Kiệt Q.10 1488000
5 Coop Nguyễn Kiệm Q.Phú Nhuận 930000
Sau một tháng thực hiện, TVM đã thu được những kết quả khả quan. Số lượng người
đến siêu thị và quan tâm đến những bộ phim được giới thiệu phía sau hoá đơn tính
tiền là rất cao. Nhiều người rất thích thú vìo vừa đi siêu thị vừa được cập nhật thông
tin phim nhanh và chính xác.
Saving Bill – Quảng cáo trên hoá đơn siêu thị Fivimart, BigC, Citimart.
Đây là hình thức quảng cáo do công ty Cartle đưa vào Việt Nam và đang được phát
triển ở hai thành phố lớn : Hà Nội và TP HCM. Ở đây hình thức quảng cáo này được
nhiều người biết đến vì nhiều lý do:
- Chi phí rẻ: từ 50 – 80VND/1 ô quảng cáo, và chỉ với 1585000đ bạn có thể gửi tới
18600 khách hàng những thông tin về chương trình khuyến mại, giảm giá hoặc
chương trình kích hoạt thương hiệu một cách hiệu quả.

- Độ bao phủ lớn: Hiện tại Hà Nội có 21 siêu thị tham gia quảng cáo tại mặt sau
hoá đơn trong đó hệ thống Citimart có 5 siêu thị, hệ thống Fivimart có 13 siêu
thị, ngoài ra còn có siêu thị BigC có 2 siêu thị, trung tâm thương mại The
Garden.
- Thông tin của nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ được trao tận tay khách hàng: mỗi
một khách hàng đi siêu thị mua hàng đều có hoá đơn thanh toán, một khách hàng có
thể nhận 4-8 thông tin của 4-8 nhà cung cấp khác nhau trong các nghành khác nhau.
Theo khảo sát chung thì dịch vụquảng cáo trên hoá đơn siêu thị, Saving Bill là
phương thức tiết kiệm nhất để tăng doanh thu, truyền tải thông tin Marketing hiệu quả
cao và tạo cầu nối bền lâu giữa Doanh nghiệp với người tiêu dùng. 77% người tiêu
dùng tin rằng, “khuyến mãi” thật sự có ích và Saving Bill là lựa chọn hàng đầu
để khuyến mãi, chỉ có 31% khách hàng chú ý tới những mẫu quảng cáo đen
trắng trong vòng 3 giây tiếp xúc đầu tiên nhưng 80% khách hàng bị tò mò và bị
thu hút bởi mẫu quảng cáo có màu sắc bắt mắt mang thông điệp marketing, lôg
và giá trị khuyến mãi. 90% khách hàng đổi lấy quà khuyến mãi hoặc lưu giữ
những ô khuyến mãi bắtt mắt, 34% khách hàng có xu hướng sử dụng phiếu
khuyến mãi khi nhận trực tiếp từ mặt sau hoá đơn tính tiền so với 17% khách
hàng cùng loại nhận phiếu khuyến mãi gián tiếp hay qua đuờng bưu điện.
Ông Hoàng Thông (COO) cho biết them, công ty Cartel với các hình thức quảng cáo
trên mặt sau hoá đơn, Saving Bill được đưa hơn 1 năm, phủ hơn 85% thị phần
siêu thị lớn trên toàn quốc. Cartel cung cấp các công cụ để truyền tải thông tin
khuyến mãi, côupns đến kênh truyền thông độc quyền và riêng biệt của Cartel sẽ giúp
thúc đẩy chiến lược marketing của doanh nghiệp, lan toả thông điệp truyền thông
thông qua các chiến dịch tiếp thị tải rộngtrên phạm vi toàn quốc, giúp doanh nghiệp
13
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
truyền tải thông điệp truyền thông tới tận tay khách hàng tại đúng địa điểm và đúng
thời gian.
Quảng cáo bằng vé số (hình thức phát triển của quảnh cáo mặt sau ).
Hàng triệu tờ vé số, vé xe được phát hành mỗi ngày tuơng đương với lượng đối tượng

