Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

VĂN HÓA SINH HOẠT CHỢ NỔI NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.66 KB, 18 trang )

*
*

*

ĐỀ TÀI: VĂN HÓA SINH HOẠT CHỢ NỔI NAM BỘ

NĂM 2020


MỤC LỤC
PHẦN I: TỔNG QUAN ......................................................................................... 3
1/ Lý do chọn đề tài: .......................................................................................... 3
2/ Mục đích nghiên cứu đề tài: ........................................................................... 3
3/ Đối tƣợng nghiên cứu: ................................................................................... 4
4/ Phƣơng pháp nghiên cứu:............................................................................... 4
PHẦN II: NỘI DUNG ........................................................................................... 4
1/ Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn: .................................................................... 4
1.1 Cơ sở lý luận: ........................................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm chợ: ...................................................................................... 4
1.1.2 Khái niệm chợ nổi: ................................................................................ 5
1.1.3 Khái niệm văn hóa và văn hóa sinh hoạt chợ nổi Nam Bộ: .................... 6
2/Sinh hoạt chợ nổi Nam Bộ dƣới góc nhìn văn hóa: ......................................... 6
2.1 Địa điểm họp chợ: .................................................................................... 6
2.2 Chủ thể tham gia: ..................................................................................... 8
2.3 Cách thức mua bán của chợ nổi: ............................................................... 9
2.4 Đời sống sinh hoạt của ngƣời dân: ..........................................................11
3/ So sánh chợ nổi Nam Bộ và chợ nổi Thái Lan: .............................................13
4/ Biện pháp bảo tồn văn hóa trong chợ nổi: .....................................................15
PHẦN III: KẾT LUẬN .........................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................17



2


PHẦN I: TỔNG QUAN
1/ Lý do chọn đề tài:

Nam Bộ là vùng đất giàu trầm tích văn hóa, đa dạng tộc ngƣời, tơn giáo, giàu
tiềm năng và có vị trí chiến lƣợc trọng yếu. Từ khi tích hợp về với Đại Việt, Nam
Bộ luôn là một bộ phận không thể tách rời với quốc gia, dân tộc Việt Nam. Sự đa
dạng, phong phú về văn hóa vùng đất Nam Bộ đã vẽ thêm màu sắc cho nền văn
hóa Việt Nam. Nam Bộ là nơi sinh sống của bốn tộc ngƣời : Ngƣời Việt, ngƣời
Khmer, Chăm và ngƣời Hoa, có sự khác biệt về tổ chức xã hội, ngơn ngữ, tín
ngƣỡng tơn giáo chính sự khác biệt đó làm nên tính đa dạng về văn hóa của một
nền văn hóa. Tuy nhiên trải qua hàng trăm năm cộng cƣ, cùng chia sẻ ngọt bùi
trong quá trình khai phá đã hình thành nên nét văn hóa chung của vùng mà khi
phân vùng văn hóa ở Việt Nam các tác giả đều nhất trí cho rằng có sự khác biệt
giữa văn hóa Nam Bộ với các vùng văn hóa khác ở Việt Nam. Khi nói tới vùng
Nam Bộ là nói tới vùng sơng nƣớc, những cộng đồng dân cƣ nơi đây đã biết khai
thác một cách có hiệu quả những yếu tố sơng nƣớc khơng chỉ làm nên nét văn hóa
riêng, mà cịn phát triển kinh tế xã hội. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng
bằng màu mỡ, chi chít sơng ngịi, kênh rạch, nơi đây thƣờng có “những con nƣớc
lớn tràn bờ, nƣớc ròng phơi bãi” và ghe thuyền sinh hoạt tấp nập ngày đêm. Chính
điều kiện nơi đây là cơ sở cho sự hình thành những nét văn hóa đặc thù của vùng
mà một trong số đó khơng thể khơng thể không nhắc đến chợ nổi. Chợ nổi là nét
đẹp riêng có của vùng Đồng bằng sơng Cửu Long. Chợ nổi khơng chỉ là hình thức
sinh hoạt kinh tế của ngƣời dân Đồng bằng sông Cửu Long mà tồn tại bên trong là
một nét văn hóa đặc sắc riêng biệt. Tuy nhiên cùng với nhịp sống hiện đại, chợ nổi
Nam Bộ đã thay đổi, khơng chỉ cịn là nơi giao thƣơng bn bán nữa mà cịn là nơi
tham quan du lịch. Điều này vừa là cơ hội giúp chợ nổi trở nên phát triển hơn về

mặt kinh tế, song cũng là nguy cơ chợ nổi mất đi vẻ đẹp văn hóa vốn có của nó,
những giá trị văn hóa nếu khơng đƣợc bảo tồn nó sẽ dần mất đi. Vì thế chủ đề này
đƣợc sinh ra với mong muốn đƣa con ngƣời về với vẻ đẹp văn hóa vốn có của chợ
nổi Nam Bộ, giúp con ngƣời có thể hiểu hơn và từ đó lƣu giữ, phát huy để nét văn
hóa này tồn tại trong mọi thời đại.
2/ Mục đích nghiên cứu đề tài:

