BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ DIỄM KIỀU
QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ Ở HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH
TÂY NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Đinh Trung Thành
Nghệ An, 2017
i
LỜI CẢM ƠN
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phịng Đào tạo Sau đại học, Khoa
Giáo dục chính trị cùng tồn thể các cơ giáo, thầy giáo của trường Đại học Vinh;
Khoa liên kết đào tạo Trường Đại học Kinh tế Cơng nghiệp tỉnh Long An đã tận
tình hỗ trợ, hướng dẫn, giảng dạy nhiệt tình và truyền đạt nhiều kiến thức quý
báu trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Đinh Trung Thành đã tận tình dìu
dắt, hướng dẫn cho tơi được hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn lớp Cao học khóa 23, gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn đến UBND tỉnh Tây Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy
Tây Ninh, Ban Thường vụ Huyện ủy Châu Thành, nhất là các đồng chí lãnh đạo,
chuyên viên Ban Tổ chức Huyện ủy Châu Thành-Tây Ninh đã hỗ trợ, giúp đỡ,
tạo điều kiện cho tôi trong thời gian tham gia học tập, nghiên cứu khoa học và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 7 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Diễm Kiều
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
A. MỞ ĐẦU
i
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn 6
7. Kết cấu của luận văn 7
B. NỘI DUNG
8
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ
8
1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt và quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị cấp xã
8
1.1.1. Quan niệm, vai trò và đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị cấp xã
8
1.1.2. Quy hoạch cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã: khái niệm, nội
dung và những vấn đề có tính nguyên tắc
20
1.2. Sự cần thiết khách quan của quy hoạch cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị cấp xã
41
1.2.1. Quy hoạch cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã là khâu quan
trọng, góp phần quyết định chất lượng cán bộ cơ sở
41
1.2.2. Quy hoạch cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã xuất phát từ
thực trạng công tác cán bộ và công tác quy hoạch cán bộ còn nhiều bất cập 44
iii
1.2.3. Quy hoạch cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã là nhân tố đảm
bảo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở
45
Kết luận chương 1 47
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
48
CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ Ở HUYỆN CHÂU
THÀNH, TỈNH TÂY NINH
48
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
48
48
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội 49
2.2. Đánh giá thực trạng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
53
2.2.1. Tình hình đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện
Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
53
2.2.2. Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp
xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh thời gian qua
56
Kết luận chương 2 75
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CẤP XÃ Ở HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH 76
3.1. Phương hướng quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị
cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh 76
3.1.1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn trong cơng tác quy hoạch đội ngũ cán
bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
76
iv
3.1.2. Phương hướng quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị
cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đến 2020
80
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
85
3.2.1. Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và hệ thống chính trị về công
tác quy hoạch cán bộ
85
3.2.2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, trước
hết là đổi mới công tác đánh giá cán bộ
90
3.2.3. Đổi mới công tác tạo nguồn cán bộ theo hướng lựa chọn những sinh viên
tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học có chất lượng bố trí về cơng tác tại cơ
sở
96
3.2.4. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong quy hoạch chức danh cán bộ; quản lý, sắp xếp, phân công, bố trí, sử dụng
cán bộ theo quy hoạch
98
3.2.5. Thực hiện nghiêm cơ cấu 3 độ tuổi trong quy hoạch cấp ủy và đội ngũ
lãnh đạo, quản lý các cấp 105
3.2.6. Đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện,
thử thách cán bộ trong thực tiễn 106
3.2.7. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương cho cán bộ, công chức; tăng cường
hơn nữa và thực hiện có hiệu quả các chính sách thu hút nhân tài
108
3.2.8. Định kỳ kiểm tra, đánh giá, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch
110
3.2.9. Xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu làm công tác tổ chức-cán bộ. Tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên
111
Kết luận chương 3 115
C. KẾT LUẬN
116
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
v
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.
BCH
Ban Chấp hành
2.
BHXH
Bảo hiểm xã hội
3.
BHYT
Bảo hiểm y tế
4.
BTV
Ban Thường vụ
5.
BTVHU
Ban Thường vụ Huyện ủy
6.
CMNV
Chuyên mơn nghiệp vụ
7.