tiếp cận không hề nhỏ chính là tiềm năng phát triển cho hình thức quảng cáo trên vé.
Hình thức quảng cáo trên các loại vé xuất hiện ở Mỹ năm 1998 nhờ sự khai phá bằng
ý tuởng đưa hình ảnh sản phẩm lên mặt sau của vé gửi xe và các loại vé dịch vụ khác
của “ông tổ “ Chrítopher Gilliam (sang lập Công ty Adver Tickets chuyên về quảng
cáo trên vé ).
“Các doanh nghiệp muốn tận dụng mọi không gian, phương thức quảng bá thương
hiệu, sản phẩm của mình nhưng họ lại quên mất không gian nhỏ bé trên mỗi tờ vé, các
tiếp cận khách hàng nhanh mà chi phí rẻ”, anh Trần Đức Sự, tác giả ý tuởng quảng
cáo trên vé số và các loại vé đã đạt giải cuộc thi “ý tưởng sang tạo trẻ 2009” tại
TP.HCM, cho biết.
Theo tính toán của anh , mọtt tờ vé số có kích thước bề mặt trung bình 60x150mm,
tính ra diện tích khoảng 0,009m2, thích hợp để chèn lôg, hoặc slogan, địa chỉ
website của thuơng hiệu, nhãn hàng hơn là giới thiệu sản phẩm. đối tuợng có
nhiều nhu cầu sử dụng kênh này là doanh nghiệp chuyên cung cấp hàng tiêu dùng,
nhu yếu phẩm (bột giặt, dầu ăn, nuớc giải khát) hay dịch vụ (mạng viễn thông, du lịch
, ngân hàng). Đối tượng của quảng cáo trên vé là những người lao động phổ thông, có
thu nhập thấp cho nên luợng người tiếp cận là rất rộng. bên cạnh đó, kênh này lại
được tiếp cận hàng ngày, lặp đi lặp lại nên ấn tuợng để lại trong người tiêu dùng khá
mạnh.
Ông Hà Văn Tăng, phó chủ tịch thường trực kiêm tổng thư ký hiệp hội quảng cáo
Việt Nam, cho rằng ưu điểm của phương thức quảng cáo trên vé là cách tiếp cận trực
tiếp từng người rồi lan toả ra nhiều người. tuy chỉ sử dụng một lần, nhưng số lượng vé
lớn và sơ-ri nhiều nên có thể sử dụng trong nhiều năm.ngoài ra các phòng vé, đại lý
vé những ngườ bán vé số doạ dều rất đông, tính cơ động cao nên đây có thể được coi
là một kênh phân phối rộng.
Xét riêng về quảng cáo trên vé số, theo ông Dũng có thể phát huy hiệu quả đảy
mạnh đối với quảng cáo phi lợi nhuận, nhằm mục đích gia tăng nhận biết
thương hiệu hoặc làm từ thiện. chẳng hạn, nhãn hàng Ôm có thể thõa thuận với
công ty xổ số về việc chuyển một số tiền cho trẻ em nghèo, trong khi lôg hay
slogan của Ôm sẽ xuất hiện trên tờ vé số. nhiều doanh nghiệp sẽ hứng thú với

hình thức này.
Trong tương lai, nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra nhiều nhu cầu cùng nhiều không
gian hẹp để kiểm soát về tài chính. Lúc đó, chi phí cho quảng cáo đắt đỏ, những
kênh nhỏ sẽ phù hợp với các nhà sản xuất vừa và nhỏ với chi phí cho quảng cáo
là không nhiều. ông chọn kựa, công ty này muốn thị trường bao phủ địa bàn
TP.HCM nhưng chi phí dành cho quảng cáo trên vé sẽ tiện lợ hơn.
Ông Tăng, Hiệp họi Quảng cáo Việt Nam, cũng đồng tình với quan điểm này. Theo
ông, hàng hoá giá rẻ sẽ là đối tượng tốt nhất cho kênh quảng cáo này. Và loại vé
theo ông có khả năng mang lại hiệu quả tốt nhất chính la vé máy bay, do thời gian
giữ vé khá lâu, khách hàng lại là những người có thu nhập khá nên sức tiêu dùng
cao.
Vì không đưa ra được con số thống kê cụ thể về hiệu quả sử dụng nên cho đến
nay, quảng cáo trên vé chưa đủ sức hút đối với Doanh nghiệp có nhu cầu.
“Quảng cáo trên các loại vé có thể trở thành một loại hình quảng cáo mới nhưng
14
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
chưa chắc có thể trở thành loại hình thịnh hành hay xu hướng trong tương lai”,
ông Dũng nhận xét.
Quảng cáo trên vé xe :
Christopher Gilliam bắt đầu với hướng kinh doanh rất mới lạ này từ năm 1998 tại
Dallas, Mỹ, công ty AdverTickets chuyên quảng cáo trên các loại vé.
Phát hiện ra một công cụ Marketing chưa được khai thác, Christopher Gilliam đã thử
đưa hình quảng cáo đầu tiên vào mặt sau của tấm ve gửi xe và các loại vé dịch vụ
khác. Bất cứ ai khi nhận được những loại vé này đều lưu giữ nó một thời gian nhất
định, và đây chính là cơ hội để Gilliam khai thác,
Gần một triệu tấm vé đầy màu sắc có hình ảnh quảng cáo của hãng bia National
Brewer đã được phát tán khắp nơi tại Houston, từ vé gửi xe vào nhà hàng tới các quán
bar và vé phòng khách sạn. Doanh số của hãng tăng lên trông thấy khi khách hàng
được tiếp thị theo cách đặc biệt này.
PHẦN 3: PHƯƠNG HƯỚNG

