Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận trong pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGƠ THỊ ANH VÂN

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO
THỎA THUẬN TRONG PHÁP LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự.
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tiến

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan: Luận văn “CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO
THOẢ THUẬN TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM”
là kết quả nghiên cứu khoa học của tôi. Mọi nội dung trong luận văn được thực hiện
theo đúng quy định về sở hữu trí tuệ.
Tác giả

Ngô Thị Anh Vân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

BLDS

Bộ luật Dân sự

LHNGĐ

Luật Hơn nhân và gia đình


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO THỎA THUẬN.............................................................................................................. 7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ................. 7

1.1.1.

Khái niệm ............................................................................................................... 7

1.1.2.

Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận ............................... 12

1.2.


Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ..................................... 16

1.3.

Cơ sở hình thành chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận............................ 21

1.3.1.

Cơ sở kinh tế - xã hội ........................................................................................... 21

1.3.2.

Cơ sở pháp lý ....................................................................................................... 23

1.4. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận ..................................................................................................................... 28
1.4.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Hoa Kỳ .................... 28
1.4.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận trong pháp luật Cộng hòa Pháp.. ..... 32
1.4.3. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận trong pháp luật Thái Lan.................. 35
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................................ 39
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT ............................................................................................................................ 40
2.1.

Điều kiện phát sinh hiệu lực đối với thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng . 40

2.1.1. Ý chí của vợ chồng.................................................................................................... 41
2.1.2. Thời điểm xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ................................ 49

2.1.3. Hình thức thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng............................................. 50
2.1.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định về điều kiện phát sinh hiệu lực của thỏa thuận về
chế độ tài sản của vợ chồng ............................................................................................... 53
2.2.

Nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ...................................... 58

2.2.1. Phạm vi của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng......................................... 58
2.2.2. Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng................... 63
2.2.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu ............................................ 67
2.2.4. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về nội dung của thoả thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng ................................................................................................................ 72
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................................ 77
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Quan hệ hôn nhân là một trong những bộ phận không thể tách rời của các mối
quan hệ xã hội. Qua thời gian, cùng với sự vận hành của các điều kiện kinh tế, văn
hố, chính trị, quan hệ hơn nhân đã trải qua nhiều biến chuyển. Ngày nay, thay vì
chỉ chịu sự điều chỉnh của các quy phạm tập quán và quy phạm đạo đức như trong
q khứ, quan hệ hơn nhân cịn chịu sự tác động mạnh mẽ bởi các quy phạm pháp
luật. Quan hệ giữa vợ và chồng vì thế cũng duy trì sự tồn tại hài hồ giữa các yếu tố

tình cảm và vật chất hơn trước kia.
Xã hội ngày càng tiến bộ và nền tảng kinh tế ngày càng vững chắc đã kéo theo
sự phát triển của mối quan hệ tài sản trong hơn nhân. Thay vì chỉ tập trung quan tâm
đến các nhu cầu thiết yếu của gia đình, pháp luật tạo nên những cơ sở cần thiết để
quyền tài sản trước và trong thời kỳ hôn nhân của các chủ thể đều được bảo vệ. Nhờ
có đó, vợ, chồng được tạo điều kiện tốt để thực hiện các hoạt động kinh tế, nghề
nghiệp mà mình mong muốn.
Với sự ra đời của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, chế độ tài sản của vợ
chồng đã có một bước tiến mới trong vấn đề bảo vệ quyền tự do định đoạt của vợ
chồng. Quan hệ hôn nhân khơng chỉ là những quy định có sẵn mang tính khn
mẫu, mà cịn là những điều khoản mở cơng nhận sự tự do thoả thuận của vợ chồng.
Pháp luật Hôn nhân và gia đình giờ đây ghi nhận sự tồn tại song song của chế độ tài
sản theo thoả thuận và chế độ tài sản theo luật định.
Khác với chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, chế độ tài sản theo thoả
thuận là một trong những nội dung khá mới mẻ đối với pháp luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam. Việc nhìn nhận và nghiên cứu về chế độ tài sản theo thoả thuận một
cách cụ thể, chi tiết là điều vô cùng cần thiết. Đây được xem là cơ sở quan trọng để
các quy định mới có thể đi vào đời sống và phát huy ý nghĩa tích cực của mình.
Xuất phát từ sự quan tâm đến mối quan hệ tài sản giữa vợ chồng nói chung và
chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận nói riêng, tác giả đã lựa chọn đề tài:
“Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận trong pháp luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam” để nghiên cứu và thể hiện trong luận văn cao học của mình.