CNH
Cơng nghiệp hóa
8.
CUV
Cấp ủy viên
9.
CT
Chủ tịch
10.
ĐNCB
Đội ngũ cán bộ
11.
HĐH
Hiện đại hóa
12.
HĐND
Hội đồng nhân dân
13.
HTX
Hợp tác xã
14.
MTTQ
Mặt trận tổ quốc
15.
Nxb
Nhà xuất bản
16.
LLCT
Lý luận chính trị
17.
PCT
Phó chủ tịch
18.
PBTĐU
Phó bí thư đảng ủy
19.
QHCB
Quy hoạch cán bộ
20.
THCS
Trung học cơ sở
21.
THPT
Trung học phổ thông
22.
TTĐU
Thường trực đảng ủy
23.
UBMTTQ
Ủy ban Mặt trận tổ quốc
24.
UBND
Ủy ban nhân dân
25.
VHTT
Văn hóa thơng tin
26.
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng hơn 87 năm qua, Đảng ta luôn quan
tâm đến công tác cán bộ và xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ
đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”.
Cấp cơ sở là một trong bốn cấp lãnh đạo và quản lý trong hệ thống chính
trị. Đội ngũ cán bộ ở cơ sở có số lượng lớn nhất, giữ vai trị quyết định năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, năng lực và hiệu quả quản lý
của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Có củng cố, kiện tồn đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mới có thể tăng cường
khả năng lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ở cơ sở phát triển. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
vững mạnh là một trong những nguồn quan trọng cung cấp cán bộ cho cấp trên.
Đồng thời, nguồn cán bộ ở cơ sở vẫn đang là một khó khăn lớn trong xây dựng
đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là khi xu hướng "ly hương" trong thanh niên, học
sinh, sinh viên đang tăng mạnh. Vì vậy, xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp cơ sở mang tính cấp bách.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, có lúc, có nơi, một số cấp ủy ở cơ sở
cịn xem nhẹ hoặc làm một cách hình thức, chiếu lệ khâu này; nhiều nơi "quy
hoạch xong để đấy, quy hoạch một đường, làm một nẻo"; công tác quy hoạch
cán bộ chưa có tính thuyết phục, chưa đi vào cuộc sống. Vì vậy, việc bố trí, sắp
xếp cán bộ vẫn cịn chắp vá, bị động, tình trạng hụt hẫng cán bộ kế cận ở các
cấp, các ngành và địa phương khá phổ biến.
2
Đất nước đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, với yêu cầu về hợp tác và hội nhập quốc tế. Hơn
lúc nào hết, tình hình đó địi hỏi phải xây dựng một đội ngũ cán bộ đồng bộ, có
đủ phẩm chất và năng lực để chốt giữ vị trí then chốt trong bộ máy của Đảng,
Nhà nước nói riêng, của hệ thống chính trị nói chung, nhất là hệ thống chính trị
cấp cơ sở. Để đáp ứng yêu cầu trên, Báo cáo của Bộ chính trị tại Hội nghị Trung
ương 6 (khóa IX) nhấn mạnh: "Đổi mới nhận thức và cách làm quy hoạch cán
bộ... cần xem việc quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý gắn với luân chuyển và
đào tạo là khâu đột phá trong công tác tổ chức và cán bộ để tập trung lãnh đạo,
tổ chức thực hiện”.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác quy hoạch cán
bộ, được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường vụ Huyện ủy
Châu Thành, tỉnh Tây Ninh luôn quan tâm và đặt công tác quy hoạch cán bộ, đặt
biệt là công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã,
trở thành cơng tác trọng tâm thường xuyên, chăm lo xây dựng và rèn luyện nên
các thế hệ cán bộ kế tiếp nhau đảm đương và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ
của từng thời kỳ cách mạng.
Tuy vậy, nhiều năm qua, do việc khảo sát, đánh giá cán bộ chưa sát với
tình hình thực tế, cịn những biểu hiện thiếu dân chủ, làm khơng đúng quy trình,
việc triển khai quy hoạch cán bộ ở các cấp, các ngành, trong đó việc triển khai
công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã kết
quả cịn nhiều hạn chế; đội ngũ cán bộ chủ chốt còn hụt hẫng và thiếu đồng bộ.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới và yêu cầu nhiệm
vụ chính trị địa phương, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Quy hoạch đội ngũ cán
bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây
Ninh trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành
Chính trị học.