Đề tài này đƣợc nghiên cứu với mục đích giúp ngƣời đọc hiểu hơn về văn hóa chợ
nổi Nam Bộ và từ đó có cái nhìn khác hơn, sâu sắc và xa hơn về chợ nổi trong lịch
sử lẫn tƣơng lai. Bởi chợ nổi cần đƣợc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
3


truyền thống nhƣng vẫn không tách biệt với thời đại để nó tránh khỏi nguy cơ
“chìm” trƣớc đà phát triển của xã hội đƣơng thời.
3/ Đối tượng nghiên cứu:

Văn hóa sinh hoạt chợ nổi Nam Bộ
4/ Phương pháp nghiên cứu:

Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, liệt kê: Dựa vào việc sƣu tầm các nguồn tài liệu
trên internet, sách, báo đài, video liên quan đến văn hóa, con ngƣời chợ nổi Nam
Bộ…
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: So sánh chợ nổi Nam Bộ với chợ nổi của Thái
Lan để tìm ra hƣớng đi, hƣớng phát triển cho chợ nổi Nam Bộ.
PHẦN II: NỘI DUNG
1/ Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:

1.1 Cơ sở lý luận:
1.1.1 Khái niệm chợ:

Định nghĩa của từ điển Tiếng Việt: “Chợ là nơi công cộng để nhiều ngƣời đến
mua bán vào những buổi hoặc những ngày nhất định; chợ là nơi gặp gỡ nhau giữa
cung và cầu các hàng hóa, dịch vụ, vốn; nơi tập trung các hoạt động bn bán hàng
hóa giữa ngƣời sản xuất, ngƣời buôn bán và ngƣời tiêu dùng”…
Định nghĩa thƣờng dùng trong lĩnh vực thƣơng mại: “Chợ là loại hình thƣơng
nghiệp truyền thống khá phổ biến ở nƣớc ta; chợ là hiện thân của hoạt động thƣơng
mại, là sự tồn tại của không gian thị trƣờng mỗi vùng, nhất là vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và tập trung nhiều nhất ở các vùng đô thị, các
thành phố lớn”.
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về phát triển
và quản lý chợ “Chợ là loại hình kinh doanh thƣơng mại đƣợc hình thành và phát
triển mang tính truyền thống, đƣợc tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp
ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cƣ”.

4


Theo Thông tƣ số 15/TM-CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thƣơng Mại hƣớng
dẫn tổ chức và quản lý chợ "Chợ là mạng lƣới thƣơng nghiệp đƣợc hình thành và
phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội".
Từ những khái niệm trên, có thể nói chợ là nơi trao đổi, mua bán hàng hóa gồm
hai thành phần chủ lực: Bên bán và bên mua. Tùy từng vùng, từng khu vực mà có
những nét đặc trƣng riêng. Chợ cịn là biểu hiện của sự sung túc hay nghèo nàn của
một địa phƣơng.
1.1.2 Khái niệm chợ nổi:
Tƣơng tự nhƣ chợ thì chợ nổi cũng có 2 thành phần: ngƣời mua và ngƣời bán,
nhƣng thay vì họp chợ ở trên bờ thì chợ nổi lại diễn ra trên sơng. Khái niệm chợ
nổi chỉ xuất hiện khoảng ba mƣơi năm trở lại đây, ban đầu thì chợ nổi chỉ bao gồm
một nhóm cƣ dân buôn bán với nhau nhƣng dần dần các nhà nghiên cứu bắt đầu
phát hiện ra nét độc đáo của hình thức này. Cũng bắt đầu từ đó mơ hình chợ nổi

mới đƣợc đề cập nhiều.
Cho đến nay, đã có một số tác giả đƣa ra định nghĩa về chợ nổi và nội hàm khái
niệm gồm: là một loại chợ, nhóm, họp trên sơng, phƣơng tiện đi lại trong giao dịch
là ghe, xuồng ( Nhâm Hùng, 2009; Ngô Văn Lệ, 2014; GSTS Trần Ngọc Thêm và
ctv,2014).
Theo Nhâm Hùng (2009,tr19): “Chợ nổi là cách nhóm chợ trên sơng. Ngƣời mua
kẻ bán đều giao thƣơng trên ghe, xuồng, tàu, bè trong một khoảng thời gian nhất
định. Trên chợ nổi có đầy đủ chủng loại hàng hóa và dịch vụ nhƣng chủ lực là
nông sản”.

H1: Chợ nổi Ngã Bảy (Hậu Giang)
5


Nguồn: />*So sánh chợ nổi và chợ:
Chợ nổi và chợ đều là nơi diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa và đều có hai
thành phần: ngƣời mua và ngƣời bán.
Tuy nhiên, mua bán ở chợ diễn ra trên bờ, có ban quản lý chợ và phải đóng thuế,
bất cứ địa phƣơng nào cũng có chợ dù là lớn hay nhỏ và chợ bán tất cả các mặt
hàng. Cách thức rao hàng của chợ chính là bảng hiệu. Ngƣợc lại với chợ, chợ nổi
mua bán trên sông nƣớc, mang tính tự phát, và cách thức rao hàng là cây bẹo,
khơng phải địa phƣơng nào cũng có chợ nổi.
1.1.3 Khái niệm văn hóa và văn hóa sinh hoạt chợ nổi Nam Bộ:
Unesco đã định nghĩa văn hóa năm 2002: “Văn hóa là tổng thể sống động các
hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu
– những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, GSTS Trần Ngọc Thêm định
nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác

giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mình.”
Có thể nói văn hóa sinh hoạt trong chợ nổi chính là cách thức sinh hoạt hằng ngày
trong chợ nổi, những hoạt động hằng ngày nhƣng đã trở thành những nét truyền
thống văn hóa riêng biệt của ngƣời dân nơi đây. Nó là địa điểm, chủ thể, cách thức
mua bán, đời sống trong ghe thuyền, sau những buổi họp chợ của ngƣời dân chợ
nổi Nam Bộ. Tất cả những yếu tố ấy tạo thành nét văn hóa đặc sắc không thể nào
trộn lẫn của Chợ nổi Nam Bộ.
2/Sinh hoạt chợ nổi Nam Bộ dưới góc nhìn văn hóa:
2.1 Địa điểm họp chợ:
Chợ nổi Nam Bộ đƣợc tổ chức mua bán trên sông, chợ nổi phải họp ở nơi có vị trí
đầu mối giao thơng mà ghe xuồng từ khắp nơi có thể tụ về một cách thuận lợi nhất.
Các vùng miền khác ở Việt Nam, dù là vùng đồng bằng Bắc Bộ hay gần nhất là

6


Đơng Nam Bộ, đều khơng ở đâu có một mạng lƣới sơng nƣớc kênh rạch phủ kín
giúp cho ghe xuồng có thể len lỏi tới khắp nơi nhƣ Tây Nam Bộ.
Từ 3giờ sáng mỗi ngày, hoạt động mua bán giao thƣơng ở chợ diễn ra nhộn nhịp
và kéo dài đến 10 giờ sáng. Khi nhắc đến chợ nổi, chúng ta chỉ đơn thuần nghĩ
rằng chợ nổi diễn ra vào hừng đông, nhƣng nếu để cảm nhận một cách rõ nét và
đầy đủ về chợ nổi thì chúng ta phải tìm hiểu chợ nổi vào ban đêm nữa. Chợ nổi vào
ban đêm chỉ gói gọn trong giới thƣơng hồ, vì trong khoảng thời gian này, giao dịch
bn bán chỉ cịn một ít lẻ tẻ. Hầu hết các chủ buôn đều đậu ghe và nghỉ ngơi, sinh
hoạt với gia đình của họ, hoạt động rõ nét nhất chính là các ghe dịch vụ, họ bán
đầy các loại thức ăn suốt đêm và lúc nào cũng nóng hổi.
Địa điểm họp chợ nổi phải nằm trên tuyến giao thơng chính nơi sơng rạch cắt
nhau tại các thành ngã ba, ngã năm, ngã bảy. Những nơi dƣới nƣớc đã có sơng rạch
cắt nhau, thì thƣờng trên bờ, đƣờng bộ cũng tụ hội tạo nên các thị tứ, thị trấn. Các
khúc sông này phải đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn phải tƣơng đối rộng để có chỗ tụ tập

ghe xuồng mà vẫn còn khoảng trống để lƣu thơng, khiến giao thơng khơng bị tắc
nghẽn. Vì cần phải tƣơng đối rộng nên nơi họp chợ nổi chỉ có thể là sông chứ
không phải là kênh rạch, tƣơng đối rộng nhƣng khơng đƣợc q lớn, vì sơng lớn thì
sóng gió cũng lớn theo theo gây nguy hiểm cho ghe thuyền neo đậu. Khúc sông nơi
họp chợ nổi không đƣợc sâu quá mà cũng không cạn quá. Nếu sông cạn q lúc
nƣớc rịng thì có thể bị mắc cạn, nếu sơng sâu q thì khó neo đậu ghe thuyền và
độ an tồn thấp.
“Chợ nổi đa phần đóng ở nơi giáp nƣớc để thƣơng đồ dừng tay chèo đợi con nƣớc
thuận, có khi phải ở lại vài ba ngày nên các sinh hoạt chợ nổi rất nhộn nhịp, kể cả
sinh hoạt văn nghệ”( Nguyễn Ngọc Phan, 2009). Ở dƣới sông, do hai con nƣớc
chảy ngƣợc chiều gặp nhau dừng lại nên chỗ giáp nƣớc cũng là nơi mà lục bình,
rác rƣởi tập trung dồn lại. Nơi sơng nhỏ hẹp, lục bình có thể tập trung dày đặc đến
mức ghe xuồng khơng bơi qua đƣợc, phải chờ nƣớc chảy mới thông luồng, hoặc
nếu gấp thì phải vác xuồng qua đoạn sơng đó mới thả xuống bơi tiếp đƣợc. Nhƣ
thế, nơi giáp nƣớc khơng phải là địa điểm thuận tiện cho việc hình thành chợ nổi
đƣợc; trên thực tế, các chợ nổi đều đặt ở những nơi sông rạch cắt nhau.