2

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài


Việc nghiên cứu đề tài có thể được tìm hiều và đánh giá thơng qua một số
cơng trình khoa học như sau:


Thứ nhất: Việc nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng nói chung

hoặc chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện bởi khá nhiều tác
giả với các cơng trình nghiên cứu khác nhau như:
- Trần Thị Huệ 2000 , “Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo Điều 25 Luật
Hơn nhân và gia đình”, uật h c (06);
- Nguyễn Văn Cừ 2000 , “Chia tài sản chung của vợ chồng khi hơn nhân
đang tồn tại”, Tịa án nhân dân, (09);
- Lê Vĩnh Châu 2001 , Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HNGĐ
Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí
Minh;
- Trần Quang Cường 2011 , “Tài sản chung hay tài sản riêng”, Tòa án nhân
dân, (01);
- Nguyễn Thị Hạnh 2011 , “Trao đổi về bài viết Tài sản chung hay tài sản
riêng”, Tòa án nhân dân, (09).
- Nguyễn Thị Lan 2012 , “Một số vấn đề về hợp đồng mua bán tài sản thuộc
quyền sở hữu của vợ, chồng”, Luật h c, (08).
- Mai Thị Tuyết Hạnh (2013), Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
theo pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh;
- Tưởng Duy Lượng (2013), Pháp luật Hơn nhân – gia đình thừa kế và thực
tiễn xét xử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Những cơng trình nghiên cứu trên tập trung phân tích, đánh giá các quy định
về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật thực định (Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000 . Các vấn đề về: căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng; trách nhiệm
về tài sản của vợ chồng; phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân và khi ly hôn là

những nội dung thường xuyên được quan tâm. Trước khi LHNGĐ 2014 ra đời, “chế
độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận” chưa được biết đến một cách phổ biến.


3

Trong q trình tìm hiểu về pháp luật hơn nhân và gia đình, các tác giả cũng ít khi
đề cập chế độ tài sản khác, ngoài chế độ tài sản theo luật định.

Thứ hai: một số cơng trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, chẳng hạn:
- Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận Luật Hơn nhân gia đình Việt Nam, Tập
II: Các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
Cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến chế độ tài sản của vợ chồng theo
thoả thuận. Ở phần đầu tiên của tác phẩm, chế độ tài sản theo thoả thuận được giới
thiệu cùng với những mơ hình tài sản khác tồn tại trong pháp luật hơn nhân gia đình
của các quốc gia trên thế giới. Tác giả khơng tập trung phân tích đặc điểm, nội dung
của chế độ tài sản theo thoả thuận, mà chỉ thơng qua đó, so sánh, đối chiếu và tìm
hiểu về chế độ tài sản theo luật định. Phần lớn dung lượng của tác phẩm được sử
dụng để nghiên cứu chế độ tài sản theo pháp luật HNGĐ 2000 (tức chế độ tài sản
theo luật định).
Tuy ra đời khi LHNGĐ 2000 phát sinh hiệu lực không lâu, nhưng tác phẩm đã
mang đến cái nhìn rất mới mẻ về sự đa dạng của các mơ hình quan hệ tài sản giữa
vợ chồng, đồng thời giới thiệu một cách khái quát về chế độ tài sản theo thoả thuận
đến người đọc.


Thứ ba: một số cơng trình có đối tượng nghiên cứu chính là chế độ tài

sản theo thỏa thuận như:

- Bùi Minh Hồng (2009), “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong
pháp Luật Cơng hịa Pháp và pháp luật Việt Nam”, Luật h c, (09);
- Nguyễn Văn Cừ (2012), “Một số vấn đề về hôn ước và quan điểm áp dụng ở
Việt Nam hiện nay”, Luật h c (10);
- Trương Hồng Quang 2013 , “Chế định hôn ước trên thế giới”, Kiểm sát,
(21).
- Trần Thị Hương 2013 , “Hôn ước”, bài viết tham dự hội thảo “Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi, bổ sung”, Tp. Hồ Chí Minh;