Từ thực tiễn đưa ra như trên, liệu thị trường Việt Nam nói chung, thị trường ở Huế nói
riêng, loại hình quảng cáo mặt sau có triển vọng phát triển như thế nào?
Mọi Doanh nghiệp phải giải quyết tốt vấn đề Chi phí-Lợi nhuận.Doanh nghiệp phải
hạn chế tối đa chi phí, tránh lãng phí nhằm giữ được lợi nhuận cho Doanh nghiệp mà
vẫn duy trì hình ảnh thương hiệu nhãn hàng.Ở Việt Nam,phần lớn là doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nguồn chi phí cho quảng cáo là không nhiều.
Vậy bài toán đặ ra cho người làm Marketing là phải tận dụng và phát huy ưu điểm,
khắc phục và hạn chế nhược điểm để làm sao đó mỗi đồng chi phí quảng cáo thật sự
là một đồng tiền cho đầu tư có lợi.
Việt Nam là một đất nước có quy mô lớn:
Năm 2010: dân số Việt Nam là 86,9277 triệu người
Số dân thành thị: 26224,4 nghìn người.
Dân số tỉnh Thừa Thiên Huế là 1090879 người trong đó thành thị có 470907 người
(theo Cục thống kê VN)
Đến cuối năm 2011, cả nước ước tính đạt 87,84 triệu người.
Và ước tính đến năm 2020, dân số thành phố Huế và các vùng đô thị vệ tinh khoảng
710.000 người.
Như vậy với tốc độ tăng dân số thành thị trung bình là 3,4% loại hình quảng cáo mặt
sau liệu có khả năng phát triển cao?
+ Đối với phương thức quảng cáo saving bill(mặt sau hóa đơn)
Theo nghiên cứu TNS(công ty Taylor Nelson Sofres) năm 2009, thị trường bán lẻ VN
đang là một trong những thị trường tiềm năng, với quy mô dân số lớn, tỷ lệ dưới 30
tuổi chiếm 60%. Tổng số siêu thị, cửa hàng tiện lợi tăng 50%/năm và siêu tị đang dần
trở thành trung tâm của cộng đồng. Đi siêu thị mua sắm là một trong năm hoạt động
cuối tuần phổ biến nhất của người dân thành thị.
50% NTD đi siêu thị tối thiểu 1lần / tháng, hơn 80%tại TP HCM tương đương 20
triệu lượt người đến siêu thị/ tháng. Với chính sách người việt nam dùng hàng việt
nam,và đời sống người dân được nâng lên đáng kể, thị trường Huế, siêu thị đang dần
15
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI

trở thành trung tâm mua sắm của người dân, không chỉ với người dân thành thị mà
còn là điểm đến mua sắm của người nông thôn.
Về mặt pháp luật, “theo quy định tại điểm 2 điều 4 thông tư 153/2010/TT-BTC, ngoài
nội dung bắt buộc theo quy định tổ chức cá nhân kinh doanh có thể tạo thêm các
thông tin khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh, kể cả tạo logo, hình ảnh trang trí
hoặc quảng cáo. Các thông tin phải đảm bảo phù hợp pháp luật và không che khuất,
làm mờ các nội dung bắt buộc có trên hóa đơn.”
Có nghĩa rằng, việc vận dụng quảng cáo mặt sau hóa đơn vào thực tế trong phạm vi
pháp luật cho phép là hoàn toàn có thể thực hiện được.
Điều rất triển vọng là khách hàng nhận saving bill mỗi phút, mức độ nhận biết
nanh chống và rộng rãi.
Với kết quả tối đa, chi phí tối thiểu, saving bill trao tân tay thông điệp về thương
hiệu và các chương trình khuyến mãi tới NTD cho mỗi lần đi siêu thị. Có thể nói,
quảng cáo mặt sau hóa đơ siêu thị là một hình thức mới phát triển tại Việt Nam nhưng
rất có hiệu quả và củng sẽ thu hút được sự quan tâm của các daonh nghiệp bởi các
chiến dịch quảng cáo bằng phương thức này đều có thể đo lường hiệu quả tức thì.
Không chỉ có mặt sau hóa đơn siêu thị mà chúng ta cũng có thể áp dụng cho các hóa
đơn tai các quầy hàng, hóa đơn truyền hình, phiếu thu chi,hóa đơn tiền nước, hóa đơn
tiền điện….Với mỗi mẫu hóa đơn chỉ từ 4-7 màu, và tối thiểu 8 mẫu quảng cáo trên 1
cuộn hóa đơn, nhằm giảm thiểu cạnh tranh trực tiếp để đem lại hiệu quả quảng cáo
cao.
+ Đối với phương thức quảng cáo trên vé:
Hàng triệu tờ vé xe, vé số được phát hành mỗi ngày tương đương với lượng đối
tượng tiếp cận không hề nhỏ chính là tiềm năng phát triển cho hình thức quảng cáo.
Với thực tế là “các doanh nghiệp luôn tận dụng mọi không gian, phương thức quảng
bá thương hiệu, sản phẩm của mình nhưng họ lại quên mất không gian nhỏ bé trên
mỗi tờ vé số, cách tiếp cận khách hàng nhanh mà chi phí lại rẻ”(trần đức sự, đạt giải ý
tưởng sáng tạo trẻ 2009).
Theo tính toán, một tờ vé số có kích thước bề mặt trung bình 60 x 150 mm, tính ra
diện tích khoảng 0,009 m

2
, thích hợp để chèn logo hoặc slogan, địa chỉ website của
thương hiệu, nhãn hàng hơn là giới thiệu sản phẩm. Đối tượng có nhiều nhu cầu sử
dụng kênh này là doanh nghiệp chuyên cung cấp hàng tiêu dùng, nhu yếu phẩm (bột
giặt, dầu gội, nước giải khát) hay dịch vụ (mạng viễn thông, du lịch, ngân hàng). Đối
tượng của quảng cáo trên vé là người lao động phổ thông, có thu nhập thấp cho nên
lượng người cần tiếp cận là rất rộng. Bên cạnh đó, kênh này lại được tiến hành hằng
ngày, lặp đi lặp lại nên ấn tượng để lại trong người tiêu dùng là khá mạnh.
Phương thức quảng cáo trên vé là tiếp cận trực tiếp từng người rồi từ đó lan tỏa
sang người khác.Chỉ tính riêng khu vực miền trung tổng số vé tiêu thu khoảng
1,2 triệu vé/ngày, với số lượng phát hành lớn như vậy, đối tượng tiêu dùng
phong phú, phân bố ở nhiều khu vực khác nhau…Bên cạnh đó, người mua vé số
thường giữ vé rất lâu, có khi trong nhiều ngày.Mặt khá, chỉ cần đăng quảng cáo trên
vé số, các doanh nghiệp sẽ có một số lượng khổng lồ các nhà Marketing là các đại lý
16
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
và những người bán vé số, tính cơ động cao nên đây có thể được coi là kênh phân
phối rộng.
Để đạt hiệu quả cao trong phương thức quảng cáo này, các doanh nghiệp củng cần
phân bổ nguồn vé của mình để có thể thu hút các nhóm NTD, các loại hàng hóa
quảng cáo trên các loại vé khác nhau, phù hợp với người tiêu dùng.
Chẳng hạn,người mua vé số đa phần là ngườ tiêu dùng phổ thông, thì có thể quảng
cáo các mặt hàng nhu yếu phẩm, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày như bột giặt, sữa tắm,
kem đánh răng….
Vé tàu, vé xe cũng là một vùng đất tiềm năng cho loại hình quảng cáo mặt sau.
Phần lớn người dân Việt Nam có thu nhập không cao, họ không có xe ôtô riêng để di
chuyển. Do đó, lượng người đi tàu, xe là rất nhiều. Và loại xe ngày càng được lựa
chọn nhiều là xe chất lượng cao, thường thì phải đặt vé trước nên thời gian giữ vé khá
lâu.
Đất nước Việt Nam có đường tàu nam-bắc với nhiều đoàn tàu, lưu lượng khách