7


2.2 Chủ thể tham gia:
Chủ thể tham gia chợ nổi thƣờng là chủ nhân của những ghe xuồng liên tục đến đi,
ken đặc trên cả hàng sông dài hàng km. Ta khơng thể biết chính xác đƣợc là tổng
cộng có bao nhiêu ghe xuồng nhƣng nếu ƣớc chừng thì ở một chợ nổi ít nhất cũng
có vài trăm đến dăm bảy trăm chiếc ghe xuồng đang tham gia mua bán trên sơng.
Những ghe xuồng này có nguồn gốc từ khắp các địa phƣơng trong và ngoài vùng.
Các ghe loại vừa là ghe bn bán nhỏ trong địa phƣơng, cịn các ghe lớn là của các
thƣơng lái thu gom hàng đƣa lên thành phố hoặc đƣa sang Campuchia, Thái lan,
Trung Quốc. Muốn biết ghe xuống đến từ địa phƣơng nào, chỉ cần nhìn vào hai
chữ cái đầu viết tắt tên tỉnh trong số hiệu in trên mạn ghe, nếu thấy ghi “ĐT” thì ta

biết ghe này đến từ Đồng Tháp. Những chủ ghe bán hàng cùng quê hoặc quen biết
nhau thƣờng cột nối các ghe thành một chiếc bè lớn, mũi ghe quay ra sơng đón
khách. Ngƣời Việt thƣờng quan niệm “bn có bạn, bán có phƣờng”; liên kết chặt
lại với nhau, ngƣời bán hàng dễ bề giúp đỡ nhau khi cầ thiết. Trên sông, ca-nô,
xuồng vỏ lãi chạy qua chạy lại với tốc độ cao tạo nên sống mạnh vỗ vỗ vào mạn
khiến những chiếc ghe xuồng đang neo đậu chao đảo chòng chành; khi các ghe
nƣơng tựa tạo thành bè kết nối với nhau thành bè nhƣ vậy thì tác động của sóng đã
giảm đi rất nhiều. Với ngƣời mua, một khi đã bƣớc lên bè mà không mua đƣợc
hàng ở ghe này thì bƣớc sang ghe bên cạnh sẽ rất tiện. Khi cần chuyển dịch một
khoảng cách ngắn, tất cả các ghe cùng đồng loại nổ máy trông rất vui mắt.
Theo TS Trần Nam Tiến cho rằng: “Điểm lý thú của chợ nổi là nơi hội tụ của các
loại ngƣời tứ xứ đến mua bán, làm ăn. Từ những ngƣời dân bình thƣờng cho đến
những ngƣời tứ cố vô thân, rời bỏ quê hƣơng tha phƣơng kiếm sống, với: ki-ốt nổi
là chiếc ghe bán hàng hóa, trái cây, khi nơi này khi nơi khác. Chỉ cần có một chiếc
ghe và sản phẩm hàng hóa có thể họp chợ mua bán…”. Chính vì nhƣ thế mà chủ
thể sản sinh ra chợ nổi chính là những ngƣời mua bán trên sông. Những ngƣời
tham gia thuộc đủ mọi thành phần già trẻ, gái trai vừa cung vừa cầu, bổ sung cho
nhau tạo nên diện mạo của chợ nổi Nam Bộ.
Phần đông các chợ nổi lớn ở Tây Nam Bộ là chợ bán sỉ (bán bn); chợ bán lẻ
cũng có nhiều ngƣời mua sỉ để buôn lại, cho nên một số lƣợng lớn ngƣời mua là
chính các khách thƣơng hồ. Bên cạnh khách thƣơng hồ, ln có ngƣời địa phƣơng
đi chợ mua bán phục vụ sinh hoạt hằng ngày. Gần đây, khách du lịch ngày càng
tăng lên, nhƣng họ không phải là khách hàng chính của chợ nổi. Chỗ khác biệt cơ
bản của chợ nổi Tây Nam Bộ so với chợ nổi Thái Lan nằm ở chỗ khách hàng của
8


chợ nổi Thái Lan tuyệt đại bộ phận đều là dân du lịch chứ không phải là ngƣời địa
phƣơng.
Mặt hàng hóa phổ biến nhất ở chợ nổi Tây Nam Bộ là trái cây, rau củ các loại. Ở

vùng nhiệt đới gió mùa sơng nƣớc này, trái cây, rau củ vơ cùng đa dạng và phong
phú quanh năm. Đó chính là đặc sản số một của miệt vƣờn. Thƣơng lái theo kênh
gạch len lỏi vào các ngõ ngách tìm mua tại vƣờn các loại nông sản rẻ để đƣa ra các
chợ bán. Ngồi nơng sản ra, chợ Nam Bộ cịn mua bán các loại thủy sản nhƣ tơm,
cua, cá, rắn…và có hàng chục các ghe xuồng bán tạp phẩm, nƣớc giải khát, có cả
ghe bán xăng dầu, bán vé số...đa dạng, đầy màu sắc khơng kém gì với chợ trên bờ.

H2. Ghe bán hủ tiếu tại chợ nổi
Nguồn: />2.3 Cách thức mua bán của chợ nổi:
Trên mỗi ghe hàng đều cắm một vài cây sào, trên sào treo lủng lẳng những ngƣời
mà ghe mình có bán. Ngƣời ta gọi đó là cây bẹo. Hình thức “cây bẹo” ở hầu hết
các thuyền, các ghe bán hàng là sự sáng tạo của ngƣời dân nơi đây trong việc
quảng cáo hàng hóa, vừa thay cho bảng hiệu, để thuyền di chuyển thuận lợi mà
không bị chắn gió. Cây bẹo thƣờng là cây sào tre dài 5-7m treo các thứ hàng hóa
có trên thuyền, ghe để khách hàng biết trên thuyền có bán các loại hàng hóa nào,
sản phẩm gì. Cây bẹo đƣợc treo với độ cao trung bình, khơng q cao cũng khơng
q thấp, vừa tầm nhìn của khách hàng, bởi tính chất phù hợp của nó mà cây bẹo
trở thành tín hiệu cụ thể nhất để các thƣơng hồ quảng cáo các loại hàng muốn bán.
Ngƣời đi chợ thì chỉ càn nhìn cây bẹo sẽ biết ghe nào bán thứ mình muốn mua. Xét
ở góc độ sâu xa và nguồn gốc, hình thức cây bẹo trƣớc hết đƣợc xuất phát từ yếu tố