4

- Nguyễn Văn Cừ 2014 , “Một số nội dung cơ bản về chế độ tài sản của vợ
chồng theo pháp luật Việt Nam – được kế thừa và phát triển trong dự thảo Luật hơn
nhân và gia đình sửa đổi ”, Tòa án nhân dân, (08);
- Nguyễn Văn Cừ 2015 , “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận trong
pháp luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Luật h c, (04).
Những bài viết kể trên đã mang đến cái nhìn khái quát về chế độ tài sản của vợ
chồng theo thoả thuận (mặc dù có thể được thể hiện dưới tên gọi khác – “hôn ước” .
Các bài viết có sự liên hệ chặt chẽ với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái Lan, Pháp. Đối với những bài viết ra đời khi LHNGĐ
2014 chưa phát sinh hiệu lực, các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ học hỏi kinh
nghiệm nước ngoài và đề xuất hoàn thiện pháp luật trong nước. Các tác phẩm này
cũng đã chỉ ra nhu cầu thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận đối
với pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam.
Khi LHNGĐ 2014 ra đời, các cơng trình nghiên cứu đã bắt đầu tìm hiểu và
nghiên cứu về các quy định của pháp luật hiện hành. Theo đó, lịch sử hình thành
của chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận, nội dung của chế độ tài sản này là
những vấn đề được tác giả tập trung làm rõ.
 Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả

thuận đã trở thành một trong những nội dung vô cùng quen thuộc đối của pháp luật
hơn nhân và gia đình. Rất nhiều cơng trình nghiên cứu đã tập trung vào lịch sử phát
triển, vai trò, nội dung hay ý nghĩa sự tồn tại của chế độ tài sản của vợ chồng theo
thoả thuận. Có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu như:
- Gail Frommer Brod (1994), Premarital agreements and gender justice, copy
right of Yale J.L. & Feminism;
- Nancy R.Schembri 2003 , “Prenuptial agreements and the significance of
independent counsel”, Journal of Civil Rights and Economic Development: Vol. 17:
Iss. 2, Article 5;
- Brett R. Turner and Laura W. Morgan (2012), Attacking and defending
marital agreement, ABA Section on Family law, 2nd;
- John De Witt Gregory, Peter N. Swisher, Robin Fretwell Wilson (2013),
Understand family law, LexisNexis, 4th.


5

- Patrick Parkinson, Juliet Behrens (2004), “Australian Family law in context
– Commentary and Materials” 3rd edition, Tomson lawbook co.
Những công tình nghiên cứu kể trên đã trình bày khá rõ nét quá trình hình
thành và phát triển của thoả thuận trước hôn nhân tại Hoa Kỳ. Các tài liệu cũng
phân tích rất cụ thể về các quy định có liên quan của Hoa Kỳ và Australia. Nội dung
về điều kiện phát sinh hiệu lực của thoả thuận, các trường hợp thoả thuận bị tuyên
bố vô hiệu là những vấn đề được các tác giả tập trung làm rõ. Thông qua đây, khá
nhiều án lệ có liên quan cũng đã được giới thiệu và phân tích cụ thể. Các cơng trình
nghiên cứu về thoả thuận trước hôn nhân kể trên đã mang đến những bài học kinh
nghiệm có giá trị đối với q trình hồn thiện quy định của pháp luật Việt Nam.
Nhìn chung, từ khi LHNGĐ 2014 ra đời cho đến nay, tại Việt Nam, vẫn chưa
có nhiều cơng trình tập trung nghiên cứu và tìm hiểu về chế độ tài sản của vợ chồng
theo thoả thuận. Việc phân tích và đánh giá một cách chi tiết nội dung pháp luật

hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận là điều vô cùng cần thiết
và ý nghĩa. Các cơng trình đã tồn tại trước đó được xem là nền tảng lý luận vững
chắc để tác giả có thể thực hiện thuận lợi đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu về một chế độ tài sản mới hình
thành trong LHNGĐ 2014 – chế độ tài sản theo thoả thuận. Từ đó, tác giả hướng
đến việc đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện và phát triển hơn nội dung của chế
độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận. Thông qua luận văn, tác giả cũng mong
muốn mang đến cách nhìn tích cực đối với chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả
thuận, xóa đi những định kiến cho rằng chế độ tài sản này có khả năng làm mất đi
bản chất tốt đẹp của hôn nhân và mối quan hệ gia đình theo lối tư duy truyền thống.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến Chế độ tài
sản của vợ chồng theo thoả thuận trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Nội dung của luận văn tập trung làm sảng tỏ các khía cạnh về: điều kiện phát sinh
hiệu lực của thoả thuận về chế độ tài sản, nội dung của thoả thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng theo pháp luật hiện hành.