3
Xuất phát từ vị trí, vai trị quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ, mà
nhiều cơ quan, nhà khoa học, nhiều cán bộ, đã tập trung nghiên cứu vấn đề này,
đã có khơng ít đề tài, báo cáo, bài viết và cơng trình nghiên cứu về cơng tác quy
hoạch cán bộ với các góc độ, khía cạnh, phạm vi, thời gian khác nhau được công
bố, chẳng hạn như:
- Nhận định về chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã: Cao
Thị Minh Nguyệt (2014), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp xã - Thực tế của Thị xã Thái Hòa, Nghệ An, Tạp chí Xây dựng Đảng,
Số 9/2014.
- Những cơng trình nghiên cứu về cơng tác quy hoạch cán bộ trong thời
gian qua:
+ Ngô Huy Tiếp và Nguyễn Trung Vệ (2012), Công tác quy hoạch cán bộ
chủ chốt diện Ban Thường vụ Huyện ủy Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên quản lý trong
giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng & Chính quyền Nhà nước,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
+ Nguyễn Ngọc Tuấn (2015), Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc
diện Ban Thường vụ Huyện ủy Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh quản lý trong giai đoạn
hiện nay, Luận Văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Trường Đại học Vinh.
+ PGS.TS Đinh Ngọc Giang và Vũ Thanh Nga (2015), Công tác quy
hoạch cán bộ phường thuộc diện Ban Thường vụ Quân ủy Long Biên, T.P Hà
Nội quản lý hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng & Chính quyền Nhà
nước, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
+ TS Lê Trọng Hanh và Nguyễn Hoàng Hiệp (2015), Công tác quy hoạch
cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai quản lý, Luận văn Thạc sĩ Xây
dựng Đảng & Chính quyền Nhà nước, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Những nhận định, đánh giá về công tác quy hoạch cán bộ trong thời gian
qua của nhiều tác giả:
4
+ Nguyễn Thị Minh Hạnh (2015), Công tác quy hoạch cán bộ nữ ở tỉnh
Vĩnh Long, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 08/2015.
+ Trần Lưu Hải (2015), Một số vấn đề về công tác quy hoạch, luân
chuyển cán bộ - thành tựu, hạn chế và phương hướng, giải pháp khắc phục, Tạp
chí Cộng sản, Số 01/2015.
+ Trần Lưu Hải (2015), Một chặng đường đổi mới trong công tác tổ chức,
cán bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 10/2015.
+ Trần Lưu Hải (2016), Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, chuẩn bị tốt
công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp, bảo đảm thành công Đại hội XII của
Đảng, Tạp chí Cộng sản, Số 09/2016.
+ Trung tướng Nguyễn Văn Đông (2014), Đổi mới quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI, Tạp chí Xây
dựng Đảng, Số 01/2014.
Những đề tài nghiên cứu, những cơng trình, bài viết trên đã đề cập vấn đề
quy hoạch cán bộ nói chung hoặc là quy hoạch cán bộ riêng của một số địa
phương, đơn vị. Cho đến nay chưa có tác giả nào cơng bố đề tài về quy hoạch
đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành,
tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn này có sự kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các cơng trình
nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan về cơng tác quy hoạch
cán bộ, để tập trung nghiên cứu sâu vấn đề trên, góp phần làm tốt cơng tác quy
hoạch cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã, của huyện trong giai đoạn
hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay.
5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác quy hoạch đội ngũ
cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá đúng cơng tác quy hoạch đội ngũ cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh từ
năm 2010 đến nay; chỉ ra nguyên nhân những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót, rút ra
những kinh nghiệm trong quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
- Xây dựng phương hướng, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng quy
hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu
Thành, tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh từ năm 2010
đến nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Theo Công văn số
247-CV/HU, ngày 19/7/2016 của Ban Thường vụ Huyện ủy Châu Thành về quy
định chức danh diện Đảng ủy xã, thị trấn quản lý, gồm có 07 loại chức danh.
Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu giới hạn của đề tài, chỉ nghiên cứu việc quy
hoạch các chức danh cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã thuộc diện
Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý như sau: Ủy viên BTV, BCH xã, thị trấn; Bí
thư, Phó bí thư xã, thị trấn; Chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND xã, thị trấn.
Khơng đi sâu nghiên cứu các chức danh cán bộ chủ chốt khác trong phạm vi xã,
thị trấn mà Ban Thường vụ Huyện ủy Châu Thành quy định.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về cán bộ, cơng tác cán bộ nói chung và cơng tác quy hoạch cán
bộ nói riêng, có kế thừa các cơng trình khoa học đã được cơng bố liên quan đến
đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp
cụ thể như: Lơgíc - lịch sử, thống kê, khảo sát thực tế; phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Nghiên cứu một cách hệ thống những luận cứ khoa học, làm rõ quan
niệm, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy trình về quy hoạch đội
ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã.
Đánh giá đúng thực trạng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Đề xuất
phương hướng và những giải pháp nâng cao chất lượng quy hoạch đội ngũ cán
bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh,
góp phần đổi mới công tác cán bộ của huyện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ cho việc sơ,
tổng kết về công tác cán bộ nói chung và cơng tác quy hoạch cán bộ của huyện
và làm cơ sở để xây dựng một số kế hoạch, đề án về quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, bố trí, sắp xếp và thực hiện chính sách đối với
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp cơ sở trong giai đoạn từ nay đến năm
2020 và những năm tiếp theo.
Luận văn cũng có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy cho
7
đội ngũ cán bộ ở trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn chia làm 3 chương, 6 tiết.
8
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ
1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt và quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cấp xã
1.1.1. Quan niệm, vai trò và đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cấp xã
1.1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1.1. Cán bộ
Ở nước ta, từ "công chức" cũng được dùng từ lâu và có nhiều văn bản đã
quy định. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 76/SL
về quy chế công chức. Năm 1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban
hành Nghị định 169/HĐBT quy định đối tượng công chức. Ngày 13/11/2008 ủy
ban Thường vụ Quốc hội ban hành Luật cán bộ công chức, trong đó tại Điều 4
nêu: “Cơng chức là cơng dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun nghiệp,
cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật” [34]. Theo Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002 công
chức là: "Người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
9
trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp" [45, tr.207].
Tuy vậy trong thời gian dài từ cơng chức ít được sử dụng, từ cán bộ gần như
được dùng thay thế cho từ công chức. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, trở lại
đây đã có người ta thường gọi những người cơng tác trong các cơ quan nhà nước
là công chức, những người đang cơng tác trong các cơ quan Đảng, đồn thể là
cán bộ. Song tiêu thức phân biệt giữa khái niệm cán bộ và khái niệm công chức
chưa thực sự rõ ràng.
Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm
1999, từ cán bộ được định nghĩa là:
- Người làm việc trong cơ quan nhà nước.
- Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường khơng giữ chức vụ
trong các cơ quan tổ chức nhà nước [31, tr.249].
Trong cuốn "Từ điển tiếng Việt", Nxb Đà Nẵng, năm 2002, cán bộ có hai
nghĩa:
- Người làm cơng tác có nghiệp vụ, chun mơn trong cơ quan nhà nước.
Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị.
- Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân
biệt với người thường không có chức vụ. Đồn kết giữa cán bộ và chiến sĩ. Họp
cán bộ và công nhân nhà máy. Làm cán bộ Đoàn thanh niên [45, tr.109].
Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", từ cán bộ được dùng với rất
nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
Một là, chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên,
hội viên; hai là, người làm cơng tác chun trách có hưởng lương trong các tổ chức
này.
10
- Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trưởng trở lên (cán bộ tiểu
đội, cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn...) và thường là sĩ quan từ cấp úy trở lên.
- Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản trùng với từ công
chức, chỉ những người làm việc trong các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp.
Đồng thời cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách,
lãnh đạo (trưởng, phó phịng...).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có
khác nhau, nhưng về cơ bản từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ khung,
là nịng cốt là chỉ huy. Như vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất, "cán bộ
là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một
tổ chức và có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ
trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng cho sự phát
triển của tổ chức" [40, tr.18].
