ĐỀ TÀI: TÍN NGƯỠNG THỜ QUAN CƠNG CỦA
NGƯỜI HOA Ở NAM BỘ
NĂM 2020
MỤC LỤC
Trang
PHẦN TỔNG QUAN
1/ Lý do chọn đề tài ……………………………………….….…..…2
2/ Mục đích nghiên cứu đề tài ………………………………………2
3/ Đối tượng nghiên cứu …………… …………………….…..……3
4/ Phương pháp nghiên cứu…………………………………………3
PHẦN NỘI DUNG
* Cơ sở lý luận ………………………………………………….…..… 4
* Cơ sở thực tiễn………………………………………………………. 4
Chương I : Giới thiệu về Quan Cơng và q trình du nhập
của tín ngưỡng này vào Nam Bộ …………………………… ..……… . 5
1/ Giới thiệu về Quan Công …………………………………..…. . 5
2/ Sự du nhập của tín ngưỡng thờ Quan Cơng vào Nam Bộ……… .7
Chương II : Hình tượng Quan Cơng trong văn hóa của người Hoa
ở Nam Bộ ……….………………………………..…… . 8
Chương III : Cách người Hoa ở Nam Bộ thờ Quan Cơng……..…… . 10
Chương IV : Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Quan Công ở Nam Bộ….. . 14
Chương V : Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Quan Cơng đến
văn hóa người Việt ở Nam Bộ……………………….… 15
Chương VI : Gìn giữ và phát huy giá trị trước các thách thức ….……16
PHẦN KẾT LUẬN …………………………………………….… . 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………….…. 18
1
PHẦN TỔNG QUAN
1/ Lý do chọn đề tài
Nói đến vùng đất Nam Bộ là nói đến vùng đất cư trú của bốn dân tộc
anh em chủ yếu là Kinh, Chăm, Hoa, Khmer. Tuy mới được khai thác cách
đây hơn 300 năm nhưng vùng đất Nam Bộ này đã phát triển rất nhanh. Nói
đến Nam Bộ thì khơng thể khơng nhắc đến dân tộc Hoa, một dân tộc cũng đã
có cơng rất lớn trong việc khai phá và định hình cho Nam Bộ. Đời sống của
người Hoa từ xa xưa đến nay vẫn gắn liền với các tín ngưỡng tâm linh trong
đó khơng thể khơng nhắc đến một tín ngưỡng được người Hoa du nhập vào
Nam Bộ những năm của thế kỉ XVI và thế kỉ XVII. Đó là tín ngưỡng thờ
Quan Cơng, một nét văn hóa độc đáo và đặc sắc của người Hoa. Tín ngưỡng
này cũng thu hút nhiều người tham gia và tìm hiểu, có cả người Việt. Riêng
bản thân tơi cũng thấy rằng đây là một tín ngưỡng mang nhiều ý nghĩa và hội
tụ nhiều yếu tố cả về lịch sử và văn hóa, qua Việt Nam thì tín ngưỡng này của
người Hoa đã có sự thay đổi để cho phù hợp với nét văn hóa của người Việt.
Tín ngưỡng thờ Quan Cơng là một tín ngưỡng chịu sự thay đổi của thời
gian, ít nhiều sẽ có sự thay đổi. Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Quan Cơng
cũng khá cần thiết vì trước sự biến đổi xã hội làm sao để những người đời sau
có thể hiểu rõ về tín ngưỡng này cũng như giữ gìn những giá trị tốt đẹp cơ
bản của nó. Tín ngưỡng thờ Quan Cơng của người Hoa là một nét văn hóa cần
phải được giữ gìn và bảo tồn.
2/ Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Quan Cơng của người Hoa giúp cung cấp
cho độc giả có cái nhìn khách quan và cụ thể về tín ngưỡng thờ Quan Công.
Thông qua đề tài, độc giả sẽ được hiểu rõ là vì sao ở Nam Bộ lại có nhiều đền
thờ Quan Công ( Quan Đế Miếu ) đến vậy. Tín ngưỡng thờ Quan Cơng là của
2
người Hoa nhưng vì sao cũng thu hút người Việt và một số dân tộc khác.
Thông qua nghiên cứu đề tài, tơi cũng mong muốn góp phần gìn giữ và quảng
bá, giới thiệu tín ngưỡng thờ Quan Cơng của người Hoa mà sẽ còn lý giải câu
hỏi trên đến với độc giả - những ai thích tìm hiểu về tín ngưỡng này
3/ Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính ở đây là tín ngưỡng thờ Quan Cơng của
người Hoa. Nói thế cũng cịn khá chung chung và chưa rõ ràng. Đi sâu về tín
ngưỡng thờ Quan Cơng chúng ta có thể khai thác nhiều khía cạnh khác nhau
như nói về hình tượng Quan Cơng, cách thức cũng như ý nghĩa của tín
ngưỡng này đối với người Hoa nói riêng và văn hóa Nam Bộ nói chung. Tín
ngưỡng thờ Quan Công là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chủ yếu trong đề tài, luôn
được nhắc đến và đề cập trong đề tài.
