Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Nghiên cứu mặt trái của FDI vào trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.79 KB, 18 trang )

Nghiên cứu mặt trái của FDI vào Trung Quốc

Nguyễn Thị Thu Hà

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn Thạc sĩ ngành: Kinh tế đối ngoại; Mã số: 60 31 07
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Thái Quốc
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Trung Quốc. Nghiên cứu, làm rõ hơn nguyên nhân
hình thành, hậu quả từ những mặt trái của FDI ở Trung Quốc. Tổng hợp, đánh giá
những giải pháp khắc phục các vấn đề tồn tại của Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả
thu hút FDI, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Keywords: Đầu tư trực tiếp nước ngoài; Đầu tư; Trung quốc; Kinh tế quốc tế

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm (1979-2010) thực hiện chính sách cải cách mở cửa về ngoại thương
và đầu tư nước ngoài, kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú
ý của cả thế giới. Một trong những yếu tố chi phối mạnh mẽ sự phát triển kinh tế của Trung
Quốc trong hơn ba mươi năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước Trung Quốc đã trưởng thành và phát
triển. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được biết đến như một quốc gia điển hình về trì
trệ, không phát triển thì sau hơn 30 năm mở cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang
hình thành. Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
nước này chạm mức cao kỷ lục 105.74 tỷ USD trong năm 2010, tăng 17.4% so với năm trước,
Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành nước thu hút FDI lớn nhất trên thế giới trong năm
2010, tạo nên một trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”.


Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ mang lại những tác động tích cực mà nó
còn có rất nhiều mặt trái ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Trung Quốc. Sự tăng trưởng kinh
tế nhanh chóng trong hơn ba thập kỷ qua biến Trung Quốc thành một trong những quốc gia có
mức độ ô nhiễm cao nhất thế giới. Ở nhiều tỉnh, thành tại Trung Quốc, các vấn đề môi trường
và sức khỏe không được ưu tiên bằng phát triển công nghiệp. Bầu không khí ở nhiều thành
phố bị nhuốm đen bởi khói từ các nhà máy. Hàng trăm triệu người dân Trung Quốc không thể
tiếp cận với nước sạch. Hai vụ nhiễm độc chì gần đây mà ít nhất 2.000 trẻ em Trung Quốc là
nạn nhân chỉ là những trường hợp mới nhất trong hàng loạt vụ nhiễm độc dường như xảy ra
liên tục, chỉ là một trong nhiều biểu hiện mặt trái của sự bùng nổ kinh tế ở quốc gia này.
Chính vì vậy một vấn đề đặt ra hiện nay với Trung Quốc là đằng sau những lợi ích mà
FDI mang lại là một số những vấn đề tồn tại thuộc về mặt trái phát sinh có ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường, cuộc sống và tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của một Đất nước. Có
thể nói rằng mặt trái của FDI vào Trung Quốc là một vấn đề khá mới mẻ chưa có nhiều

2
nghiên cứu, vì trong những năm qua FDI vẫn được nhìn nhận như một liều thuốc đại bổ cho
nền kinh tế thiếu dinh dưỡng và không mấy ai mảy may nghĩ đến mặt trái của FDI. Bởi vậy,
dường như chỉ mới gần đây những tác động tiêu cực của FDI mới được bộc lộ rõ nét và mới
được công luận chú ý và bắt đầu có cái nhìn mang tính phê phán hơn so với cái nhìn mầu
hồng mang nặng tính thực dụng trước đây. Những mặt trái này tồn tại như là tất yếu của quá
trình thu hút FDI, đồng thời cũng xuất phát từ những thiếu sót trong quá trình quản lý nguồn
vốn của Nhà nước Trung Quốc, từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm hết sức có giá trị cho
Việt Nam trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù rất khó bóc tách những
tác động tiêu cực nào do khu vực kinh tế trong nước gây ra, những tác động tiêu cực nào do
khu vực FDI gây ra. Tuy nhiên xuất phát từ tình hình thực tiễn nêu trên tôi lựa chọn đề tài “
Nghiên cứu mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc”
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói rằng FDI là nguồn vốn quan trọng đóng góp vào vào sự phát triển của một
quốc gia, cùng với sự vận động của nền kinh tế thế giới, vai trò và hình thức của nguồn vốn
FDI cũng có những biến đổi phức tạp. Do vậy trong vài năm trở lại đây đã và đang có rất

nhiều đề tài, sách báo, truyền thông nghiên cứu, thảo luận về FDI, có thể kể đến một số đề tài
nghiên cứu:
Ở trong nước có một số nghiên cứu chính sau: Nhiệm vụ cấp Bộ: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài và phát triển kinh tế” do VS.Võ Đại Lược và TS. Lê Bộ Lĩnh làm chủ nhiệm,
hoàn thành năm 1997, tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và phát triển kinh tế trong
bối cảnh trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính Châu Á.
Nghiên cứu của TS. Nguyễn Kim Bảo về “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc
từ năm 1979 đến nay” sách xuất bản năm 2004, chủ yếu tập trung nghiên cứu vào những
chính sách thu hút FDI vào Trung Quốc, lợi ích và thành tựu đã đạt được, nghiên cứu này có
đề cập đến một số tồn tại của quá trình thu hút FDI ở Trung Quốc nhưng chưa đi sâu vào đánh
giá và phân tích cụ thể.
Nghiên cứu của TS Phạm Thái Quốc “Điều chỉnh chính sách thu hút FDI trong quá
trình hội nhập quốc tế ở Trung Quốc từ năm 1979 đến nay” đăng trên Tạp chí kinh tế & chính
trị thế giới, xuất bản năm 2008 đã đề cập khá rõ nét về quá trình điều chỉnh chính sách thu hút
FDI ở Trung Quốc nhưng chưa đề cập cụ thể đến vấn đề mặt trái của FDI vào Trung Quốc.
Hội thảo quốc tế Pháp – Việt: “Bối cảnh kinh tế mới, các dòng đầu tư nước ngoài với
việc phát triển thương mại và thị trường ở Châu Á và Việt Nam” (Do ĐH Thương Mại Hà
Nội cùng Đại học Pari và ĐH Thương Mại Pari tổ chức tại Hà Nội 13 – 14/2/2003) tập trung
vào vai trò và xu hướng phát triển thương mại của Việt Nam trong bối cảnh mới. Trong hội
thảo cũng có một số tham luận đề cập đến vấn đề FDI vào một số nước Châu Á, trong đó có
Trung Quốc, tuy nhiên hội thảo chưa đề cập đến vấn đề mặt trái của quá trình thu hút FDI vào
các nước.
Ở nước ngoài có một số công trình đáng chú ý như: Nghiên cứu chung, mang tính lý
thuyết của tác giả Imad A. Moosa, về Đầu tư trực tiếp nước ngoài, dẫn chứng và thực tiễn
(Foreign Direct Investment: Theory, Evident and Practise (2002)), nội dung đề cập đến tác
động của FDI vào phát triển kinh tế ở các nước sở tại và sự tăng trưởng của các công ty đa
quốc gia, cùng với các phương pháp đánh giá dự án đầu tư FDI.
Nghiên cứu của Friedrich Wu, FDI to China and Asean: has Asean been losing out?
www.mti.gov.sg đã đề cập đến vấn đề thu hút FDI ở Trung Quốc và khu vực Asean. Những
cái được và mất trong quá trình thực hiện FDI.