9


cạnh tranh, nhu cầu tiếp thị, quảng bá của hoạt động mua bán trên sông. Cây bẹo
hầu nhƣ đƣợc sử dụng để chào hàng các loại trái cây, hàng tạp hóa, rau củ…
Tuy ngƣời dân treo gì bán nấy thơng qua những cây bẹo, nhƣng cũng có trƣờng
hợp ngoại lệ:
-“Có những thứ treo mà khơng bán" - đó là quần áo. Vì sống bằng nghề thƣơng
hồ, chiếc ghe vừa là phƣơng tiện làm ăn, vừa là nhà ở của họ, họ sinh hoạt, nghỉ

ngơi trên chính chiếc ghe của mình. Cứ mỗi lần quần áo đƣợc giặt xong là họ phơi
ngay bên ngồi chiếc ghe của mình để kịp nắng kịp gió, sớm mai có quần áo để
mặc. Do đó quần áo thƣờng đƣợc treo ngồi ghe nhƣng khơng bán.
-“Có những cái bán mà khơng treo” – Chính là các thuyền bán đồ ăn uống, nƣớc
giải khát. Những thứ này khơng thể treo lên đƣợc, một phần vì chúng rất khó để
treo lên bởi vì rất dễ vỡ và một phần cũng vì khơng có vật gì thay thế (hủ tiếu, bún
riêu…) để biểu thị cho thứ mình đang bán cho khách thấy đƣợc. Các ghe bán hàng
ăn uống dạo thƣờng thay các bẹo hình bẹo dạng bằng bẹo âm thanh. Có ngƣời bấm
kèn bằng tay, có ngƣời vừa chèo ghe vừa dung chân đạp lên kèn (loại kèn lớn, gọi
là kèn cóc).
-“Treo cái này, bán cái khác”- đây là hình thức “bẹo lá bán ghe”, chính là treo lá
dừa nhƣng lại bán thuyền, ngƣời dân muốn bán ghe xuồng của họ thƣờng treo lên
thuyền một cây sào, trên đó có gắn một miếng lá dừa. Vì cây dừa là loại cây đặc
trƣng cho vùng đất Nam Bộ, nên mái nhà của ngƣời dân thƣờng đƣợc lợp bằng lá
dừa. Vì vậy treo lá dừa có nghĩa là họ muốn bán thuyền, muốn bán ngơi nhà trên
sơng của mình.

H3: Cây bẹo
10


Nguồn: />2.4 Đời sống sinh hoạt của người dân:
Cƣ dân trên chợ nổi thƣờng là bán trú nhƣ: Các ghe thƣơng hồ lớn từ các nơi khác
mang hàng đến mua, bán; cũng có ghe mƣớn thêm nhân cơng chạy máy, lên xuống
hàng; những ghe xuồng dịch vụ bán thức ăn, tạp hóa, vá may, đị ngang, sửa chữa
cung cấp xăng dầu… thì ln có mặt ở chợ nổi suốt ngày đêm. Thông thƣờng ghe
cập bến neo đậu sinh hoạt bận rộn chủ yếu vào buổi sáng, nếu chƣa hết hàng thì
đậu lại nghỉ ngơi.
Bn bán ở chợ trên bờ cực khổ bao nhiêu thì bn bán dƣới nƣớc lại khổ bấy
nhiêu, đơi khi cịn cực khổ hơn bởi ngƣời bán dƣới sông nƣớc phải thức dậy lúc hai

ba giờ sáng, chèo ghe xuồng đi lấy hàng và phải mang hàng trở về trƣớc khi trời
sáng, vào những ngày bình yên, trăng thanh gió mát thì khơng sao, những đêm
mƣa bão thì thật vất vả, chƣa kể dến những hiểm nguy đang rình rập họ trên sơng
nƣớc. Có những khi ghe thuyền bị chết máy, những ngày trái gió trở trời ốm đau
bệnh tật, ngƣời dân khơng có nƣớc sạch, phải sử dụng nƣớc sơng cho sinh hoạt,
trong khi dịng nƣớc ơ nhiễm vì tình trạng vệ sinh kém. “Có neo ở đây vài chục
năm thì ngƣời dân cũng chỉ đƣợc đăng ký giấy tạm trú 6 tháng/lần. Họ không chấp
nhận giấy tạm trú này nên kêu mình muốn vay tiền phải lên bờ mƣớn nhà trọ, làm
sổ tạm trú dài hạn. Thật phi lý nếu mƣớn nhà bỏ không để vay tiền sửa bè”, chị
Trinh nói. (Chuyện về xóm bè khốn khó ở chợ nổi Cái Răng).
Khơng gian sống nhỏ hẹp, vợ chồng con cái chỉ quanh quẩn một chiếc ghe chật
chội, thiếu thốn tiện nghi, lại còn dễ hƣ hao khi gặp giơng bão, con cái của họ
khơng có điều kiện đến trƣờng, Chị Đặng Thị Trang (44 tuổi), ở xóm bè, cho biết:
“Con nít ở chợ nổi này đơng lắm, nhƣng hầu hết bỏ học ngang hơng vì khơng có
hộ khẩu, lấy gì học đến cấp 3” (Chuyện về xóm bè khốn khó ở chợ nổi Cái Răng).
Đây cũng là vấn đề đặt ra đối với chính sách “an sinh” của Nhà Nƣớc, chính quyền
địa phƣơng.
Mặc dù khó khăn là thế, đời sống của cƣ dân chợ nổi chƣa bao giờ tẻ nhạt, họ biết
cách làm cho đời sống tinh thần của mình thêm phong phú hơn, ln lạc quan và
u đời. Sách Gia Định Thành Thơng Chí viết: “…Theo con nƣớc lớn ròng, ghe
thuyền chèo chống, ca hát ngày đêm tấp nập…”[tr24,9]
11