4/ Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong nghiên
cứu và đánh giá vấn đề nghiên cứu. Đối với tín ngưỡng thờ Quan Cơng, một
số phương pháp dùng để nghiên cứu có thể triển khai và tích hợp như phương
pháp lịch sử ( nghiên cứu theo quá trình hình thành, tồn tại và phát triển),
phương pháp phân tích, tổng hợp. Ngồi ra một số phương pháp có thể áp
dụng như phương pháp đối chiếu, so sánh để làm rõ đặc trưng và sự khác biệt
với các đối tượng khác. Ngoài ra tùy vào điều kiện khách quan, có thể áp
dụng phương pháp khác như trải nghiệm thực tế tại các Quan Đế Miếu, phỏng
vấn một người Hoa bất kỳ, … . Các phương pháp khác nhau thì sẽ đặt ra các
yêu cầu khác nhau và căn cứ vào nội dung nghiên cứu mà ta sử dụng, kết hợp
cho phù hợp.
3
PHẦN NỘI DUNG
* Cơ sở lý luận
Tín ngưỡng thờ Quan Công của người Hoa ở Nam Bộ là một nét văn
hóa độc đáo trong đời sống tinh thần của người Hoa. Tín ngưỡng là niềm tin,
sự ngưỡng mộ và sự thực hành của con người đối với một đấng thần linh hay
một thứ gì đó huyền bí bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong tín ngưỡng sẽ
có sự thờ cúng thể hiện thông qua dựng bàn thờ, miếu thờ, bày trí gian thờ,
thắp hương, dâng lễ vật và cầu nguyện. Tín ngưỡng thờ Quan Cơng là một tín
ngưỡng của người Hoa ở Nam Bộ thì khơng thể khơng nhắc đến người Hoa
và vùng văn hóa Nam Bộ. Nam Bộ là một vùng văn hóa lớn của cả nước với
diện tích hơn 60.000 km2 và có dân số hiện nay hơn 30 triệu người. Nam Bộ
cũng là vùng có lịch sử khai thác chỉ mới hơn 300 năm nhưng đã tạo dựng
được một bản sắc văn hóa riêng biệt và cùng góp phần tạo nên một nền văn
hóa Việt Nam đa dạng và đặc sắc. Người Hoa là một trong 54 dân tộc của đất
nước Việt Nam và là một trong 4 dân tộc lớn làm nên nền văn hóa của vùng
đất Nam Bộ. Người Hoa có mặc ở Nam Bộ muộn hơn so với các dân tộc
khác, họ đến Nam Bộ vào thời kì cuối nhà Minh và đầu nhà Thanh ở Trung
Quốc. Người Hoa hiện nay có khoảng 1 triệu người, sinh sống rải rác ở các
tỉnh thành Nam Bộ và trong mỗi tỉnh thành thì họ tập trung sống ở các đô thị
lớn, đông nhất là khu Chợ Lớn ( tức quận 5 và quận 6) ở Sài Gòn hiện nay.
Người Hoa là một trong những dân tộc rất giỏi trong việc buôn bán, kinh
doanh, ẩm thực và các nghề thủ công.
* Cơ sở thực tiễn
Đến với dân tộc Hoa thì chúng ta ta khơng thể khơng nhắc đến tín
ngưỡng thờ Quan Cơng. Nhắc đến Quan Cơng thì có lẽ khơng một người Hoa
nào ở Nam Bộ khơng biết về ơng. Điều này có thể được nhận thấy rõ khi xung
quanh khu vực người Hoa sinh sống chúng ta thấy các miếu Quan Công
(Quan Thánh Đế Quân) hay cịn quen gọi với tên là các Chùa Ơng nhưng có
4
nhiều người (trừ dân tộc Hoa) cũng thắc mắc không biết “Ông” là ai. Một
điều ta cũng nhận thấy rõ là tín ngưỡng thờ Quan Cơng ngày càng phổ biến
hơn trong đời sống của người Nam Bộ chứ không riêng gì người Hoa.
Chương I : Giới thiệu về Quan Cơng và q trình du nhập
của tín ngưỡng này vào Nam Bộ
1/ Giới thiệu về Quan Công
Nếu bạn là một người hâm mộ tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa của La
Quán Trung thì chắc hẳn Quan Cơng khơng xa lạ gì với tất cả chúng ta. Quan
Công là một nhân vật quan trọng trong lịch sử và trong tín ngưỡng tâm linh
của người dân Trung Hoa. Quan Công ( 關關) (160- 219), tên thật là Quan Vũ,
tự là Vân Trường (關關), quê ở tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc. Ông là một nhân
vật lịch sử thời Tam Quốc (211-264) ở Trung Quốc, được xem là người giỏi
võ nghệ và được tôn là vị “tướng thần”, người anh em kết nghĩa của Lưu Bị vua của nước Thục bên cạnh nước Ngô, Ngụy tạo nên thế chân vạc chia ba
Trung Quốc thời bấy giờ. Tới mùa đông năm Kiến An thứ 24, Quan Vũ lơ là
nên để thất thủ Kinh Châu rồi thua trận chạy tới Mạch Thành bị thuộc hạ của
Tôn Quyền bắt, giết chết. Sau khi giết Quan Công, Tôn Quyền sợ không
chống nổi sự trả thù của Lưu Bị, nên đem thủ cấp Quan Công dâng cho Tào
Tháo, rồi an táng theo nghi thức Hầu lễ ở Đương Dương. Đương Dương cũng
là nơi đầu tiên Quan Công hiển linh và cư dân địa phương đã lập miếu thờ
Quan Công.