Một nghiên cứu khác của K.Cheung, P.Lin: “Spillover effects of FDI on innovation in
China; Evidence from the provincial data” đăng trên Tạp chí kinh tế Trung Quốc số 15 năm
2004 đã bàn về hiệu ứng lan tỏa của FDI vào sự đổi mới ở Trung Quốc. Nghiên cứu này đã
chỉ ra FDI là hoạt động có thể có lợi cho việc đổi mới trong nước chủ nhà qua lan toả các

3
kênh như kỹ thuật đảo ngược, doanh số lao động có tay nghề cao, hiệu ứng trình diễn, và nhà
cung cấp – mối quan hệ khách hàng.
Như vậy có thể nói các công trình nghiên cứu và bài viết có liên quan đến luận văn đều
là những tài liệu rất hữu ích cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Trung Quốc. Tuy nhiên các tài liệu này chủ yếu đi vào nghiên cứu một cách khái quát về sự
vận động của dòng FDI nói chung và vai trò của FDI với phát triển kinh tế, gia tăng thương
mại…, hoặc nghiên cứu chính sách thu hút FDI, việc điều chỉnh các chính sách này tại Trung
Quốc. Do vậy luận văn này đi sâu vào nghiên cứu, làm rõ hơn về “mặt trái của FDI vào Trung
Quốc”, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về FDI và cơ sở tồn tại những mặt trái, làm
rõ những khía cạnh thuộc về mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc, đánh
giá đúng nguyên nhân, thực trạng tồn tại của những mặt trái này. Đề xuất một số kiến nghị
cho Việt Nam. Để thực hiện mục đích trên luận văn dự kiến trả lời những câu hỏi sau:
Thứ nhất, bên cạnh những cái được trong quá trình thu hút FDI vào Trung Quốc thì
những mặt trái của quá trình này là gì?
Thứ hai, phải chăng FDI luôn kèm theo một số vấn đề, đó là căn bệnh cố hữu? Hay do
quản lý FDI không tốt?
Thứ ba, làm thế nào để khắc phục mặt trái của FDI?
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Trung Quốc.
- Nghiên cứu, làm rõ hơn nguyên nhân hình thành, hậu quả từ những mặt trái của FDI ở

Trung Quốc.
- Tổng hợp, đánh giá những giải pháp khắc phục các vấn đề tồn tại của Trung Quốc nhằm
nâng cao hiệu quả thu hút FDI, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung
Quốc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
4.2.1. Không gian: Trung Quốc, không bao gồm Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao.
4.2.2. Thời gian: Từ năm 1992 đến năm 2010, tập trung vào giai đoạn 2002 - 2010
4.2.3. Nội dung: Phân tích, đánh giá thực tế về các vấn đề liên quan đến mặt trái của FDI vào
Trung Quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, so sánh, tổng hợp và phân tích,
định tính, định lượng, hỏi ý kiến chuyên gia kết hợp những kết quả thống kê với việc vận
dụng lý luận để làm rõ hơn những vấn đề nghiên cứu. Mặt khác, luận văn cũng sử dụng các
quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng & nhà nước Trung Quốc để khái
quát, hệ thống và khẳng định kết quả nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
Với những nội dung chính vừa nêu, đề tài nghiên cứu này sẽ cố gắng góp phần làm rõ
hơn các vấn đề về lý luận và các vấn đề về thực tiễn sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã góp phần nghiên cứu những vấn đề thuộc về mặt trái của FDI
vào Trung Quốc. Từ đó đi đến khẳng định mức độ ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của
nền kinh tế, đưa ra những giải pháp khắc phục của Trung Quốc.

4
Thứ hai,luận văn tìm hiểu những bài học kinh nghiệm trong việc xử lý các vấn đề đi
kèm FDI ở một nước láng giềng gần gũi - Trung Quốc, và đề xuất một số giải pháp FDI của
Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và phần tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về FDI và nguyên nhân của sự tồn tại mặt trái trong quá
trình thu hút FDI vào Trung Quốc
- Chương 2: Thực trạng của quá trình thu hút FDI và mặt trái của FDI ở Trung Quốc
- Chương 3: Một số giải pháp của Trung Quốc trong khắc phục mặt trái của FDI và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam.

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ FDI VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA SỰ TỒN TẠI MẶT
TRÁI TRONG QUÁ TRÌNH THU HÚT FDI VÀO TRUNG QUỐC
1.1. Những vấn đề cơ bản về FDI
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư quốc tế là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ thuật, khả năng quản
lý…từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận trên phạm vi
toàn cầu.
Đầu tư quốc tế được biểu hiện chủ yếu dưới hai hình cơ bản là đầu tư trực tiếp nước
ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (Portfolio Foreign
Investment - PFI). Trong hai hình thức trên của đầu tư quốc tế thì đầu tư trực tiếp nước ngoài
được các nhà kinh tế rất chú ý và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), trong báo cáo cán cân thanh toán hàng năm đã đưa ra
định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có
lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư – hosting country),
không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư – source country) với
mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp”
Trong Báo cáo đầu tư thế giới năm 1996 đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát
lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ)
đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước
ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”

1.1.2. Vai trò của FDI
1.1.2.1. Đối với việc giải quyết việc làm cho ngƣời lao động
Thông qua hoạt động đầu tư các doanh nghiệp FDI góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động. Các doanh nghiệp FDI trực tiếp tạo việc làm thông qua việc tuyển dụng lao
động ở nước sở tại. Bên cạnh việc làm này, doanh nghiệp FDI còn gián tiếp tạo việc làm
thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp
vệ tinh cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khu vực kinh tế này.
1.1.2.2. Đối với sự phát triển của hàng hoá sức lao động
Ngoài tác động tạo việc làm cho người lao động FDI còn đóng góp tích cực vào việc
nâng cao chất lượng lao động và phát triển nhân lực ở nước tiếp nhận đầu tư. FDI làm thay
đổi cơ bản năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua hoạt động đào tạo
và quá trình làm việc của lao động.
1.1.2.3. Đối với sự phát triển của thị trƣờng lao động

5
Bên cạnh những tác động tích cực trong việc giải quyết việc làm cho người lao động
cũng như sự phát triển nguồn nhân lực, thông qua các hoạt động của mình, đầu tư FDI còn
góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động.
1.1.2.4. Đối với chuyển giao công nghệ
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được
phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản
lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp
một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã
tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn.
1.1.3. Tác động hai mặt của FDI
1.1.3.1. Tác động tích cực
- Bổ sung vốn cho quá trình công nghiệp hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng suất các thành tố
- Tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực, tạo thêm việc làm
- Tạo ra khả năng mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu

- Liên kết các ngành công nghiệp
1.1.3.2. Tác động tiêu cực
- Gây ra những hậu quả xấu đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên
- Tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn
đến suy giảm sản xuất của các doanh nghiệp trong nước.
- Phát sinh các xung đột trong quan hệ chủ - thợ gây ảnh hưởng đến môi trường lao động
trong doanh nghiệp.
- Xuất hiện hiện tượng chuyển giá giữa các chi nhánh trong MNC.
- Làm phát sinh tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và chảy máu chất
xám từ khu vực kinh tế trong nước sang khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Nước tiếp nhận đầu tư trở thành “bãi rác kỹ thuật” do phải đón nhận công nghệ lạc hậu đã bị
thải hồi từ các nước đầu tư phát triển.
1.2. Nguyên nhân chủ quan và khách quan của sự tồn tại những mặt trái của FDI ở
Trung Quốc
1.2.1. Nguyên nhân chủ quan
- Nền kinh tế khép kín, trì trệ, sa sút trên mọi lĩnh vực.
Ngay khi thành lập nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chính phủ Trung Quốc đã
thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khép kín. Việc thực hiện nền kinh tế hiện
vật, xóa bỏ mối quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hóa, dẫn đến kết quả là trong những năm
1959 – 1962 đời sống người dân bị hạ thấp trầm trọng và có tới 31 triệu người chết đói.[16]
Những chính sách thực hiện thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bế quan tỏa cảng
đã khiến cho nền kinh tế của Trung Quốc bị tụt hậu so với các nước phát triển như Hoa Kỳ,
Nhật Bản mà ngay cả với những nền kinh tế cận kề như Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc
lục địa cũng không thể theo kịp, cùng với đó là những lạc hậu về khoa học kỹ thuật và công
nghệ.
- Các điều kiện của một nền kinh tế.
Trung Quốc được biết đến là một quốc gia có diện tích đứng thứ 4 trên thế giới, giáp
với 14 quốc gia. Dân số Trung Quốc từ lâu đã luôn đứng số 1 thế giới, được biết đến với
nguồn lao động dồi dào, giá lao động rẻ và là thị trường tiềm năng nhưng một vấn đề được đặt
ra là việc làm với nguồn lao động khổng lồ đang trong độ tuổi lao động. Tài nguyên thiên