Sau khi tan chợ, chính là cuộc sống sinh hoạt trong ghe của ngƣời dân Những
ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ, ngƣời vợ sẽ đếm tiền xem lời lỗ ra sao, sau đó sẽ nấu
cơm, giặt quần áo,…Cịn những cánh đàn ông sau khi tan chợ sẽ tranh thủ thả lƣới
bắt thêm vài con cá, sửa lại cái ghe hƣ, hoặc chỉ đơn giản là tụ tập với nhau để gầy
cuộc nhậu, đánh cờ giải khuây, dọn dẹp lại ghe xuồng để mai đi có chỗ để hàng
đem về bán, sắp xếp hàng hóa để sáng mai lại bắt đầu một ngày mới. “Đêm về họ

lại cùng nhau hát đờn ca tài tử: vài câu vọng cổ, một lớp Nam ai hịa trong tiếng
đờn kìm, tiếng ghi-ta phím lõm vang lên trên sơng nƣớc, xen lẫn vào đó đơi khi có
tiếng mẹ ru con ầu ơ…- tất cả cái hợp âm thiết tha da diết đó theo gió đƣa xa, tạo
nên nét đẹp vừa trữ tình lãng mạn vừa rất đặc thù không thể trộn lẫn trong bức
tranh không thể trộn lẫn trong bức tranh phong cảnh làng quê Tây Nam Bộ” [Trần
Ngọc Thêm,2013].
Ngƣời dân mua bán vùng chợ nổi đều là dân tứ xứ đổ về, mỗi ngƣời trong họ đều
có những xuất phát, nét đặc trƣng vùng miền và quãng đời khác nhau, nhƣng họ
không hề xa lạ, cách biệt mà rất gần gũi, chính sơng nƣớc làm cho họ xích lại gần
nhau hơn nữa. Dù mới gặp hay xa lạ chỉ cần chào hỏi dăm ba tiếng, họ lại trở thành
những ngƣời thân thiết và sẵn sang giúp đỡ nhau khi cần, rồi những lúc rảnh rỗi, họ
lại tụ tập đánh chén với nhau, ngƣời thì góp mồi nhậu, ngƣời thì hùng vài chai
rƣợu ngâm, cứ thế qua những buổi “chén tạc chén thù” họ lại trở thành đôi tri kỷ.
Họ tâm sự về chuyện đời, những chuyện buồn vui trong cuộc sống. Chỉ cần khi
ghe mắc cạn hay chết máy, ngƣời xuồng bên kia sẵn sàng ra tay giúp đỡ, có khi
ghe nào có ngƣời bị nạn hay xảy ra bất cứ chuyện gì họ ln sẵn sang cứu giúp mà
khơng mảy may suy nghĩ. Đó chính là khí phách anh hùng, trƣợng nghĩa vốn có từ
bao đời nay của ngƣời dân vùng đất chín rồng này.
Chợ nổi giống nhƣ một xã hội thu nhỏ không chỉ vì cái gì cũng có bán trên sơng
hay ngƣời ta ở trên sông mà mọi ngƣời sống với nhau một cách hịa hợp nhƣ làng
xã, xóm giềng. Làng xã này có những con ngƣời thật thà chất phát và đơn hậu, con
trai thì hào phóng, trƣợng nghĩa, phụ nữ thì hiền lành, dễ mến, lại rất chịu thƣơng
chịu khó. Đêm hôm thanh vắng, ghe xuồng mắc cạn, con gái đứng trên ghe dùng
sào để chống, con trai xoắn quần bùn đẩy ghe:
“Ngó lợi đằng sau tui thấy ba bến nƣớc
Ngó lợi đằng trƣớc tui thấy sóng bủa lao xao”
12


Thuở mới ra đời, chợ nổi chỉ là nơi tụ tập để mua bán, dần dần khơng khí trở nên

sơi động với những điệu hò điệu hát. Từ những câu rao hàng quen thuộc đến những
câu hát để vơi đi nỗi nhọc nhằn, lúc nào cảm thấy cô đơn, cuộc sống bấp bênh quá
họ sẽ hát cho vơi đi nỗi nhọc. Ngƣời dân còn hay tụ tập đánh chén, đàn hát với
nhau trên sông sau những giờ buôn bán, lênh đênh trên sơng nƣớc và những điệu
hị cũng ra đời từ đó:
“Hị... ơi! Ai về sơng nƣớc Cần Thơ, ghé qua chợ Nổi
Hò... ơi, chứ Cái Răng, chợ Nổi vẫn chờ đợi ai.
Hò... ơi! Quê anh ở tận Phong Điền, Cái Răng chợ Nổi
Hò... ơi, Cái Răng chợ Nổi nối liền tình ta.”