Từ những điều nêu trên, chúng ta có thể khẳng định: Cán bộ là một phạm
trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức của Đảng,
Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả những
người giữ chức vụ lẫn những người làm cơng tác chun mơn nghiệp vụ khơng
giữ chức vụ.
Ngồi ra có thể phân loại theo thẩm quyền chủ thể quản lý cán bộ (được
quy định tại quyết định phân cấp quản lý cán bộ): Cán bộ thuộc diện Trung ương
quản lý (Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương), cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh ủy
(thành ủy) quản lý, cán bộ thuộc diện BTV Huyện ủy (quận ủy) quản lý... Trên
cơ sở phân loại cán bộ như trên chúng ta thấy cần làm rõ khái niệm vị trí, vai trị,
đặc điểm của từng loại cán bộ, từ đó mới có cơ sở vững chắc để xây dựng,
hoạch định các chủ trương, chính sách về cơng tác cán bộ. Trong khuôn khổ giới
hạn của đề tài, ở đây chúng ta đi sâu vào khái niệm sau:
11
1.1.1.1.2. Cán bộ chủ chốt:
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, định nghĩa: "Chủ chốt quan
trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [45, tr.174].
Trong mỗi tổ chức có những người lãnh đạo, nhiều tổ chức có tập thể lãnh
đạo. Những người đó là cán bộ chủ chốt. Vậy cán bộ chủ chốt là những người
đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối toàn bộ hoạt động của một tổ
chức nhất định.
Khi nghiên cứu cán bộ chủ chốt cần phân biệt cán bộ chủ chốt với cán bộ
lãnh đạo chủ chốt. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu trong một tổ
chức, cán bộ chủ chốt là những người lãnh đạo của một tổ chức nhất định.
Chúng ta đã biết rằng:
Trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước ta hiện nay được
phân thành nhiều cấp và nhiều bộ phận khác nhau. Nếu như ở mỗi cấp, mỗi bộ
phận trong các hệ thống tổ chức đều có một tập thể lãnh đạo quản lý, thì những
người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong các tập thể ấy được
gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt [50, tr.35].
Việc xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt không những phải gắn với một hệ
thống tổ chức nhất định mà còn phải căn cứ vào chức danh cụ thể của từng
người, bởi vì trong thực tế một người cán bộ "ở cương vị này, trong tổ chức này
là chủ chốt, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác, thì lại khơng phải là chủ
chốt" [50, tr.35].
Khi nói đến cán bộ lãnh đạo chủ chốt người ta không coi họ chỉ là những
người thực hiện các chức năng lãnh đạo đơn thuần, mà còn nhìn nhận họ là
những người có trách nhiệm cả về phương diện quản lý.
Trên thực tế người ta quan niệm: Tất cả những đồng chí là ủy viên BTV
Huyện ủy, BCH Đảng bộ huyện... đều là cán bộ chủ chốt vì:
12
Một là: Xét trong mối quan hệ tổ chức, cấp ủy đảng là cơ quan lãnh đạo
cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Các đồng chí cấp ủy viên đều coi là cán bộ lãnh
đạo của tổ chức Đảng. Trong mỗi cấp ủy bầu ra BTV để lãnh đạo tổ chức Đảng
giữa hai kỳ họp BCH. Vì vậy, những đồng chí ủy viên Ban Thường vụ đều là
những người có trọng trách trong tập thể lãnh đạo của tổ chức đảng.
Hai là: Trong mối quan hệ với các tổ chức của hệ thống chính trị cùng
cấp, ủy viên Ban Thường vụ thường được các tổ chức đảng giới thiệu ra ứng cử
và thông qua bầu cử dân chủ để trở thành người đứng đầu các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Do đó, những đồng chí ủy viên Ban Thường vụ cấp ủy đảng là
những cán bộ chủ chốt của tổ chức đó.
Cần phân biệt khái niệm cán bộ lãnh đạo chủ chốt và cán bộ chủ chốt:
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người lãnh đạo nhưng là lãnh đạo tồn diện,
có thẩm quyền cao nhất, trọng trách nặng nề nhất trước tập thể lãnh đạo. Khái
niệm cán bộ chủ chốt rộng hơn, có thể đồng nhất với cán bộ cấp trưởng, cấp phó
ở mỗi cơ quan, tổ chức, có tác dụng chi phối mọi hoạt động của cơ quan, tổ
chức. Mỗi cán bộ chủ chốt được gắn với một tổ chức và chức danh cụ thể.