nhiên là một trong những điểm mạnh của Trung Quốc trong quá trình thu hút FDI, như: thủy
điện, than, quặng, dầu mỏ, khí đốt. Tuy nhiên tài nguyên chưa được khai thác thì chỉ là tiềm
năng cho phát triển.
1.2.2. Nguyên nhân khách quan

6
Quá trình tiếp nhận FDI có những tác động tích cực nhưng đi kèm theo đó là những gì
mà nguồn vốn này chưa làm được và còn để lại những tác động tiêu cực cho nền kinh tế.
Thực tế tại các quốc gia đang phát triển đã minh chứng điều này, qua đó nói lên rằng tác động
tiêu cực trong quá trình thu hút FDI là khó tránh và việc xác định chính xác các tác động tiêu
cực đó cùng với việc tìm ra giải pháp khắc phục là rất cần thiết.
Tuy nhiên FDI vào Trung Quốc cũng đặt ra cho quốc gia này một số vấn đề khó khăn.
Vào đầu thế kỷ 20, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư chủ yếu tham gia phát triển các ngành
sản xuất hàng thay thế nhập khẩu như: thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, in ấn và xuất bản, vật
liệu xây dựng, hóa học và nhựa. Nguồn vốn FDI chảy vào các khu đô thị, thành phố lớn quá
nhiều và quá nhanh làm tăng mạnh chênh lệch phát triển giữa các khu kinh tế. Việc phát triển
nhanh khu công nghiệp và tốc độ đô thị hóa nhanh do quá trình tiếp nhận nguồn vốn FDI dẫn
đến một số vấn đề như quá tải dân số, tội phạm và phá hỏng các dịch vụ công, ngoài ra dẫn
đến sự xuất hiện của các khu nhà ổ chuột của người dân nghèo đô thị, sự mất ổn định xã hội
và các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều.
Chất lượng môi trường cũng bị suy giảm nghiêm trọng. Ô nhiễm nguồn nước cũng hết
sức trầm trọng, chất thải hữu cơ trong nước sông hồ tăng lên.
Như vậy, FDI vào Trung Quốc đã phần nào làm tăng gánh nặng và đe dọa phá hoại
môi trường, việc phá hủy các vùng đất để xây dựng các đặc khu kinh tế với quy mô lớn không
chỉ gây ảnh hưởng đến nền nông nghiệp mà còn có những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với
môi trường và hệ sinh thái như gây mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường do rác thải,
khí bụi của các nhà máy, khu công nghiệp.
Những phân tích trên cho thấy hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu
thu hút FDI đều coi trong mặt được, mặt tích cực của FDI và sao nhãng mặt trái của FDI.
Trung Quốc cũng không là một trường hợp ngoại lệ.

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH THU HÚT FDI VÀ MẶT TRÁI CỦA
FDI Ở TRUNG QUỐC
2.1. Thực trạng quá trình thu hút FDI vào Trung Quốc
2.1.1. Khái quát chung về qúa trình thu hút FDI vào Trung Quốc
Năm 1979 đánh dấu việc Trung Quốc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Kể từ đó đến nay, tình hình thu hút FDI tại Trung Quốc đã có những biến chuyển mạnh mẽ.
Để làm được điều này chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số chính sách cơ bản để thu hút
FDI, đó là:
Thứ nhất: Chính sách phát triển ngành sản xuất: Trong từng giai đoạn, Chính Phủ Trung
Quốc ban hành những quy định hướng dẫn đầu tư đối với thương nhân nước ngoài và danh
mục hướng dẫn về ngành sản xuất để thu hút FDI.
Thứ hai: Chính sách phát triển vùng lãnh thổ: Chính phủ Trung Quốc chủ yếu thông qua
các biện pháp như thành lập khu kinh tế đặc biệt, khu phát triển khoa học kỹ thuật và mở cửa
các thành phố ven biển, tạo điều kiện thuận lợi và tập trung thu hút FDI vào đó.
Thứ ba: Chính sách chi viện về tài chính đối với các xí nghiệp đầu tư nước ngoài.
- Xí nghiệp đầu tư tại Trung Quốc có nhu cầu về vốn căn cứ theo quy định của pháp
luật được vay vốn của các ngân hàng tại Trung Quốc. Thời hạn, lãi suất và phí vay về
cơ bản áp dụng như các xí nghiệp của Trung Quốc
- Xí nghiệp nước ngoài khi muốn vay vốn tại Trung Quốc được các ngân hàng thương
mại của Trung Quốc bảo lãnh. Các khoản tiền vốn ngoại tệ của các đơn vị này có thể
dùng để thế chấp vay vốn.

7
- Cho phép xí nghiệp nước ngoài đầu tư dùng tài sản của họ ở hải ngoại để thế chấp vay
vốn tại các chi nhánh ngân hàng Trung Quốc ở nước ngoài.
- Các xí nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc nếu có đủ tiêu chuẩn được xin phép phát
hành cổ phiếu.
- Căn cứ theo nguyên tắc chủ động và thoả đáng, Chính phủ Trung Quốc cung cấp sự
đảm bảo về rủi ro chính trị, bảo hiểm về thực hiện hợp đồng, bảo hiểm về bảo lãnh đối
với những hạng mục đầu tư trọng điểm trong các lĩnh vực năng lượng , giao thông mà

chính phủ khuyến khích đầu tư.
Thứ tư: Ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Trung Quốc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài
như: như Luật xí nghiệp chung vốn kinh doanh giữa Trung Quốc với nước ngoài của
nươc Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Điều lệ chi tiết thi hành Luật Xí nghiệp chung
vốn kinh doanh giữa Trung Quốc với nước ngoài: Luật xí nghiệp do nước ngoài đầu
tư, các quy định và ưu đãi về thuế, ưu đãi về vay vốn đầu tư, về quyền sử dụng đất….
Từ những chính sách trên đã giúp cho Trung Quốc từng bước thực hiện thu hút nguồn vốn
FDI được nhiều hơn. Có thể tóm tắt quá trình thu hút FDI tại Trung Quốc thành bốn giai
đoạn:
- Giai đoạn thăm dò (1979 - 1985)
Do Trung Quốc có một thời gian dài đóng cửa bài ngoại nên FDI tại Trung Quốc trong
giai đoạn đầu này chỉ mang tính thăm dò mức độ chậm chạp, quy mô không lớn. Chủ yếu là
các dự án đầu tư vào vùng duyên hải của các nhà tư bản vừa và nhỏ ở Hồng Kông, Ma Cao.
Các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào công trình nhà hàng, khách sạn thu lợi tương đối cao. Hầu
hết các hạng mục quy mô nhỏ, kỹ thuật thấp, kỳ hạn quay vòng vốn ngắn.
- Giai đoạn phát triển ổn định (1986 - 1991)
Đầu năm 1986 Trung Quốc có sự điều chỉnh. Chiến lược thu hút FDI được cựu Bí thư
Đảng cộng sản Trung Hoa Triệu Tử Dương gọi “Lưỡng đầu tại ngoại” tức là dựa vào
bên ngoài cả về đầu vào lẫn thị trường đầu ra. Với chiến lược này, Trung Quốc quyết
định lấy mục tiêu kinh tế loại hình hướng ra bên ngoài là kết hợp công thương, lấy
công nghiệp xây dựng làm chủ, lấy trọng điểm từ việc trải ra kinh doanh chuyển
hướng cơ bản sang nắm sản xuất, nâng cao trình độ để đạt hiệu quả kinh tế.
Bảng 2.1: Nguồn vốn FDI vào Trung Quốc giai đoạn 1986 – 1991