Trong dân gian, tương truyền Quan Vũ được cho là nhà nghèo, đã
từng làm nhiều nghề như thợ rèn, bán đậu phụ, đẩy xe... nên sau này được
tôn là ông tổ nhiều nghề ở Trung Hoa. Nhưng sử sách khơng có ghi chép rõ
ông từng làm nghề nào. Do phạm tội, ông phải bỏ quê hương đến nương náu
ở quận Trác (Quan Vũ truyện chỉ ghi: "Sau có tội, bỏ xứ lưu lạc đến Trác
5
Quận", khơng rõ tội gì, nhưng nhiều giai thoại dân gian cho là ông đã giết
một gã côn đồ khi hắn đòi tiền bảo kê trong chợ). Tại quận Trác, Quan Vũ đã
gặp gỡ với Lưu Bị và Trương Phi, trở nên thân thiết như anh em. Trong Tam
Quốc Diễn Nghĩa của La Qn Trung cũng có mơ tả tình tiết về việc Lưu,
Quan, Trương gặp nhau ở chợ, sau đó 3 người làm lễ kết nghĩa huynh đệ ở
vườn đào gần nhà Lưu Bị, xin được chết cùng ngày, cùng tháng, cùng năm.
Lưu Bị nhiều tuổi nhất nên là anh cả, kế đến là Quan Vũ, út là Trương
Phi. Cũng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Qn
Trung mơ tả nhân vật Quan Vũ "cao chín thước (hơn 2 mét ngày nay), mặt
đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt."
Những miêu tả này của tác giả chỉ là ước lệ, và khơng có cơ sở lịch sử. Bên
cạnh đó nhiều tác phẩm sử học, văn học khác viết về thời kỳ Tam Quốc,
trong đó có nhắc đến Quan Cơng với tư cách là một trong những nhân vật
chính. Nhìn chung, từ những giai thoại dân gian cho đến các tác phẩm văn
học, sử học đều hầu như ca ngợi Quan Công với các phẩm chất “trung nghĩa,
thẳng thắn, hiên ngang, chính trực, văn võ tồn tài, có tiết tháo của người
qn tử,…” của ơng. Những phẩm chất đó phù hợp với truyền thống văn
hoá Trung Quốc - vốn dĩ chịu ảnh hưởng rất dài lâu của Nho giáo
Hình 1 : Tranh vẽ Quan Cơng
Hình 2 : Ba anh em Lưu Bị, Quan Công
Trương Phi kết nghĩa tại vườn đào
6
(Nguồn: />
và
/>
gioi/su-that-bat-ngo-ve-dien-tich-ket-nghia-dao-vien-trong-tam-quoc-n282045.html )
2/ Sự du nhập của tín ngưỡng thờ Quan Cơng vào Nam Bộ
Tín ngưỡng thờ Quan Cơng là tín ngưỡng gắn liền với người Hoa do
vậy tín ngưỡng thờ Quan Cơng có thể được xuất hiện từ lúc người Hoa di cư
vào Việt Nam và nhất là vùng Nam Bộ. Vào thế kỉ XVII, khi ở Trung Quốc
bước vào thời kì nhà Thanh, một số tướng cũ trung thành với nhà Minh và
không phục nhà Thanh như Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc
Cửu, … đã di cư vào miền Nam nước ta theo đường thủy. Họ đến định cư ở
vùng Chợ Lớn, Bình Dương, Biên Hồ, Mỹ Tho và Hà Tiên. Kế đến khi sang
thế kỷ XVIII, XIX và nửa đầu thế kỷ XX, người Hoa lại tiếp tục sang
đây trước những biến động chính trị ở Trung Quốc. Người Hoa lúc này có mặt
hầu hết ở các địa phương Nam Bộ như: Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố
Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau,
Kiên Giang,… Người Hoa phân bố rải rác và họ tập trung sống tại các vùng
đô thị. Trong các đơ thị thì người Hoa sống tập trung thành các khu phố người
Hoa và sầm uất nhất là khu Chợ Lớn ở Sài Gòn. Họ sống chủ yếu với nghề
buôn bán các mặt hàng như rau củ, thuốc bắc, hoa, đồ thủ công, …
Người Hoa khi sống ở Nam Bộ đã bắt đầu xây dựng các đền chùa để
phục vụ nhu cầu về tâm linh. Các đền chùa cũng là nơi sinh hoạt của người
Hoa cũng là dịp để người Hoa nhớ về những giá trị truyền thống ở q hương
của mình. Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu và tín ngưỡng thờ Quan Cơng là hai tín
ngưỡng quan trọng và phổ biến trong tâm thức người Hoa. Người Hoa khi di
cư qua Việt Nam cũng mang theo nhiều giá trị truyền thống từ quê cha đất tổ
vào trong đó khơng thể khơng kể đến tín ngưỡng thờ Quan Công. Người Việt
đã hay gọi miếu thờ Thiên Hậu với tên là Chùa Bà, miếu thờ Quan Công là
7
Chùa Ông từ lúc sống chung với cộng đồng người Hoa. “Người Hoa ở Nam
bộ có nhiều nhóm ngơn ngữ khác nhau đến từ bảy phủ ở Trung Quốc : Phúc
Châu, Chương Châu, Tuyền Châu ( tỉnh Phúc Kiến), Quảng Châu, Triều
Châu và Quỳnh Châu (tỉnh Quảng Đông), Ninh Ba (tỉnh Chiết Giang). Việc
nhiều miếu Hoa ở Nam bộ có tên gọi Thất phủ võ miếu, Thất phủ miếu hay
Thất phủ cổ miếu,… nhằm thể hiện đầy đủ cộng đồng này” ( Dương Hồng
Lộc, Tín ngưỡng thờ Quan Cơng ở Nam Bộ , ). Những ngôi miếu này ngày nay vẫn còn và người ta
thường hay gọi với cái tên là các “ Chùa Ông” và hầu như các tỉnh lỵ ở các
tỉnh Nam Bộ đều có ít nhất một ngơi “Chùa Ơng”. Từ đó, tín ngưỡng thờ
Quan Cơng chính thức có mặt và ngày càng phổ biến ở Nam Bộ.