Theo các văn bản của Trung ương về phân cấp quản lý cán bộ thì cán
bộ chủ chốt cấp xã gồm: Bí thư, Phó bí thư, ủy viên BTV Đảng ủy, Đảng ủy
viên; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch
UBMTTQ, Trưởng các đoàn thể xã.
1.1.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp
xã
Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội lồi người và từ chính q trình nghiên
cứu, truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân C. Mác đã khẳng
định: "Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư
tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [8, tr.181].
13
Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cách
mạng của giai cấp công nhân Nga, trong bài "Những nhiệm vụ bức thiết của
phong trào chúng ta" đăng trên tờ báo "Tia lửa" số 1 (tháng chạp năm 1900) V.I.
Lênin đã chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào được quyền thống
trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính
trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào"
[51, tr.473]. Theo Người, với lơgíc đó, giai cấp cơng nhân Nga chỉ có thể lật đổ
chế độ Nga Hồng, giành chính quyền khi xây dựng cho mình được một đội ngũ
những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vơ sản. Đó là đội ngũ cán
bộ nịng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản Bơnsêvích Nga, những người giúp
Đảng "đảo ngược nước Nga lên" [51, tr.162], "những nhà chính trị của giai cấp
thực sự của mình, những nhà chính trị vơ sản và khơng thua kém những nhà
chính trị tư sản" [51, tr.80-81]. Sau khi đã giành được chính quyền, Người khẳng
định: "nghiên cứu con người tìm những cán bộ có năng lực, biết làm việc, thực
chất vấn đề hiện nay chính là ở những chỗ đó, nếu thiếu những điểm này thì tất
cả mọi mệnh lệnh, mọi quy định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [51, tr.449]. Trong hoạt
động thực tiễn, Người đã trực tiếp tiến hành nhìn nhận đánh giá, sắp xếp lại đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ để lãnh đạo giai cấp công
nhân, nhân dân lao động Nga hoàn thành cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại
nhất trong lịch sử nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ kiệt xuất của nhân dân Việt Nam, là người
vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với điều kiện
cụ thể ở Việt Nam và hình thành nên một tư tưởng cách mạng đặc sắc - tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người xem xét vai trò của cán bộ, kể cả cán bộ chủ chốt, bất kể là
ở cấp nào đều thể hiện rõ qua các mối quan hệ cơ bản sau:
14
- Là người lãnh đạo, họ nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức làm đầu tàu
dẫn dắt mọi phong trào cách mạng của quần chúng, làm gương cho quần chúng
và trong mọi việc "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
- Là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, họ "đem chính sách của Đảng,
Chính phủ giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành", đồng thời "đem tình
hình của quần chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng" [31, tr.269] và với vị trí đó làm cho cán bộ trở thành cầu nối và giữ mối
dây liên hệ qua lại chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng nhân dân.
- Là người đầy tớ của nhân dân, phụng sự nhân dân, bảo vệ lợi ích và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: "Chủ tịch, Bộ
trưởng, Thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ cho nhân dân"
[31, tr.373].
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi công tác cán bộ là
một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ
đã được đề cập đến trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, Đảng ta nhiều lần xác định: "phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng Đảng thì cơng
tác cán bộ là một lĩnh vực quan trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then
chốt” [51, tr.8].