Năm


1986


1987

1988

1989

1991

Số vốn


1,87

2,31

3,19

3,39

4,4
(Đơn vị: tỷ USD)
Nguồn: Bộ Thương mại - Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc
- Giai đoạn phát triển mạnh (1992 - 2001)

8
Đây là giai đoạn bùng nổ vốn FDI vào Trung Quốc do Chính phủ xác nhận nền kinh tế
Trung Quốc là nền kinh tế thị trường, cùng với quãng thời gian hơn 10 năm mở cửa đã
tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Nhà đầu tư không còn chỉ bao gồm Hoa Kiều hay các
TNCs nhỏ mà còn có sự góp mặt của các tập đoàn tư bản lớn của người Hoa và TNCs
lớn từ Châu Âu, Châu Mỹ.

Bảng 2.2: Nguồn vốn FDI vào Trung Quốc giai đoạn 1991- 2001
(Đơn vị: tỷ USD)

Năm

1992
1993
1995
1996
1997
1999
2000
2001

Số vốn


10

27,5

37,5

41,72

45,27

40,4

42,1


48,8
Nguồn: Bộ Thương mại - Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc
- Giai đoạn điều chỉnh (từ năm 2002 đến nay):
Năm 2001, Trung Quốc gia nhập WTO, đây là giai đoạn mở cửa toàn diện từ
Đông sang Tây, thực hiện đầu tư đa lĩnh vực và đa ngành nghề. Trong giai đoạn này,
một dấu mốc quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn FDI nói riêng và nền kinh tế
của Trung Quốc nói chung, đó là việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO vào
tháng 11-2001. Việc này đã tạo ra môi trường cởi mở hơn giúp Trung Quốc thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài vào nhiều hơn thông qua việc mở cửa một số lĩnh vực mới
mà trước kia còn hạn chế như các ngành dịch vụ, ngân hàng. Thực hiện lộ trình cam
kết cắt giảm thuế quan, mở cửa thị trường và tăng mức nhập khẩu một số mặt hàng,
không trợ giá nông nghiệp. Đặc biệt chuyển từ mở cửa đơn phương sang đa phương,
từ việc thực hiện các chính sách theo chủ trương của chính mình sang hoạch định theo
yêu cầu của các đối tác nước ngoài đã làm cho môi trường đầu tư của Trung Quốc trở
nên minh bạch và thông thoáng hơn.

Biểu đồ 2.1: FDI vào Trung Quốc năm 2010

Nguồn: Bộ Thương mại – Trung Quốc
2.1.2. Nhận xét và đánh giá
Với những biện pháp và chính sách mà Trung Quốc đã thực hiện để đạt được những
kết quả tốt về nguồn vốn FDI, Trung Quốc đã nâng cao niềm tin đối với các nhà đầu tư, góp
phần xóa đi những tàn dư của nền kinh tế lạc hậu và đạt được mục tiêu tăng trưởng kình tế.

9
Bộ mặt kinh tế - xã hội Trung Quốc đã thay đổi với tốc độ thần kỳ, từ một đất nước với nền
kinh tế trì trệ đã trở thành một cường quốc kinh tế lớn mạnh và trưởng thành.
Biểu đồ 2.3: Dòng vốn FDI vào ngành công nghiệp của
Trung Quốc giai đoạn 2002 - 2008




Nguồn: Trung Quốc thống kê sách năm. NBS
2.2- Mặt trái của quá trình thu hút FDI vào Trung Quốc
2.2.1. FDI và môi trƣờng
- Ô nhiễm nguồn nước
Trong những thập kỷ vừa qua, Trung Quốc đã có những bước tăng trưởng kinh tế vượt
bậc, thế nhưng đi đôi với nó là môi trường của nước này đang phải đối mặt với một vấn đề
lớn chưa từng có. Là một nước sản xuất và tiêu thụ nhôm lớn nhất thế giới, cùng với tham
vọng trở thành một trong những quốc gia sản xuất xe hơi và máy bay lớn trên thế giới. Vấn đề
đặt ra ở đây chính là hệ sinh thái xung quanh những nơi có khu công nghiệp khai thác quặng
mỏ, đặc biệt là bôxit, ở nước này đã bị hủy hoại nghiêm trọng. Theo Chinanews, nhiệt độ
quanh khu vực quặng mỏ ở Thái Nguyên (Sơn Tây), Tịnh Tây (Quảng Tây) đã tăng cao một
cách bất thường kể từ khi những mỏ khai thác bôxit được dựng lên ở đây.
Nguồn nước xung quanh các khu vực này trở nên ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến sức khỏe và tính mạng của hàng triệu người dân. Từ năm 2004-2008, chính quyền tỉnh Hà
Nam đã đóng cửa hơn 100 mỏ khai thác bôxit có quy mô nhỏ trong toàn tỉnh, trong đó lớn
nhất là quyết định ngưng dự án khai thác bôxit để sản xuất nhôm trị giá 1,5 tỉ nhân dân tệ ở
huyện Nhữ An chỉ sau một năm đưa vào hoạt động do gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh
khu vực khá nặng nề.
- Ô nhiễm không khí

10
Mặt trái của FDI đối với môi trường không chỉ dừng lại ở tài nguyên thiên nhiên cạn
kiệt mà còn gây ô nhiễm bầu không khí nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế và chất
lượng cuộc sống của người dân. Ngay từ đầu thời kỳ thu hút FDI, Trung Quốc đã phải hứng
chịu những hậu quả lớn về môi trường, bắt đầu từ các thành phố công nghiệp như Bắc Kinh,
Thượng Hải, Quảng Châu, Thiên Tân, Nam Kinh…Các nhà máy, xí nghiệp hoạt động với
công suất lớn, đặc biệt là trong giai đoạn nhận đầu tư, thường nhận phải những công nghệ lạc