Chương II : Hình tượng Quan Cơng trong văn hóa của người Hoa ở Nam
Bộ
Hình tượng Quan Cơng trong văn hóa của người Hoa ở Nam Bộ là một
hình tượng quan trọng và chính từ hình tượng ấy đã hình thành nên tín
ngưỡng thờ Quan Cơng. Trước khi qua Việt Nam vào thời kỳ cuối nhà Minh
đầu nhà Thanh thì người Hoa có 2 vị thánh được tơn kinh là Văn Thánh
(Khổng Tử) và Võ Thánh (Quan Công). Hai vị này biểu trưng cho quan niệm
văn võ luôn song hành để phục vụ các triều đại phong kiến. Miếu Khổng Tử
gọi là Văn miếu, cịn miếu Quan Cơng gọi là Võ miếu. Khổng Tử được tôn
làm Khổng Phu Tử, Quan Công cũng được xưng là Quan Phu Tử, thậm chí,
miếu Khổng Tử dừng lại ở vùng huyện thành, riêng miếu Quan Đế phổ biến
khắp nơi. Sự thần thánh hóa Quan Cơng đã hình thành sau khi ơng mất và
được nâng cao trong các triều đại sau này. Minh chứng là triều đình nhà Tống,
nhà Minh (1368-1644) đã phong ơng nhiều tước vị khác nhau như: “Sùng
Ninh Chân Vương”, “Chiêu Liệt Võ An Vương”, “ Nghĩa Dũng Võ An
Vương”. Đặc biệt, năm 1828, vào đời nhà Thanh, vua Đạo Quang (Thanh
8
Nghị Tông) đã phong Quan Công một tước vị đặc biệt: “ Trung Nghĩa Thần
Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Quan Thánh Đại Đế .
Theo giáo sư tiến sĩ người Hà Lan Barend Ter Haar, một nhà nghiên
cứu văn hóa Trung Quốc của Đại học Hamburg và tác giả sách “Guan Yu: The
Religious Afterlife of a Failed Hero” thì "sự nghiệp tâm linh kiếp sau" của
Quan Vũ bắt đầu với giai đoạn là một "con ma đói" được dân địa phương lập
miếu thờ để cầu an, qua mấy trăm năm trắc trở đến thời nhà Đường thì được
"phong thánh" trở thành "Quan Công", được đưa vào miếu thờ của Phật giáo.
Đến thời nhà Tống, "Quan Công" được đưa vào nghi lễ cúng bái trừ
tà của Đạo Giáo, rồi đến thời nhà Minh, nhà Thanh, được phong làm "Quan
Thánh", "Quan Đế". Lịch sử tiếp thêm chiều kích tơ đậm thêm tính chất
huyền thoại của một nhân vật lịch sử. Vây quanh nhân vật Quan Cơng, khơng
chỉ có sự thật mà còn tập hợp nhiều câu chuyện thêu dệt, những ước nguyện
mà con người ký thác qua đối tượng thờ tự. Từ đó hình tượng Quan Cơng trở
nên uy nghiêm và in đậm hơn trong tâm thức người Hoa.