Xuất phát từ vị trí, vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp xã, trong
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, vận dụng đúng đắn lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ và cơng tác cán bộ
Đảng ta luôn quan tâm đến đội ngũ cán bộ của Đảng, trong đó có đội ngũ cán bộ
cấp xã. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta coi trọng việc củng cố, nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt ở cấp trung ương và cấp cơ sở và yêu
cầu cấp bách phải củng cố kiện toàn bộ máy Nhà nước ở cơ sở. Các cấp ủy
15
đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân cần hướng về cơ sở, chăm lo
xây dựng cơ sở vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Nghị quyết số 12- NQ/TW
ngày 16 tháng 01 năm 2012 - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI “Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng
thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng
cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được
nhân dân tin tưởng”, đồng thời cũng chỉ rõ những yếu kém, bất cập trong công
tác cán bộ. Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời
gian tới, một trong ba vấn đề cấp bách được nêu trong Nghị quyết mà Đảng ta
yêu cầu phải tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt đó chính là: xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cán bộ lãnh đạo cơ
sở, đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là gốc của mọi công việc, công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Do vậy, cán bộ là nhân
tố quyết định cho sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng,
đất nước và của cả dân tộc. Vai trị tích cực của cán bộ chủ chốt cấp xã ngày
càng được khẳng định với những nội dung cụ thể như sau:
- Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở
cơ sở cán bộ chủ chốt cấp xã là người thay mặt Đảng, Nhà nước trực tiếp lãnh
đạo, quản lý xã hội đến tận người dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
bảo đảm quyền lực, quyền lợi của dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Mọi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở có được thực hiện đúng đắn hay khơng phụ thuộc rất nhiều vào vai trị
của họ. Là cấp gần nhất với thực tiễn, trực tiếp nhất với cuộc sống của dân, cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, vận động và tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ở cơ sở, đảm bảo an sinh
16
của người dân và sự phát triển của cộng đồng. Thơng qua vai trị của họ mà ý
Đảng, lịng dân được thống nhất, làm cho đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước có cơ sở bám rễ, ăn sâu trong đời sống xã hội, tạo nên sự gắn bó máu thịt
giữa Đảng và dân, nâng cao sự nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã
hội. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã là người quyết định hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị ở cơ sở. Họ vừa là bộ não, đầu tàu của hệ thống, vừa là người
chỉ huy, điều hành, tổ chức thực hiện, đảm bảo cho bộ máy vận hành đồng bộ,
thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, làm cho đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước đi vào cuộc sống. Thực tế cho thấy, vai trò của cán bộ chủ chốt cơ sở ở các
xã ổn định được đánh giá khá cao: là hạt nhân chính trị ở cơ sở (97,0%); tuyên
truyền vận động và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng, Nhà nước (94,8%); nâng cao sự nhất trí trong Đảng và sự
đồng thuận trong xã hội (93,3%); phát huy và tập hợp mọi lực lượng ở cơ sở để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (93,9%); khơi dậy mọi nguồn lực và tạo
điều kiện thuận lợi để người dân phát triển kinh tế (90,0%); tổ chức thực hiện
thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn (93,0%) [19, tr.43].
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vừa là linh hồn, vừa là bộ não, vừa là đầu tàu
của cả hệ thống, “đầu nghĩ, miệng nói, tay làm, tai lắng nghe”. Cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã thường đáp ứng được nguyện vọng của dân, tạo môi trường sản
xuất, kinh doanh phát triển lành mạnh, khai thác được tiềm năng thế mạnh ở cơ
sở, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
- Quyết định sự phân bổ lợi ích và các nguồn lực ở cơ sở. Là người đứng
đầu, trực tiếp nắm và chỉ đạo thực hiện các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm
của hệ thống chính trị ở cơ sở, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vừa là người
khởi xướng chủ trương, vừa là người chủ trì, điều khiển và chịu trách nhiệm đến