hậu, trong đó có nhiều máy móc thiết bị quá cũ hoặc đã hết khấu hao. Những thiết bị công
nghệ lạc hậu này không mang lại hiệu quả cao mà ngược lại còn gây ra tình trạng ô nhiễm
môi trường không khí, tiếng ồn.
- Ô nhiễm đất
Theo thống kê của Cơ quan bảo vệ môi trường Nhà nước Trung Quốc vào đầu năm
2010 thì Trung Quốc hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm và suy thoái đất trầm
trọng. Sự suy giảm chất lượng đất đã trở thành một trong những điều đáng lo ngại nhất trong
quá trình phát triển kinh tế quốc gia này. Các kim loại nặng được tích tụ trong đất, làm cứng
bề mặt đất, làm giảm khả năng sinh sôi của đất, cặn từ phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
được lưu lại trên các sản phẩm nông nghiệp gây ngộ độc cho người và gia súc. Tính đến thời
điểm này có khoảng 10 triệu ha đất canh tác tại Trung Quốc bị ô nhiễm. Nguyên nhân chính
gây ra hiện tượng này là việc ô nhiễm do quá trình công nghiệp hóa để phát triển kinh tế.
* Hậu quả:
- Gia tăng bệnh tật
Trong vòng vài năm qua, các con số thống kê đã chỉ ra: Trung Quốc đang là quốc gia
Châu Á phải đối diện với nhiều thách thức nhất liên quan đến dị tật bẩm sinh ở trẻ em. Tháng
2/2009, chuyên gia Jiang Fan đến từ Ủy ban Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình Trung Quốc đã
khiến nhiều người phải lo lắng khi tuyên bố số trẻ em bị dị tật bẩm sinh ở quốc gia này đã
"tăng với tốc độ đáng báo động".Ví dụ, tính đến năm 2007, tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ em đã
tăng tới 40% so với năm 2001, từ 104,9 trường hợp/10.000 ca sinh năm 2001 tăng lên 145,5
trường hợp vào cuối năm 2006. Theo tính toán, cứ 30 giây lại có một trẻ em Trung Quốc chào
đời bị dị tật bẩm sinh.
- Bất ổn xã hội
Trung Quốc có luật bảo vệ môi trường nghiêm khắc, nhưng việc thực hiện lại lỏng lẻo.
Nhiều vụ nhà máy thải chất độc hại ra môi trường, tác hại đến sức khỏe cư dân đã khiến dân
chúng bất bình và biểu tình phản đối.
Trong thời gian gần đây, tại Trung Quốc đã bùng lên nhiều vụ dân chúng biểu tình
phản đối các nhà máy thải chất độc hại ra môi trường, tác hại đến sức khoẻ cư dân trong khu
vực. Sự kiện mới nhất được báo giới quan tâm là hai vụ nhiễm độc tại Hồ Nam và Nội Mông
trong tháng 7 /2009.

* Hiệu quả chuyển giao công nghệ:
- Quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ
Trong giai đoạn ban đầu thực hiện cải cách mở cửa thu hút FDI, việc tiếp nhận công
nghệ chuyển giao về cơ bản đi theo con đường hình thành nên các doanh nghiệp hiện đại quy
mô lớn nhưng chưa chú trọng đến việc nâng cao năng lực sản xuất, thường là những loại hình
sử dụng nhiều lao động nhận được từ những chủ đầu tư nhỏ người Hoa Kiều ở Hồng Kông,
Ma Cao; phải từ năm 1997 chuyển giao công nghệ mới được thực hiện với việc nâng cao
năng lực sản xuất ở quy mô lớn hơn. Chính vì vậy mà khi nhận chuyển giao công nghệ ở giai
đoạn sau, công nghệ hiện đại vượt quá khả năng tiếp thu của nước chủ nhà, cùng với đó là
những hạn chế, yếu kém, lỏng lẻo, thiếu cơ chế giám sát của các cán bộ trong liên doanh hay
tại các cửa khẩu làm cho tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu trở nên vô cùng trầm trọng.
- Các nhà đầu tư nước ngoài khống chế kỹ thuật của doanh nghiệp liên doanh
Đối với việc thành lập các liên doanh, vai trò và quyền hạn của các bên đều đã được
quy định rõ và mang tính công bằng cao. Trong đó các đối tác nước ngoài cung cấp vốn, công

11
nghệ, kiến thức, sự tiếp cận với các thị trường quốc tế và công ăn việc làm. Còn phía đối tác
Trung Quốc thì góp vốn bằng khả năng tiếp cận với nguồn lao động rẻ, sự hiểu biết về pháp
luật địa phương và sự tiếp cận với thị trường nội địa. Song trên thực tế mô hình này không thể
đảm bảo sự công bằng về việc làm chủ kỹ thuật của phía doanh nghiệp Trung Quốc, mà phần
lớn vẫn phải phụ thuộc vào công nghệ của nước chủ nhà. Một ví do cụ thể về việc phụ thuộc
vào công nghệ nước ngoài là công ty đồ uống Wahaha, công ty này đã liên doanh với công ty
Dannone – một hang thực phẩm khổng lồ của Pháp với việc để Dannone sở hữu 51% cổ phần.
2.2.2. FDI và kinh tế
* Chênh lệch phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng miền trong nước tăng
Công cuộc cải cách kinh tế trong 3 thập niên qua ở Trung Quốc đã đưa hàng triệu
người thoát khỏi tình cảnh đói nghèo cùng cực, nhưng đồng thời cũng làm sự phân hóa giàu
nghèo trở nên nặng nề hơn. Tại kỳ họp lần thứ sáu Uỷ ban Thường vụ, Hội nghị Chính trị
Hiệp thương Trung Quốc khoá 11 diễn ra vào năm 2009, đã chỉ ra: “Mấy năm gần đây, do cục
diện phân phối thu nhập quốc dân mất cân đối đã dẫn tới mâu thuẫn xã hội gay gắt, phân phối

thu nhập không hợp lý, tiêu dùng của cư dân không ngừng giảm. Tỷ trọng tiêu dùng chiếm
62% GDP trong những năm 1980 đã giảm xuống còn 48,6% vào năm 2008, chênh lệch giàu
nghèo từ 4,5: 1 hồi mới bắt đầu cải cách nay đã mở rộng thành 12,66:1. Chênh lệch về phân
phối thể hiện ở khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, chênh lệch
giữa các vùng, chênh lệch giữa các ngành nghề không ngừng mở rộng.
* Tác động tiêu cực đến vấn đề việc làm:
Trung Quốc hiện nay là quốc gia đông dân nhất thế giới với hơn 1 tỷ 300 triệu người,
chiếm 21,3% dân số thế giới. Trung Quốc cũng đứng đầu thế giới về số lượng nhân công.
Năm 1999, số dân ở độ tuổi từ 15 – 64 là 844 triệu người, bằng 22,4% số người cùng độ tuổi
này trên thế giới. Nguồn lực lao động (muốn nói đến những người đang làm việc và những
người đang phục vụ trong quân đội) là 751 triệu người, tức là chiếm 25,9% nguồn lực lao
động. Trung Quốc có nguồn lực lao động phong phú bậc nhất thế giới và đang phải đối mặt
với nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng, mặc dù nguồn vốn FDI thu hút được đã khiến tốc độ
tăng trưởng việc làm trong các doanh nghiệp này tương đối cao nhưng thực tế tỷ lệ người lao
động làm việc trong mô hình kinh tế này vẫn chỉ là phần nhỏ trong số lượng lao động khổng
lồ của Trung Quốc
* Ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp dân tộc
- Các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài về
thị trường.
- Doanh nghiệp nội địa phải cạnh tranh với nhãn mác thương hiệu nước ngoài
* Dòng FDI vào ồ ạt ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tê
FDI vào Trung Quốc gia tăng nhanh chóng đặc biệt từ giai đoạn 1992 – 2001. Sau
chuyến đi thăm miền Nam của ông Đặng Tiểu Bình (năm 1992), FDI vào Trung Quốc tăng
cao chưa từng thấy. Số lượng đầu tư của thương gia nước ngoài ký kết trên cả nước là 48.764
hạng mục, tăng 3,75 lần so với năm 1991. Nó vượt quá cả tổng số hạng mục thời kỳ 1979 –
1991 là 42.027 hạng mục. Kim ngạch ký kết theo hiệp định là 11,44 tỷ USD, tăng 149,95% so
với năm trước [18]. Do dòng vốn đổ vào ồ ạt mà không có biện pháp sử dụng hiệu quả, đúng
mức nên đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế.
Ngoài ra nó còn là nhân tố thúc đẩy lạm phát tăng cao, năm 1992 kinh tế tăng trưởng
12%, năm 1993 tăng 13,4%. Tính trung bình cả giai đoạn từ giữa 1978 – 2003, nhịp độ tăng

trưởng bình quân hàng năm là 9,3%, cao hơn nhiều so với chỉ tiêu trung bình của thế giới.
Ảnh hưởng lớn nhất đến nền kinh tế là tỷ lệ lạm phát tăng cao từ 5,4% năm 1992 tăng tới
13,2% năm 1993.
2.2.3. FDI và chính trị
* Nạn thất nghiệp