Hình tượng Quan Cơng cũng ln đi với hình tượng bà Thiên Hậu
trong việc thờ cúng của người Hoa khi đến Nam Bộ. Đối với người Hoa ở
Nam Bộ, hình tượng Quan Cơng đại diện cho nhiều điều tốt đẹp mà trong tâm
thức của người Hoa ln hướng đến. Quan Cơng có nhiều phẩm chất đạo đức
tốt đẹp mà các nhóm người này ngưỡng mộ: trung, dũng, lễ, nghĩa, tín, trực,
liêm, chính. Ơng trọng điều nghĩa, giữ chữ tín, là bầy tơi trung thành. Dù
được Tào Tháo hậu đãi nhưng ông không từ bỏ Lưu Bị; theo Lưu Bị nhiều
năm phải trải qua gian lao khó nhọc nhưng ơng vẫn một lịng khơng thay
đổi. Ba tôn giáo lớn ở Châu Á là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đều xem
Quan Công là vị thần đáng sùng kính. Nho giáo tơn xưng ơng làm Văn Hồnh
Thánh Đế, Đạo giáo tơn xưng ơng là Hiệp Thiên Đại Đế, cịn Phật giáo tơn
xưng ơng là Hộ Pháp Già Lam, nên việc dùng hình ảnh Quan Cơng sẽ giúp
quy tụ được nhiều anh hùng nghĩa sĩ hơn. Những người làm nghề buôn bán
cũng thờ Quan Công và chú trọng đến chữ “Tín” trong làm ăn kinh doanh.
9
Người Hoa tin rằng khi thờ Quan Công ông sẽ bảo vệ và mang đến may mắn,
tiền bạc cho họ. Và chính ơng hay hiển linh, trừ ma, đuổi tà, giúp nước, cứu
đời nên được sắc phong “Tam giới Phục ma Đại đế Thần uy Viễn trấn Thiên
tôn Quan Thánh Đế Quân” và được lập miếu thờ ở nhiều nơi. Từ đó, chứng tỏ
hình tượng của ơng đối với tâm thức người Hoa ở Nam Bộ vô cùng vĩ đại,
người Hoa ln kính trọng và hằng năm thì hầu như người Hoa nào cũng sẽ
đến Miếu Quan Thánh ( Chùa Ông ) để viếng và cầu nguyện ông như cầu
nguyện một vị thần linh.
Hình 3 : Tượng Quan Cơng được
thờ trong những ngôi miếu, chùa
của người Hoa ở Nam Bộ
Nguồn : Báo Cần Thơ
/>
Chương III : Cách người Hoa ở Nam Bộ thờ Quan Công
Người Hoa vốn rất tôn sùng Quan Công nên họ đã lập miếu thờ ông, các
miếu này ngày nay thường là các Hội quán, Miếu Ông hay người Việt vẫn
quen gọi là Chùa Ông. Ông cũng có thể được thờ trong các chùa Bà Thiên
Hậu, khi đó ơng sẽ được đặt bên hữu. Trong các ngơi chùa Ơng ở Nam Bộ tuy
có sự khác biệt về quy mơ và cơ sở nhưng nhìn chung về cách người Hoa tỏ
lịng thành kính với ơng hầu như là giống nhau ở các địa phương khác nhau
trong Nam Bộ. Về cách thờ ơng thì trong các Hội qn và các Quan Đế Miếu
10
tượng của ông sẽ được đặt thờ ở gian giữa chánh điện. Trong một số ngôi
chùa Hoa khác, Quan Công được thờ trên chánh điện với tư cách là Già Lam
Thánh Chúng hộ trì tam bảo. Tại Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm và Giác Thiền Tự
của người Hoa ở Thành phố Cà Mau, Quan Công tay cầm Thanh Long đao
được thờ cùng Vi Đà Hộ Pháp, cả hai ông đứng chầu hầu Phật A Di Đà ở gian
giữa chánh điện. Theo hầu hai bên tả hữu có Quan Bình và Châu Xương là
con trai và người dũng sĩ trung thành của ơng. Ngồi thờ Quan Cơng, trong
các miếu cịn có thờ thêm: Thiên Hậu, Phước Đức Chính thần, Quan Am,
Thanh Long, Bạch Hổ, Tề Thiên, Bao Công, Ngũ Hành Nương Nương, Hỏa
Đức Nương Nương,… và càng không thể thiếu Mã Đầu tướng qn cùng
ngựa Xích Thố. Nói một chút về tượng Quan Cơng thì đa số tượng của ơng
được khắc họa với khn mặt đỏ, có bộ râu đen dài, mặc áo giáp uy nghiêm
ngồi chững chạc, một số nơi thì tạc tượng ơng ngồi để hai tay lên trên gối,
một số nơi thì tạc tượng ơng trên tay cầm thêm một thanh long đao. Trước
tượng của ơng có bảng đề ghi tên của ông bằng cả tiếng Việt và tiếng Hán,
xung quanh gian thờ có nhiều câu đối bằng chữ Hán được chạm khắc trên các
cây cột hay trên các vách bằng gỗ tinh tế. Trước tượng thờ của ông trưng bày
mâm trái cây, lễ vật, đèn và bát nhang cho người vào viếng thắp. Gian thờ
luôn được giữ gìn sạch sẽ, được thường xuyên lau dọn và lúc nào cũng sáng
đèn. Nến cũng được thắp thường xuyên quanh bàn thờ của ơng. Nói về miếu
thờ Quan Cơng, tác giả Võ Văn Hoàng đã nhận xét về nghệ thuật trang trí
trong các ngơi miếu Hoa ở Nam bộ, trong đó có các ngơi miếu thờ Quan
Cơng: “Trên các bức tranh, bức bình phong tại một số đền miếu, hình ảnh
làng quê Nam bộ cũng được các nghệ nhân để tâm trau chuốt, khắc họa
rất tỉ mĩ, cẩn thận đến từng chi tiết nhỏ, như gửi gắm vào đó tất cả tâm tư,
tình cảm và nỗi niềm của mình về một miền q thanh bình, êm ả, với bụi
tre, khóm trúc, với con đường mòn uốn lượn quanh co , với kênh rạch
chằng chịt, với chiếc cầu tre lắt lẻo bắt ngang sông, với chiếc xuồng ba lá,
với cánh đồng bạt ngàn, với những giàn bầu sai quả, với chim, chuột, với
ao sen rực rỡ, và có cả bầy vịt trời đang bay lượn”.