nhiều, hành khách phải giữ vé trong suốt tuyến để kiểm vé, điều đó đồng nghĩa
với việc hành khách luôn tiếp xúc với vé tàu trong suốt thời gian di chuyển,
thông điệp quảng cáo dễ đi vào tâm trí của hành khách.
Ở hầu khắp các tỉnh thành, hàng ngày đều có hàng chục tuyến xe buýt nội-ngoại
thành, chủ yếu phục vụ học sinh, sinh viên có thể quảng cáo sách vở, bút viết,
cặp sách…
Và loại vé có khả năng mang lại hiệu quả tốt nhất là vé máy bay, là một ví dụ điển
hình cho sự phát triển ngày càng nhiều và hiệu quả cao của hình thức quảng cáo vé do
thời gian giữ vé khá lâu, khách hàng lại là những người có thu nhập khá nên sức tiêu
dùng cao. Vì vậy, triển vọng phát triển quảng cáo trên vé máy bay là rất cao.
+ Phương thức quảng cáo trên vé giữ xe:
Nhu cầu về xe máy ở việt nam vẫn tiếp tục tăng cao bởi ngày càng có nhiều người
làm việc tại thành phố, bao gồm cả sinh viên và công nhân. Với mức tăng trưởng
30%-40%hằng năm về tiêu thụ xe máy, các chuyên gia Nhật Bản cho rằng trong 10
năm tới xe máy vẫn là phương tiện chủ yếu ở Việt nam và có khoảng 30 triệu xe máy.
Bên cạnh đó xe đạp vẫn đang duy trì với số lượng lớn và ôtô đang có xu thế tăng ở
việt nam.
Điều đáng chú ý là người việt nam rất ít đi bộ dù gần hay xa.Và khi họ đi xe dù là xe
máy, xe đạp hay thậm chí ôtô khả năng rất cao là họ phải gửi xe.
Xét về chi phí, mỗi chiếc vé xe doanh nghiệp chỉ mất từ 700 đồng đến 1.000
đồng/ngày, bên cạnh đó có thể chủ động được thời gian quảng cáo, tiếp cận được
tận tay hàng trăm ngàn người tiêu dùng ở nhiều vùng, khu vực khác nhau. Dễ
thay đổi nội dung quảng cáo theo từng ngày và do nó mới lạ nên kích thích được
sự quan tâm của nhiều người.
17
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
Về phía chủ bãi giữ xe khi tham gia quảng cáo thì được miễn phí vé giữ xe, giúp
tiết kiệm được chi phí. Được tặng thêm 10 đồng/vé, chẳng hạn một ngày có 5.000
lượt gửi xe thì một tháng sẽ được tặng thêm 1.500.000 đồng. Được trang trí miễn
phí bãi xe, cung cấp các văn phòng phẩm, dù che mưa, các chương trình khuyến

mãi…
Với số lượng các loại xe và cách thức như vậy,việc đưa phương thức quảng cáo
trên vé giữ xe là rất có khả thi.
Trong tương lai, nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra nhiều nhu cầu cùng nhiều không gian
hẹp để kiểm soát về tài chính. Lúc đó, chi phí cho quảng cáo đắt đỏ, những kênh nhỏ
sẽ phù hợp với các nhà sản xuất vừa và nhỏ với ngân sách chi cho quảng cáo không
nhiều. Đơn cử ví dụ, một doanh nghiệp mới ra một loại bút bi mới, chưa được nhiều
người chọn lựa, công ty này muốn thị trường bao phủ địa bàn TP.HCM nhưng chi phí
dành cho quảng cáo không nhiều, không thể lựa chọn các kênh truyền hình thì kênh
quảng cáo trên vé sẽ tiện lợi hơn.
Việc in quảng cáo trên các loại vé dù người tiêu dùng không để ý nhưng hình ảnh đi
vào vô thức của người tiêu dùng và nó sẽ chuyển thành thái độ và hành động lúc nào
không hay.
Phải nhận thấy một điều rằng, hàng hóa giá rẻ sẽ là đối tượng tốt khi sử dụng phương
thức quảng cáo trên vé(tàu) xe, vé số, vé giữ xe. Nhưng liệu hàng hóa giá rẻ có đạt
được hiệu quả không nếu sử dụng phương thức quảng cáo trên vé máy bay. Và liệu
quảng cáo sữa trên vé số có đem lại hiệu quả không, khi mà vé số được coi là một
hình thức “cờ bạc” trong một phạm vi nào đó.
Người làm Marketing phải hiểu rằng, mỗi khách hàng có một trạng thái tiêu dùng
khác nhau. Chẳng hạn,khi đi lu lịch thì họ không thích xem những mẫu quảng cáo
nặng về tư duy, mà trong trường hợp này cần tập trung vào những mẫu quảng cáo giải
trí, vui chơi. Người làm Marketing phải hiểu rõ trạng thái tiêu dùng thì mới đem lại
hiệu quả tốt nhất cho chi phí quảng cáo.
Tùy từng trường hợp khác nhau mà lựa chọn loại hình cụ thể phù hợp thì sẽ làm tăng
hiệu quả của công việc quảng cáo, và đạt được ấn tượng tốt trong mỗi tâm trí khách
hàng về thương hiệu của doanh nghiệp.
Để loại hình quảng cáo này đạt hiệu quả và dễ quản lý cần thành lập các doanh nghiệp
chuyên chịu trách nhiệm về quảng cáo trên vé đóng vai trò trung gian, làm cầu nối
giữa doanh nghiệp với bên sở hữu diện tích quảng cáo(công ty xổ số, chủ bãi giữ xe,
chủ xe khách….)