12
Chính phủ Trung Quốc thừa nhận đang phải đối phó với nạn thất nghiệp rất
nghiêm trọng tác động đến 22% dân chúng ở tuổi làm việc. Theo thống kê chính thức chỉ có
780 triệu người Trung Quốc có việc làm. Điều này đặt quốc gia có có số nhân khẩu khổng lồ
này trước một tương lai trước mắt đầy bất trắc. Hằng năm ở các thành phố và thị trấn Trung
Quốc, số lao động mới trưởng thành cộng với số thất nghiệp lên đến con số 24 triệu người,
bằng dân số của một nước trung bình, nhưng mỗi năm Trung Quốc chỉ tạo ra được 9 triệu việc
làm mới. Tình trạng đô thị hoá ngày càng nhanh kéo theo số nông dân không có việc làm
ngày càng lớn. Năm 2010 có khoảng 100 triệu lao động nông dân thất nghiệp và cần có nghề
mới ở thành phố.
* Nạn tham nhũng
Mặc dù,Trung Quốc đang trỗi dậy với vai trò là một cường quốc mới nổi, nhưng hình
ảnh và danh tiếng của đất nước này trên trường quốc tế vẫn bị hoen ố bởi tệ nạn tham nhũng,
tiếp đến là hàng giả và kém chất lượng.
Trên những phương tiện truyền thông Trung Quốc và quốc tế, tham nhũng đã bị “chỉ
trích một cách rất gay gắt”. Người Trung Quốc hiện giờ đã phải coi tham nhũng là “nỗi nhục”
lớn nhất, bất chấp mọi nỗ lực ngăn chặn vấn nạn này, nhưng các vụ scandal tham nhũng vẫn
ngày càng gia tăng nghiêm trọng tại đất nước này.
Tham nhũng đã len lỏi vào nhiều ngóc ngách đến những vị trí tưởng chừng là những bức
tường thành kiên cố trong nội bộ chính phủ Trung Quốc, tạo thành nỗi nhức nhối của quốc gia
có nền kinh tế phát triển này. Trong hơn 30 năm qua, không ít cán bộ tìm cách làm giàu cho
bản thân và gia đình bằng những việc làm bất chính. Những quan tham này thường xuyên lợi
dụng chức vụ của mình cho những mục tiêu cá nhân.
* Hạn chế về nguồn tài nguyên, năng lượng và môi trường

Nguồn tài nguyên tính theo đầu người của Trung Quốc tương đối thấp. Về dầu mỏ
Trung Quốc phải tìm nguồn khắp nơi trên thế giới, không những với Nga, Trung Cận đông
mà còn sang cả Brazil xa xôi để ký hợp đồng đổi công trình lấy dầu mỏ. Lượng tiêu hao các
loại vật tư cơ bản của Trung Quốc cũng rất lớn.
Năm 2003, lượng tiêu thụ gang thép, ximăng của Trung Quốc chiếm 1/3 toàn cầu.
Ngoài ra, còn vấn đề môi trường, chất ô nhiễm thải ra vượt xa năng lực làm sạch môi trường,
tình trạng môi trường sinh thái bị phá hoại ở một số khu vực đang rất nghiêm trọng
Trong khi cả thế giới đang hàng ngày đối mặt với vấn đề bảo vệ môi trường như khí
thải, hiệu ứng nhà kính và nguy cơ cạn kiệt nguồn năng lượng, thì việc cố gắng ứng dụng
nguồn năng lượng tái sinh là xu hướng tất yếu.
2.3. Nguyên nhân tồn tại
- Thiếu nghiên cứu chiến lược trong sử dụng FDI
Việc thiếu nghiên cứu chiến lược ban đầu đã để lại cho quá trình thu hút FDI của
Trung Quốc những lỗ hổng rất lớn. Thời kỳ đầu cải cách, Chính phủ chưa có những chiến
lược cụ thể, mang tính lâu dài mà chỉ chạy theo những mục đích trước mắt như thu hút được
số lượng vốn FDI khổng lồ, đạt tỷ lệ tăng trưởng cao, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng mà quên
đi những lợi ích lâu dài cũng như những vấn đề phát sinh ẩn sâu trong nguồn vốn FDI dồi dào
đó. Những chiến lược nghiên cứu để sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI có thể là chiến lược
xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật công nghệ nguồn của dân tộc sao cho phù hợp với việc tiếp
nhận đầu tư. Hay là những nghiên cứu về tác động của nguồn vốn FDI với kinh tế - xã hội.
- Lệch lạc về kết cấu đầu tư

13
Kết cấu đầu tư ban đầu chưa có sự nghiên cứu kỹ càng, thống nhất giữa các vùng miền
dẫn đến hậu quả là sự phát triển kinh tế - xã hội hết sức lệch lạc giữa các khu vực trong cùng
một đất nước. Chiến lược thu hút nguồn vốn chỉ xuất phát ban đầu từ các điều kiện thuận lợi
thuần túy của một số khu vực địa phương mà không có sự thống nhất, chưa đặt trong mối
quan hệ phát triển kinh tế - xã hội của cả quốc gia. Hơn nữa thu hút đầu tư nước ngoài chưa
tận dụng được tất cả các điều kiện của các vùng, chưa có các nghiên cứu chuyên sâu để phát
triển các ngành nghề phù hợp với điều kiện thuận lợi của các địa phương như miền Trung với

nguồn tài nguyên dồi dào, dân số đông đúc, diện tích đất đai dành cho công nghiệp gấp 1,4
lần so với miền Đông, là đầu mối giao thông nối liền miền Đông Tây Nam Bắc của Trung
Quốc.
- Chưa coi trọng yếu tố thị trường
Yếu tố thị trường chưa được các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi trọng trong việc hoạch
định chính sách xây dựng các ngành sản xuất có nguồn vốn FDI. Thể hiện ở việc chưa biết tận
dụng thời cơ để phát triển và chưa có cái nhìn chiến lược. Một số ngành cần phát triển nhanh
thì lại trì trệ do thiếu vốn trong thời gian dài.
2.3.2. Nguyên nhân khách quan
- Xuất phát từ mục tiêu hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư
Chủ đầu tư luôn đặt lợi nhuận sản xuất lên hàng đầu bất chấp tính khả thi và hậu quả
như thế nào đôi với kinh tế - xã hội cũng như môi trường. Những mục tiêu mà các ông chủ
nước ngoài đặt ra đối với người lao động rất khắt khe, đặc biệt là những người lao động bản
địa khi có được công việc lương cao tại các khu công nghiệp thường mang tâm lý cam chịu,
đó thường là các định mức lao động quá cao như ngày làm việc quá 8 tiếng, làm thêm bất cứ
khi nào có nhu cầu, hạn chế tối đa số ngày nghỉ phép. Những định mức này là nguyên nhân
của chất lượng đời sống công nhân yếu kém, của thất nghiệp và đình công đang diễn ra ngày
càng nhiều tại các khu công nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc.
- Các dự án FDI tập trung quá nhiều vào khu vực đô thị
Đây là đặc điểm cơ bản của vốn FDI phân biệt với nguồn vốn nước ngoài khác như
ODA, các dự án FDI thường tìm đến các khu vực phát triển, đảm bảo cơ sở hạ tầng để phát
triển và có thị trường tiềm năng tiêu thụ. Khu vực nào càng đảm bảo các điều kiện thuận lợi
càng nhận được nhiều vốn đầu tư, chính vì vậy mà nguồn vốn FDI là nguyên nhân quan trọng
gây ra chênh lệch vùng miền giữa Đông – Tây, ven biển và nội địa của Trung Quốc.
2.3.3. Một số nhận xét, đánh giá
Mọi vấn đề đều có hai mặt, vì vậy, để giải quyết và hạn chế được tối đa mặt trái của
nguồn vốn FDI thì việc nắm bắt được các nguyên nhân là rất quan trọng. Trong những nguyên
nhân đã nêu ra đối với những tồn tại của việc sử dụng vốn FDI tại Trung Quốc thì có thể nói
rằng nhóm nguyên nhân chủ quan về phía Trung Quốc là nguyên nhân quan trọng hơn. Vì bản
thân Nhà nước Trung Quốc là người tiếp cận, đón nhận và sử dụng những đồng vốn FDI này