cùng các mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của hệ thống đó. Là người nắm
giữ quyền lực, quyết định việc phân bổ lợi ích nên hành động của họ phải minh
17
bạch, công bằng, gương mẫu và nghiêm túc rèn luyện để có phương thức lãnh
đạo dân chủ. Sự mạnh yếu của hệ thống chính trị và phong trào cách mạng ở cơ
sở gắn liền với vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã. Họ vừa là hạt nhân lãnh
đạo, vừa là những trụ cột, trung tâm đoàn kết, quy tụ các lực lượng, vừa là linh
hồn của các tổ chức trong hệ thống đó. Hệ thống chính trị cơ sở có hồn thành
tốt nhiệm vụ hay khơng, có đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của dân hay không
[36, tr.23], có được dân tin u, kính trọng và bảo vệ hay khơng trước hết tuỳ
thuộc vào vai trị của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã. Là người đại diện của
dân, họ phải chăm lo đời sống, giải quyết thoả đáng nhu cầu, lợi ích của dân,
làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, sinh sống, cố kết cộng đồng, tin tưởng và
tự giác tham gia các phong trào cách mạng ở cơ sở. Cấp xã là nơi chính quyền
trong lịng dân, quan hệ với dân là quan hệ nền tảng sâu xa, bản chất nhất, quy
định và chi phối các quan hệ khác. Muốn giữ vững ổn định ở cơ sở phải tập hợp
được lực lượng nơi dân, phát huy nguồn lực trong dân, được dân ủng hộ. Có dân
là có tất cả, mất dân là mất tất cả. Có sức mạnh đồn kết dân tộc, đồng thuận xã
hội thì khó khăn, phức tạp mấy cũng giải quyết được. Kết quả điều tra xã hội
học cho thấy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã là trung tâm đoàn kết các lực
lượng ở cơ sở (92,4%); chăm lo đời sống và giải quyết thoả đáng các lợi ích của
người dân (92,7%); là cầu nối trực tiếp giữa Đảng và dân (91,8%); thắt chặt mối
liên hệ giữa hệ thống chính trị với nhân dân (90,3%); là tấm gương về bản lĩnh
chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ năng lực ở cơ sở (94,5%) [36, tr.47]. Là
người nắm giữ quyền lực, nắm giữ đặc quyền về kinh tế, nhân sự và quyết định
việc phân bổ lợi ích ở cơ sở, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã phải công tâm,
công bằng và không thiên vị; phải gương mẫu, đi đầu trong thực hiện dân chủ,
giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Có như vậy, họ mới
xứng đáng là người đại diện của dân, được dân tin yêu, kính trọng và tạo điều
kiện giúp đỡ.
18
- Thúc đẩy sự phát triển các mặt của đời sống xã hội ở cơ sở Nông thôn
hiện nay đứng trước những yêu cầu, những tình huống mới phức tạp hơn trước
đó rất nhiều. Điều đó địi hỏi cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã phải có khả năng
dự báo, phát hiện, giải quyết nhanh chóng, chính xác các nhu cầu bức xúc của
dân. Họ phải phán đốn chính xác tình hình, đưa ra các quyết định kịp thời,
đúng đắn trong nhiều tình huống khác nhau, thậm chí bất ngờ, nếu không sẽ mất
thời cơ, rơi vào thế bị động, làm hỏng việc lớn. Mặt khác, cơ sở là nơi giải quyết
công việc liên quan trực tiếp đến lợi ích, quyền lực của dân, điều đó địi hỏi cán
bộ chủ chốt cơ sở phải có khả năng quyết đốn, nếu kéo dài hoặc quyết định sai
sẽ gây phẫn nộ, phản ứng tức thì của dân, thậm chí cịn xảy ra xung đột làm mất
ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở. Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã còn
được thể hiện ở năng lực sáng tạo của họ: khả năng vận dụng lý luận vào thực
tiễn, vận dụng cái chung vào những tình huống cụ thể; khả năng cụ thể hóa, hiện
thực hóa đường lối, chính sách; khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng dân chúng
thành phong trào hành động; kỹ năng, kỹ xảo xử lý công việc, ở năng lực quan
hệ, cảm hóa, tập hợp lực lượng để hiện thực hóa đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước vào đời sống thực tiễn. Gần gũi với dân, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp xã thấu hiểu dân, biết kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của
dân trong sản xuất và trong cuộc sống. Họ là người khơi dậy, phát huy tiềm
năng, thế mạnh của dân; giúp dân phát triển kinh tế, thóat nghèo, vươn lên làm
giàu; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; trực tiếp thúc đẩy sự
phát triển các mặt của đời sống xã hội, đảm bảo cho cơ sở phát triển một cách
năng động, sáng tạo và bền vững. Vai trò cán bộ chủ chốt cấp xã được thể hiện
khá rõ trong việc giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất,
đời sống của dân (93,6%); quyết đoán, sáng tạo trong giải quyết cơng việc bình
thường và bất thường (88,8%); đảm bảo sự phát triển năng động, sáng tạo và
bền vững ở cơ sở (86,7%) [36, tr.51]. Thực tiễn cho thấy, nơi nào cán bộ lãnh