11
Hình 4 : Thất Phủ Cổ Miếu – Chùa Ơng Cù Lao Phố ở Biên Hòa
Nguồn : Huỳnh Trần Huy chụp
Hình 5 : Bên trong Thất Phủ Cổ Miếu – Chùa Ơng Cù Lao Phố Biên Hịa
Nguồn : Huỳnh Trần Huy chụp
Người Hoa ở Nam Bộ thường tổ chức ngày vía Quan Cơng vào các
ngày 13 tháng 1 âm lịch (vía Quan Cơng qui y tam bảo ), 13 tháng 5 âm lịch
(vía sanh) và ngày 23 tháng 6 âm lịch (vía tử) âm lịch hàng năm. Tuy nhiên,
có nơi người ta tổ chức lễ cúng lớn của miếu thờ Quan Công không theo các
ngày này mà vào dịp rằm tháng 7 âm lịch kết hợp với lễ xá tội vong nhân và
trường hợp Thất Phủ Võ miếu ở huyện Ba Tri - một ngôi miếu cổ (thế kỷ
12
XIX) của người Hoa ở Bến Tre là tiêu biểu. Đây thật sự là những ngày hội lớn
đối với cộng đồng người Hoa lẫn người Việt ở đây. Họ đến thắp hương nhằm
tưởng nhớ và cầu mong Quan Công phù hộ đơ trì cho tai qua nạn khỏi, làm ăn
phát tài phát lộc. Có người đến đây xin xăm để biết về vận rủi và tương lai
của mình sau khi lạy Quan Cơng. Lễ hội vía Quan Cơng này đã thu hút nhiều
khách thập phương đến cúng bái với nhiều lễ vật phong phú như: heo quay,
vịt quay, xôi bánh, trái cây,…. Nổi bật là các loại bánh đặc trưng của người
Hoa như: bánh quả đào, bánh tổ, bánh đậu xanh, bông lan,…trông đầy màu
sắc, rực rỡ. Tất cả lễ vật được đặt trang trọng trước bàn thờ tượng Quan Cơng
rồi bắt đầu lễ khấn, có vài người sẽ đứng dâng hương và một người sẽ đọc bài
tế với nội dung nói về lịng thành của mọi người kính cẩn dâng lễ vật lên
Quan Cơng. Sau đó khi khách đến thăm viếng và thắp nhang có thể sẽ được
mời dùng bữa và nói chuyện.
Đối với những gia đình người Hoa muốn thờ Quan Cơng trong nhà thì
họ sẽ chuẩn bị một trang thờ sạch sẽ, nằm ở một vị trí uy nghiêm để đặt tượng
của Quan Công thỉnh về hoặc nếu khơng có tượng thì người Hoa sẽ thờ bức
tranh vẽ Quan Cơng. Khi trang bị mọi thứ đâu đó sẵn sàng thì chọn ngày tốt
mà thiết lập bàn thờ. Gia chủ sẽ mua hoa, quả, chuẩn bị hương án để làm lễ
thỉnh. Khi hành lễ chỉ cần thành tâm chấp tay khấn như sau : "...Con tên ...,
…..tuổi, vì ngưỡng mộ sự trung nghĩa và đức độ của Ngài mà nay đã thiết lập
bàn thờ Ngài tại tư gia/cơ quan như vầy. Kính mong triệu thỉnh Ngài Quan
Thánh Đế Qn nhập tượng, trấn trạch, duy trì chánh khí trong nhà. Và xin
nguyện sẽ cố gắng noi theo sự dạy bảo của Ngài. Đệ tử thành tâm phụng
thỉnh! “ sau đó rồi lạy 3 lần, mỗi lần 1 lạy. Bàn thờ Quan Công gia chủ phải
luôn dọn dẹp để giữ cho sạch sẽ, ngăn nắp, trang bị đèn nhỏ trên bàn thờ của
ông sao cho độ sáng vừa phải. Trước bàn thờ của Quan Cơng, những người
trong gia đình phải nghiêm trang, hành động chuẩn mực, khơng nói bậy, nói
dối hay làm việc gian trá. Cứ mỗi khi đến ngày viếng ông, người Hoa sẽ
chuẩn bị cỗ để cúng và cầu nguyện đến ông để được ban phước, mong ước
cho những điều thuận lợi và thành công trong tương lai.