thông qua những chính sách mình đặt ra, và cũng họ là người hưởng lợi hay chịu tác động
trực tiếp của vốn FDI. Yếu tố nước ngoài cũng là nguyên nhân quan trọng cần phải xem xét
để giải quyết vấn đề nhưng nhìn nhận yếu tố nội tại và đưa ra biện pháp giải quyết luôn dễ
dàng hơn việc can thiệp vào yếu tố bên ngoài. Với quan điểm như thế Trung Quốc đã có
những biện pháp giải quyết phù hợp để thành công hơn với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
vạch ra con đường phát triển kinh tế xã hội bền vững hơn.

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA TRUNG QUỐC TRONG
KHẮC PHỤC MẶT TRÁI CỦA FDI VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

3.1. Quan điểm phát triển bền vững của Trung Quốc

14
Để tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển cao và bền vững trong những năm sau, từ đầu
thập kỷ 90, Trung Quốc liên tục ban hành và điều chỉnh nhiều chính sách, biện pháp quan
trọng nhằm cải thiện môi trường đầu tư cho phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế thế
giới cũng như nhu cầu đầu tư quốc tế. Những chính sách, biện pháp điều chỉnh chính là:
- Trọng tâm của các yêu cầu ĐTNN được chuyển từ số lượng sang chất lượng
- Từng bước xoá bỏ các chính sách ưu tiên đối với FDI thông qua tái điều chỉnh biểu
thuế quan cho phù hợp với các xu hướng mới của quốc tế
- Thúc đẩy cải cách tài chính và cải cách hệ thống ngoại thương, giảm tối thiểu những
hạn chế cho hoạt động của các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài
- Khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư vào các khu vực miền Trung và miền Tây
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường bảo vệ quyền lợi của các nhà kinh
doanh nước ngoài qua tăng cường các quy định pháp luật.
3.2. Giải pháp khắc phục mặt trái trong thu hút FDI của Trung Quốc
Những mặt trái của FDI ảnh hưởng đến nền kinh tế Trung Quốc đã tồn tại trong một
thời gian khá dài và là nguyên nhân của sự sụt giảm kinh tế nói chung và hiệu quả thu hút vốn
FDI nói riêng. Để khắc phục những hiệu quả này, các cấp lãnh đạo của Trung Quốc đã thực

hiện rất nhiều biện pháp và đem lại những hiệu quả nhất định, trong đó phải kể đến các biện
pháp sau:
* Giảm thiểu tác hại của các doanh nghiệp FDI đối với môi trường
- Chính phủ coi trọng công tác bảo vê
̣
môi trươ
̀
ng
- Nạn ô nhiê
̃
m môi trươ
̀
ng đươ
̣
c kiê
̉
m soát
- Công tác bảo vê
̣
và xây dư
̣
ng môi trươ
̀
ng sinh thái đươ
̣
c tăng cươ
̀
ng
- Tiến triê
̉

n xây dư
̣
ng pháp chế Luâ
̣
t môi trươ
̀
ng
- Tăng thêm vốn đầu tư vào bảo vê
̣
môi trươ
̀
ng
- Nâng cao ý thư
́
c môi trươ
̀
ng trong công dân
* Giải quyết vấn đề việc làm, nạn thất nghiệp
* Hạn chế sự gia tăng thái quá của đầu tư
3.3. Bài học cho Việt Nam về việc giải quyết các mặt trái của FDI
3.3.1. Thực trạng thu hút FDI tại Việt Nam những năm qua
Quá trình thu hút FDI vào Việt Nam gắn liền với mở cửa nền kinh tế, thực hiện kinh tế thị
trường, thương mại tự do bắt đầu từ cuối những năm 80, cụ thể là năm 1988. Có thể nói quá
trình thực hiện thu hút FDI của nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể và được phản
ánh qua các giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1988 – 1990
Đây được coi là giai đoạn khởi động của dòng FDI. Trong giai đoạn này Việt Nam
mới thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa kinh tế được hai năm và ban hành luật đầu tư
nước ngoài được 1 năm. Vì mới thực hiện nên trong vòng ba năm 1988 – 1990, tổng vốn đăng
ký mới đạt 1.582 triệu USD, còn vốn thực hiện thì không đáng kể.

* Giai đoạn 1991 – 1996
Đây là thời kỳ tăng trưởng nhanh và góp phần nhiều nhất vào việc thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong giai đoạn này tổng vốn FDI đăng ký đạt

15
24.884 triệu USD và tổng vốn FDI thực hiện đạt 10.076 triệu USD, bằng 40,5% vốn đăng ký
trên cả nước.
* Giai đoạn 1997 – 2000
Đây là thời kỳ suy thoái của dòng FDI vào Việt Nam. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ
năm 1997 và giảm mạnh trong những năm 1999 và 2000. Năm 1999, vốn đăng ký giảm mạnh
nhất, chỉ đạt 1.568 triệu USD, chỉ bằng 40,2% lượng vốn đăng ký của năm 1998, và năm
2000 đạt 1.937 triệu USD.
* Giai đoạn 2001 đến nay
Bắt đầu từ năm 2000, nhiều nghị định, nghị quyết, chính sách, luật pháp của Chính
phủ đã được ban hành và sửa đổi nhằm vực dậy môi trường đầu tư đang xuống cấp. Cùng với
đó, sự hồi phục kinh tế của Châu Á sau khủng hoảng cũng có tác động tích cực đến sự phục
hồi dòng FDI vào Việt Nam. Năm 2001, vốn FDI đăng ký đạt 2,54 tỷ USD, năm 2002 đạt 1,4
tỷ USD và năm 2003 đạt 2,65 tỷ USD. Năm 2005, tổng số vốn FDI đăng ký đạt mức 5,8 tỷ
USD, trong đó vốn thực hiện đạt 3,5 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2004. Con số FDI thu hút
được tăng lên nhanh chóng về mặt số lượng, năm 2006 số vốn FDI thu hút được đạt 10,2 tỷ
USD; năm 2007 là 20,3 tỷ USD. Đặc biệt năm 2008 đạt kỷ lục về số vốn đăng ký lên tới 64 tỷ
USD, với 11,5 tỷ vốn thực hiện [33]. Năm 2009, Việt Nam thu hút FDI đạt 21,48 tỷ USD, cả
năm 2010, vốn đăng ký đạt 18,6 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD.
3.3.2. Những mặt trái còn tồn tại
Quá trình thu hút FDI của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là
sau dấu mốc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO tháng 1 – 2007. Nhưng bên
cạnh đó nổi cộm một số vấn đề tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế và xã
hội.
* Ô nhiễm môi trường
* Vấn đề lao động và quyền lợi người lao động