Hay
“Sơng q nƣớc chảy đơi bờ
Để anh chín dại mƣời chờ thƣơng em.”
Về chợ nổi, đi đâu làm gì cũng có thể nghe tiếng hị tiếng rao. Theo nhà văn Sơn
Nam, từ lối rao hàng mà ngƣời ta sáng chế ra điệu hò. Từ lối rao: “Bánh bò khơng
lần lần biến thành bánh bị hong, bánh bị hơ,…mở đầu cho một điệu hò đặc biệt ở
Cần Thơ.”
3/ So sánh chợ nổi Nam Bộ và chợ nổi Thái Lan:

Chẳng phải ngẫu nhiên mà Thái Lan đƣợc xem là một trong những nƣớc có nền
cơng nghiệp khơng khói phát triển mạnh nhất thế giới. Do đó, khi nói đến ngành du
lịch Thái Lan thì khơng thể khơng nói đến chợ nổi Thái Lan, mỗi năm loại hình du
lịch này mang lại nguồn lợi nhuận không hề nhỏ cho đất nƣớc này. Thái Lan có rất
nhiều chợ nổi nổi tiếng, nhƣng phải kể đến chợ nổi Damnoen Saduak thuộc tỉnh
Ratchabur cách thủ đô Bangkok hơn 100km về hƣớng tây nam. Đây đƣợc xem là
ngôi chợ khá sầm uất và đa dạng hàng hóa. Chợ là địa điểm du lịch lý tƣởng để con
ngƣời sống gần với thiên nhiên, với sông nƣớc vùng nhiệt đới. Khách du lịch đến
đây không chỉ gần gũi với đời sống thƣờng nhật của ngƣời dân, khám phá những
nét đẹp của một vùng sơng nƣớc, mà cịn có thể mua hàng lƣu niệm. Tuy đều là
13



chợ nổi mua bán trên sông nƣớc nhƣng giữa chợ nổi Nam Bộ và chợ nổi Damnoen
Saduak có nhiều điểm khác biệt:
-Đối tƣợng trong chợ nổi Damnoen Saduak chủ yếu là khách du lịch, nên cách thức
tổ chức hoạt động buôn bán những quy định cụ thể rõ ràng, và có cả sự can thiệp
của ngành du lịch Thái Lan. Mọi hoạt động diễn ra trên chợ nổi, đều đƣợc kiểm
sốt, quản lý chặt chẽ của chính quyền. Chợ nổi Thái Lan khơng có sự giao thƣơng
rộng lớn (bán sỉ) giữa các cƣ dân trong vùng; ít thấy cảnh giao nhận hàng mà chỉ là
cuộc mua bán nhỏ, lẻ, trực tiếp với ngƣời “bên ngoài” và “khách du lịch”, nên chợ
cũng khơng nhóm từ khuya mà chỉ bắt đầu khi trời sáng. Trong khi đó chợ nổi Việt
Nam hình thành chủ yếu do nhu cầu mua bán, và đối tƣợng chủ yếu là dân cƣ chợ
nổi, những khách mua sỉ và mặt hàng chủ yếu là nơng sản.
-Vì là chợ mang tính thƣơng mại nên chợ khơng có cảnh trao đổi hàng hóa, vận
chuyển hàng hóa hay các cây bẹo thƣờng thấy ở chợ nổi ở Việt Nam mà thay vào
đó là các bảng hiệu. Ở chợ nổi Thái Lan, khơng chỉ bán nơng sản, mà cịn có cả
quần áo, đồ handmade, có cả massage cổ truyền Thái Lan để hút khách du lịch.
-Khác với những chiếc ghe chợ nổi Việt, ghe xuồng ở chợ Damnoen Sudak thƣờng
là loại ghe vuông, bằng mũi và dùng tay chèo. Ngƣời mua bán trên chợ nổi Thái
Lan chủ yếu là phụ nữ, họ thƣờng đội những chiếc nón đặc trƣng.
-Chợ nổi Thái Lan chỉ là nơi mua bán, chƣa phải là nơi ăn ở sinh hoạt nhƣ chợ nổi
Việt Nam, là nơi đón khách du lịch mỗi ngày, vì vậy ngƣời bán nơi đây rất biết giữ
vệ sinh chung và luôn giữ nơi bán của mình sạch sẽ.