13
Hình 6 vả 7 : Tượng Quan Cơng trên gian thờ ở Chùa Ơng Cù Lao Phố Biên
Hịa và nghi thức lễ tế trong ngày vía Quan Cơng ở Cần Thơ
( Nguồn : Huỳnh Trần Huy và )
Chương IV : Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Quan Cơng ở Nam Bộ
14
Không chỉ trong những ngày lễ quan trọng mà vào ngày thường, người
Hoa cũng đến miếu Quan Công thắp nhang, cúng bái để cầu tự, xin xăm, cầu
bình an, sức khỏe cho gia đình,… Người Hoa ở Nam Bộ thờ Quan Cơng
khơng chỉ có ý nghĩa là giữ gìn truyền thống quê hương khi di cư qua nước
Việt mà còn thể hiện sự ngưỡng mộ và kính trọng của mình dành cho ông.
Người Hoa xem ông là biểu tượng của sự trung nghĩa, đại diện cho sức
mạnh của con người. Ơng cịn đại diện cho tấm lịng sắt son, ln một dạ
một lịng và khơng hề thay đổi trước sự cám dỗ của hồn cảnh. Tín ngưỡng
thờ Quan Cơng góp phần tạo nên sự đa dạng, mang đến một nét đẹp văn hóa
bổ sung thêm cho tồn cảnh bức tranh văn hóa của Nam Bộ. Tín ngưỡng thờ
Quan Cơng đã tạo nên sức hấp dẫn góp phần thúc đẩy du lịch tâm linh cho
vùng Nam Bộ bên cạnh những tín ngưỡng và tơn giáo khác ở Nam Bộ. Tín
ngưỡng thờ Quan Công phản ánh được những khát khao, ước mơ của những
con người bình dân đất Nam Bộ mong muốn cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
bình an. Những giá trị lịch sử và giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Quan
Công ở Nam Bộ là những giá trị quan trọng, đóng góp lớn vào sự hình thành
và phát triển của văn hóa tâm linh vùng đất này.
Chương V : Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Quan Cơng đến
văn hóa người Việt ở Nam Bộ
Văn hóa người Việt nói chung và ở Nam Bộ nói riêng từ lâu đã bị ảnh
hưởng bởi nền văn hóa Trung Hoa. Người Việt chúng ta sống hòa thuận, thân
thiện với người Hoa ở Nam Bộ, hai dân tộc Việt – Hoa ngày càng thắm thiết,
đoàn kết hơn với nhau trong cuộc sống. Trong văn hóa, cả hai dân tộc tiếp
biến, trao đổi giao lưu văn hóa với nhau, người Việt cũng tiếp nhận tín
ngưỡng thờ Quan Công của dân tộc Hoa và sau này tín ngưỡng thờ Quan
Cơng khơng cịn chỉ dành cho người Hoa mà còn dành cho người Việt và
nhiều dân tộc khác. Bằng chứng chúng ta có thể thấy là vào những ngày lễ
15
trong năm, lượng người Việt đi đến những ngôi chùa của người cũng khá
nhiều và ngày càng tăng bên cạnh những ngơi chùa Phật Giáo. Người Việt
cũng thích truyện Tàu và cũng thích Tam Quốc Diễn Nghĩa nên cũng kính
trọng hình tượng Quan Cơng với những phẩm chất tốt đẹp và sức mạnh của
ông. Người Việt cũng như người Hoa, đều mong muốn có cuộc sống yên vui,
thuận lợi và hạnh phúc và đặc biệt khi kinh doanh, buôn bán, người Việt cũng
mong muốn được “buôn may bán đắt” nên cũng muốn đến cầu nguyện với
Quan Cơng. Hình tượng Quan Cơng ngày càng chiếm vị trí trong tâm thức
của người Việt bên cạnh những hình tượng thần linh khác từ các tín ngưỡng,
tơn giáo khác. Điều này cũng tạo thêm sự phong phú và đa dạng trong tín
ngưỡng của người Việt ở Nam Bộ và còn đặc biệt hơn khi người Việt vẫn tiếp
nhận hình tượng Quan Cơng nhưng vẫn giữ gìn những hình tượng thần linh
khác trong nét văn hóa tín ngưỡng riêng của mình tức là tinh thần “vừa tiếp
nhận vừa gìn giữ”. Tín ngưỡng thờ Quan Cơng ngày càng trở nên phổ biến
hơn đối với người Việt cả ngày xưa và thời hiện đại bây giờ
Hình 8 : Người dân đi lễ vía Quan Cơng tại một ngơi Miếu Quan Thánh
Nguồn : bandantoc.hochiminh.city.gov.vn
Chương VI : Gìn giữ và phát huy giá trị trước các thách thức
16
Trước vô vàn những sự thay đổi của thời đại thì việc giữ gìn những giá
trị truyền thống nhất là những giá trị tốt đẹp của các tín ngưỡng truyền thống
rất quan trọng. Tín ngưỡng thờ Quan Cơng của người Hoa cũng là một trong
những tín ngưỡng cần gìn giữ trước sự thay đổi đang dần diễn ra. Thách thức