* Cơ cấu đầu tư bất hợp lý
* Chuyển giao công nghệ chưa hiệu quả:

3.3.3. Bài học và gợi ý cho Việt Nam
Nhận biết được những vấn đề còn tồn tại và học tập được kinh nghiệm của Trung
Quốc trong quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI, chúng ta có thể vận dụng vào thực tế ở
nước ta để khắc phục những mặt trái và nâng cao hiệu quả nguồn vốn này. Sau đây là một số
gợi ý và bài học cho Việt Nam:
Thứ nhất: Cải tiến thủ tục hành chính và vai trò của Nhà nước trong quản lý nguồn vốn FDI
Thứ hai: Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư, tạo hành lang pháp lý nhất
quán, đồng bộ
Thứ ba: Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch đối với nguồn vốn FDI
Thứ tư: Nâng cấp và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ phụ kèm cho đầu tư,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ năm: Nâng cao khả năng công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực
KẾT LUẬN
Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp là một điều kiện rất quan trọng trong việc phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia đang phát triển. Có thể nói rằng các quốc gia này luôn mong muốn
thu hút được nhiều nguồn vốn FDI vì đây là cách thức thu lợi nhuận rất hiệu quả cho cả nước
đầu tư và nước nhận đầu tư, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Trải qua hơn 30 năm phát triển kinh tế, Trung Quốc là quốc gia điển hình trên thế giới
đã thu hút được nhiều nguồn vốn FDI và tận dụng nguồn vốn này rất hiệu quả nhờ vào các
chính sách phù hợp đã tạo ra sự thay đổi to lớn cho nền kinh tế quốc gia. Từ một nền kinh tế
trì trệ, lạc hậu, kém hiệu quả, ngày nay kinh tế Trung Quốc đã vươn lên với những con số ấn

16
tượng, khẳng định vị thế của mình khiến cho toàn thế giới phải ngưỡng mộ. Để có được điều
này phải kể đến sự đóng góp to lớn của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Có thể nói, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi diện mạo kinh tế
Trung Quốc. Đó là sự xuất hiện của các thành phố công nghiệp nổi tiếng, các đặc khu kinh tế

đóng góp rất lớn vào sản lượng xuất khẩu đem lại sự thống trị của hàng hóa Trung Quốc trên
khắp thế giới, cùng với sự phát triển về chất lượng đời sống.
Nhưng bên cạnh đó, chúng ta không thể phủ nhận những mặt trái của quá trình thu hút
nguồn vốn này đã và đang tồn tại trong nền kinh tế Trung Quốc. Đó là những vấn đề gây nhức
nhối dư luận như ô nhiễm môi trường, tham nhũng, nạn thất nghiệp, công nghệ lạc hậu…Để
khắc phục những hậu quả trên Nhà nước Trung Quốc đã, đang nỗ lực thực hiện rất nhiều biện
pháp để giải quyết, khắc phục những mặt trái của FDI và đạt được một số thành công ban đầu,
nhưng thực tế vẫn cần nhiều hơn nữa các biện pháp thật sự hiệu quả để đảm bảo cho nền kinh
tế quốc gia phát triển ổn định và bền vững mà không bị nguồn vốn FDI chi phối quá nhiều.
Những nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc cùng với sự lớn mạnh
của dòng vốn FDI vào nước này cũng như mặt trái của nó là kinh nghiệm quý giá cho Việt
Nam. Việt Nam là nước láng giềng cũng có những đặc điểm kinh tế, xã hội gần giống với
Trung Quốc vì vậy việc học tập kinh nghiệm của họ để có những bước phát triển phù hợp. Từ
những bài học được rút ra từ kinh nghiệm của Trung Quốc nếu áp dụng đúng cách và kịp thời
sẽ giúp Việt Nam tránh được những tác động tiêu cực của nguồn vốn FDI và phát triển kinh tế
ổn định nhất có thể. Đây cũng là mục tiêu cơ bản của đề tài nghiên cứu này.

References
Tài liệu tiếng Việt
1. Lý Thiết Ánh (2002), Về cải cách mở cửa của Trung Quốc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Hội thảo quốc tế Pháp – Việt (2003): “Bối cảnh kinh tế mới, các dòng đầu tư nước ngoài
với việc phát triển thương mại và thị trường ở Châu Á và Việt Nam”, Do ĐH Thương Mại Hà
Nội cùng Đại học Pari và ĐH Thương Mại Pari tổ chức.
3. NXB Chính trị quốc gia (2006), Luật đầu tư, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. TS Nguyễn Kim Bảo (Chủ biên) (2004), Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung
Quốc (Giai đoạn 1992-2010),NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. TS Nguyễn Kim Bảo (2000), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc từ năm 1979 đến
nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. PGS Nguyễn Văn Hồng (2003), Trung Quốc cải cách mở cửa - Những bài học kinh
nghiệm, NXB Thế giới, Hà Nội.

7. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Phùng Xuân Nhạ (2009), “Nhìn lại vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh
phát triển mới của Việt Nam”, Kinh tế & chính trị thế giới, 2(154), Tr.70 – 77.
9. TS Phạm Thái Quốc (2001), Trung Quốc quá trình công nghiệp hóa trong 20 năm cuối thế
kỷ XX, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, Hà Nội.

17
10. TS Phạm Thái Quốc (2008), “Điều chỉnh chính sách thu hút FDI trong quá trình hội nhập
quốc tế ở Trung Quốc từ năm 1979 đến nay”, Kinh tế & chính trị thế giới, 7(147), Tr. 21 – 30.
11. Tề Quế Trân (2001), Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa, cải cách chế độ sở hữu, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. PGS.TS Trần Văn Tùng (Chủ biên) (2003), Chất lượng tăng trưởng nhìn từ Đông Á, NXB
Thế giới, Hà Nội
13. Ngân hàng Thế giới (2001), Trung Quốc 2020, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. PGS.TS Lê Văn Sang, TS Nguyễn Minh Hằng (2009), “Các đặc khu kinh tế của Trung
Quốc – Những gợi ý cho Việt Nam”, Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (253 + 254), Tr. 34
– 37.
15. PGS.TS Trần Văn Tùng (Chủ biên) (2003), Chất lượng tăng trưởng nhìn từ Đông Á, NXB
Thế giới, Hà Nội.
16. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2002), Chính sách phát triển kinh tế - Kinh
nghiệm và bài học của Trung Quốc (tập II, III), NXB Giao thông vận tải, Hà Nội.
17. Viện thông tin khoa học xã hội Hà Nội (2005), Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Vũ Quang Vinh (2001), Một số vấn đề cải cách mở cửa của Trung quốc và đổi mới ở Việt
Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
19. JunMa, Nguyễn Quốc Thắng, Hoàng Quốc Hùng (Dịch) (2002), Trung Quốc nhìn lại một
chặng đường phát triển, NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
Tài liệu tiếng Anh
20.The World Bank (2001), East Recovery and Beyond Asia, Washington DC, USA, 2000.
21. Friedrich Wu, FDI to China and Asean: has Asean been losing out? www.mti.gov.sg

22. K.Cheung, P.Lin (2004), Spillover effects of FDI on innovation in China; Evidence from
the provincial data.
23. FDI in crisis and recovery: lessons from the 1997-1998 Asean crisis;

24. Foreighn Direct Investment: ferformancce and attraction: the case of Thailan;

Trang Web
25. www.ciren.gov.vn
26. www.mofa.gov.vn
27. www.vcci.com.vn
28. www.vietnamchina.gov.vn
29. www.clst.sc.vn
30. www.cistc.gov.cn
31. English.mofcom.gov.cn

18
32. www.moi.gov.vn
33. www.saigonnews.vn
34. www.unctad.org
35. www.laocai.gov.vn

×