H3: Chợ nổi Damnoen ở Băng
Cốc (Thái Lan)

H4: Chợ nổi Cái Răng ở Cần Thơ
(Việt Nam)
14



Nguồn: />
Nguồn: />
4/ Biện pháp bảo tồn văn hóa trong chợ nổi:

Ở Việt Nam chợ nổi phát triển theo kiểu truyền thống, khơng có quy hoạch và
cũng khơng có kế hoạch quảng bá, phát triển cụ thể về du lịch. Ngƣời dân vẫn chỉ
quan niệm bn bán là chính, bơi thuyền cũng chỉ để họp chợ, mua bán kiếm thêm
thu nhập, khách du lịch cũng chỉ muốn tham quan là chính, vì vậy những tiềm năng
du lịch khơng đƣợc khai thác, những giá trị truyền thống không đƣợc quan tâm và
phát huy, dần dần những giá trị ấy bị lãng quên dần, bị mai một, đôi khi thế hệ đời
sau cũng không biết đến những nét đẹp mà chợ nổi mang trong mình. Cùng với sự
phát triển của dịch vụ, sự thuận tiện của các bảng hiệu, máy chèo, sự phát triển của
công nghệ mua sắm online,…khiến cho cây bẹo, điệu hò, chợ nổi dần trở nên xa
dần với nhịp sống của giới trẻ và dần biến mất. Vì vậy cần có những biện pháp kịp
thời để bảo tồn các văn hóa trong chợ nổi nhƣ:
-Nhận định những giá trị truyền thống vốn có của chợ nổi và phát hiện giá trị này
trong mối liên hệ mật thiết với kinh tế, cơng nghệ, văn hóa du lịch…
-Khắc phục những khó khăn của bà con nơi chợ nổi nhƣ: vấn đề vệ sinh, hỗ trợ cho
trẻ em nơi chợ nổi có điều kiện đến trƣờng lớp, tạo sổ hộ khẩu cho ngƣời dân…
-Tổ chức những lễ hội truyền thống thƣờng xuyên hơn để ngƣời dân, du khách có
cơ hội tiếp cận văn hóa, giá trị truyền thống nơi đây, vừa là cơ hội để thu hút khách
du lịch.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Với sự ra đời và phát triển của các chợ nổi Nam Bộ đã cho thấy đặc trƣng sông
nƣớc của vùng và những đặc điểm văn hóa mang đậm chất sơng nƣớc của ngƣời
Nam Bộ. Những chợ nổi ở đây đã trở thành những chợ đầu mối cung cấp số lƣợng
lớn hàng hóa, nơng sản cho các tỉnh trong vùng. Hơn nữa, ngày nay chợ nổi trở
thành địa điểm du lịch hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nƣớc. Trong

cuộc sống hiện nay, khi q trình đơ thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã tác động đến đời
sống mọi mặt của ngƣời dân, nhất là cuộc sống đô thị với nhu cầu và thị hiếu khác
nhau cùng với sự hình thành của hệ thống các siêu thị đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
15


ngƣời tiêu dùng thì tính chất và nét văn hóa của chợ nổi khơng cịn ngun vẹn
nhƣ trƣớc đây. Tuy nhiên, với tƣ cách là một trong nhiều thành tố văn hóa góp
phần làm nên tính đa dạng của văn hóa ngƣời Nam Bộ, chợ nổi sẽ tiếp tục tồn tại.
Khi đó chợ nổi khơng thuần túy là nơi trao đổi hàng hóa, mà cịn là một điểm du
lịch để cho du khách tiếp cận và tìm hiểu văn hóa của cƣ dân sông nƣớc vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Qua những nghiên cứu cho thấy chợ nổi đƣợc hình thành
trong những điều kiện cụ thể của đồng bằng sông Cửu Long, là một nét rất riêng
trong hoạt động kinh tế của ngƣời Việt. Hoạt động của chợ nổi không chỉ góp phần
phát triển kinh tế, mà cịn góp phần làm nên nét đặc trƣng văn hóa tộc ngƣời và
giao lƣu văn hóa giữa các vùng, giữa các tộc ngƣời. Chính vì thế văn hóa trong chợ
nổi càng phải đƣợc bảo tồn và phát triển hơn nữa, để những giá trị truyền thống
không bị mất đi và chợ nổi sẽ mãi giữ nét đẹp, giá trị văn hóa của nó. Ta phải bảo
tồn để cho dù ở bất cứ thời đại nào, những vẻ đẹp văn hóa truyền thống mãi mãi
tồn tại và đƣợc phát huy lên một tầm cao mới.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, 2013. Văn hóa ngƣời Việt vùng Tây Nam Bộ. Tủ
sách văn hóa học Sài Gịn.
2. Ngơ Văn Lệ, 2014. Chợ nổi đồng bằng sơng Cửu Long – nét đặc trƣng văn hóa
của ngƣời Việt Nam Bộ. Tạp chí phát triển KH và CN.
3. Ái Lam. Bảo tồn chợ nổi Cái Răng bền vững.

/>1n8TMy-3YiQz42Vc
4. Nguyễn Thị Hậu. Để chợ nổi bắt đầu một đời sống khác.
/>5. Nguyễn Văn Chuộng. Chợ nổi-Không gian văn hóa đặc sắc của miền Tây Nam
Bộ
/>LDC_9oiOpGl_BdUM
6. TS Lý Tùng Hiếu. Văn hóa Nam Bộ: Phiên bản mới của văn hóa truyền thống
Việt Nam.
/>7. GS.TSKH Trần Ngọc Thêm. Khu vực Nam Bộ và tình hình nghiên cứu
KHXH&NV Nam Bộ.
/>

nb.html?fbclid=IwAR3eJj7nJvvrLYijmEjLXDkZj8M9voqlH18PoYrflxnunjJDMzKL1N1Zyo
8. Chudu24. Damnoen Saduak – khu chợ nổi tiếng nhất nhì thế giới nhất định nên
ghé khi đến Bangkok.
/>
HẾT

18



×