lớn nhất là sự thay đổi về quan niệm của người đi lễ vía. Khơng chỉ một số
người Hoa mà người Việt và một vài các dân tộc khác, những người đi lễ
ngày càng lãng phí tiền bạc mua sắm lễ vật và mua sắm nhiều vàng mã để đốt
vì quan niệm cúng càng nhiều càng được ban phước nhiều. Điều này khơng
chỉ làm mất đi hình tượng Quan Cơng khi ông bị xem như là một “cỗ máy đáp
ứng” cho những tham vọng cá nhân của con người mà còn tạo điều kiện cho
nhiều kẻ “buôn thần bán thánh” lợi dụng kiếm tiền trục lợi. Làm sao để giữ
gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp ban đầu thì khơng chỉ địi hỏi cơ quan có
thẩm quyền mà cịn phải cần ở ý thức đúng đắn trong tín ngưỡng của mỗi
người dân chúng ta. Hình tượng Quan Cơng vốn rất đẹp và chính nghĩa nên
cũng cần những con người tốt đẹp trong ý thức để tín ngưỡng này mãi là một
giá trị làm nên vẻ đẹp văn hóa Nam Bộ chứ không phải là một vấn đề gây
nhức nhối. Vẻ đẹp của văn hóa vốn là vẻ đẹp từ sự kết tinh của nhiều cái đẹp
của những thành tố văn hóa nên ta hãy giữ gìn và phát huy giá trị tốt đẹp của
tín ngưỡng thờ Quan Cơng từ những điều nhỏ nhất. Điều này có thể được
thực hiện bởi sự chân thành trong tâm thức và sự thay đổi cho đúng đắn về
nhận thức với ý thức của mỗi chúng ta trong việc thực hành tín ngưỡng thờ
Quan Cơng để làm cho tín ngưỡng này mãi mãi sáng tươi thông qua những
giá trị tốt đẹp đến với cuộc sống của những con người ở vùng đất Nam Bộ.
PHẦN KẾT LUẬN
Tín ngưỡng thờ Quan Cơng ở Nam Bộ là vấn đề có ý nghĩa và hết sức
quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa người Hoa ở Nam bộ. Tín ngưỡng
này thể hiện vấn đề giao thoa tiếp biến văn hóa Việt, Hoa ở vùng đất Nam bộ.
17
Quan Công không chỉ trở thành vị thần phù hộ cho cộng đồng người Hoa mà
còn cả người Việt, ngay trong từng mỗi gia đình. Đó khơng chỉ dừng lại đơn
thuần về mặt tín ngưỡng mà cịn có ý nghĩa rộng hơn về phương diện văn hóa,
là những giá trị độc đáo của người Hoa nói riêng và con người Nam Bộ nói
chung. Tín ngưỡng thờ Quan Cơng thể hiện sự khát khao và mong muốn cuộc
sống thuận lợi, phát tài, mạnh khỏe. Hình tượng Quan Cơng đại diện cho sự
trung nghĩa, chính trực cũng là một trong những tính cách cần có ở trong mỗi
con người. Có thế, con người mới sống hài hòa và vui vẻ với nhau. Miếu thờ
Quan Cơng cũng là một cơng trình có nhiều giá trị lịch sử và mỹ thuật thể
hiện được sự tài tình của những người nghệ nhân dân tộc Hoa trong việc bày
tỏ sự thành kính và gửi gắm những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng này trong
các họa tiết hoa văn. Tín ngưỡng thờ Quan Cơng cũng tạo nên nét độc đáo
khác là lễ vía Quan Cơng đặc trưng được tổ chức hằng năm quy tụ nhiều du
khách đến tham quan, tìm hiểu và hành hương. Tuy cũng đối mặt với khơng ít
thách thức từ các yếu tố khách quan của thời đại và yếu tố chủ quan của con
người nhưng tóm lại ngưỡng thờ Quan Cơng vẫn là một giá trị truyền thống
tốt đẹp của người Hoa ở Nam Bộ nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều Tác giả: Sổ tay hành hương đất phương Nam, Tp.HCM, NXB.
TP.HCM, 2003, trang 216.
2. Dương Hồng Lộc, Tín ngưỡng thờ Quan Cơng ở Nam Bộ
/>option=com_content&view=article&id=1195:tin-ngng-th-quan-cong-nam-b-tgoc-nhin-giao-lu-vn-hoa&catid=97:vn-hoa-dan-gian&Itemid=155
3. Lê Hải Đăng Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (157), 2020 .
/>18
4. Wikipedia,_ />%C3%ACnh_t%C6%B0%E1%BB%A3ng_trong_v%C4%83n_h
%E1%BB%8Dc_ngh%E1%BB%87_thu%E1%BA%ADt
5. />6. Khảo sát thực tế, phỏng vấn tại chùa Ơng Cù Lao Phố ở TP. Biên Hịa,
Đồng Nai
7. Thất Phủ Cổ Miếu – Chùa Ơng Biên Hịa, Ban Trị Sự Thất Phủ Cổ Miếu,
xuất bản năm 2011
8. />9. />10.
)
11. bandantoc.hochiminh.city.gov.vn
19
20