Một vấn đề mang tính quyết định để thực hiện loại hình này là doanh nghiệp có nhu
cầu cần phải xác định đối tượng mục tiêu và độ bao phủ quảng cáo định thực hiện.
Nói như thế để thấy rằng, quảng cáo mặt sau là một hình thức quảng cáo mới, rất có
triển vọng ở việt nam nói chung và ở Tp Huế nói riêng, nhưng không phải bất cứ
Doanh nghiệp nào củng đều thành công khi vận dụng loại hình quảng cáo này.
PHẦN 4: TỔNG KẾT
Nhìn chung các hình thức quảng cáo mới như quảng cáo trên mặt sau vé xe, hóa đơn
siêu thị, quảng cáo trên vé số, vé máy bay… là những hình thức quảng cáo khá mới lạ
ở Việt Nam. Và có thể nói các hình thức quảng cáo trên đang còn trong giai đoạn thử
18
BÀI TIỂU LUẬN NHÓM 4: NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC QUẢNG CÁO MỚI
nghiệm để dần tiến đến phổ biến và rộng rải hơn. Trong tương lai, rất có thể các hình
thức quảng cáo trên sẽ là một sự lựa chọn ưu tiên cho các Doanh nghiệp ở Vietj Nam
áp dụng. Điển hình như công ty Cartle với hình thức quảng cáo trên các hóa đơn siêu
thị Fivimart, BigC, Citimart. Đài truyền hình TVM với chiến lược tiếp cận khán giả
tiềm năng của mình trên kênh quảng cáo film trên mặt sau của hóa đơn siêu thị. Hay
hai thương hiệu Prudential và Bitis quảng cáo thương hiệu của mình bằng cách đăng
hình ảnh, thương hiệu của mình lên tấm vé số… Các Doanh nghiệp trên sau một thời
gian thực hiện các chiến lược với các hình thức quảng cáo trên hầu hết đều đồng tình
rằng: sự biết đến của khách hàng về thương hiệu của công ty, doanh số bán hàng của
công ty đều tăng lên đáng kể, bằng chứng là những thông tin ta đã trình bày ở các mục
trên.
* Ưu, nhược điểm của các hình thức quảng cáo trên:
Ưu điểm:
- Chi phí rẻ.
- Bảo vệ môi trường.
- Thông tin được truyển tận tay tới người tiêu dùng.
- Tìm kiếm thêm được khách hàng tiềm năng.
- Để lại ấn tượng mạnh.
- Tiếp cận trực tiếp từng người rồi lan sang người khác.

- Giữ được lâu và có cơ hội để khách hàng đọc lại, đưa thông tin cho người khác.
- Phù hợp với những Doanh nghiệp mới, vừa và nhỏ.
Nhược điểm:
- Doanh nghiệp cần xác định đối tượng mục tiêu và độ bao phủ của quảng cáo.
- Phải kiểm soát được về mặt định lượng nếu không sẽ khó đánh giá được mặt hiệu
quả.
- Thông tin truyền tải cho người tiêu dùng bị hạn chế
19

×