6

4.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hồn thành luận văn của mình, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
-

Phương pháp lịch sử, so sánh: được sử dụng để tìm hiểu và nghiên cứu về


quá trình phát triển của chế định tài sản trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia
đình (thể hiện chủ yếu tại Chương I – Mục 1.3.2).
-

Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để tìm hiểu, nhìn nhận về

nội dung của pháp luật thực định. Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong
luận văn.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để đối chiếu giữa pháp luật Việt Nam
và pháp luật của các quốc gia khác nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm có thể
áp dụng cho Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu tại Chương I –
Mục 1.4; Chương II – Mục 2.1.4, mục 2.2.4 và một số phần nội dung khác của luận
văn.
5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả tập trung làm sáng tỏ nội dung
của chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận, đồng thời đề xuất một số giải pháp
nhằm hồn thiện các quy định có liên quan của pháp luật hơn nhân và gia đình hiện
hành.
6. Bố cục luận văn
Luận văn được thiết kế gồm 03 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận.
Trong đó, phần nội dung được chia thành hai chương với bố cục cụ thể như
sau:
Chương I. Những vấn đề chung về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận
Chương II. Quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng
theo thoả thuận và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật


7


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA
VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa

thuận
1.1.1.

Khái niệm



Khái niệm về tài sản

Tài sản ln là yếu tố đóng vai trị quan trọng trong q trình lưu thơng và vận
hành các giao dịch dân sự. Tài sản là một phạm trù rất rộng, ở mỗi góc độ và lĩnh
vực lại hình thành nên những cách hiểu khác nhau về tài sản.
Theo nghĩa thông thường: “tài sản là của cải vật chất dành cho sản xuất hoặc
tiêu dùng”1 hoặc “là của cải, vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”2.
Dưới góc độ này, tài sản được nhìn nhận, đánh giá thơng qua tính năng và giá trị sử
dụng. Dưới góc độ pháp lý, tài sản được hiểu là “các vật có giá trị bằng tiền và đối
tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác, bao gồm vật có thực, vật đang
tồn tại và sẽ có hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu như đã thỏa thuận giữa
các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản”3. Khác với cách
hiểu thông thường, khoa học pháp lý đặc biệt quan tâm đến nội hàm của khái niệm
tài sản.
Theo quy định của Điều 105 BLDS 2015 thì “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.

Trong đó, “vật là một bộ phận của thế giới vật chất. Vật được coi là tài sản
phải là vật hữu hình, cảm nhận được bởi năm giác quan của con người và chiếm giữ
một phần trong không gian. Vật đáp ứng được một nhu cầu nào đó về vật chất hoặc
tinh thần của con người”4. Theo quy định của BLDS 2015, khơng chỉ vật có thực
mới được coi là tài sản, là đối tượng của quyền sở hữu. Khái niệm tài sản còn bao
gồm cả những vật được hình thành trong tương lai. Dưới góc độ khoa học pháp lý
1
2

Nguyễn Văn Xô 1999 , Từ điển tiếng Việt, NXB Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 631.
Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thơng, NXB Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr.

811.
3

Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật h c, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 685.
Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2008), Bình luận khoa h c Bộ Luật Dân sự năm 2005 (Tập 1),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 357.
4


8

thì một vật chỉ được coi là khách thể của quyền sở hữu nếu như: vật đó là bộ phận
của thế giới vật chất, có thể tồn tại hiện hữu hoặc hình thành trong tương lai. Vật
phải mang lại lợi ích cho con người. Đồng thời con người có khả năng chiếm hữu
được (tức là có thể nắm giữ, quản lý được vật)5.
Tiền là phương tiện thanh toán trung gian dùng để trao đổi, mua bán hàng hóa
và dịch vụ, được Nhà nước phát hành và đảm bảo giá trị.
Đối với vật, chúng ta có thể khai thác cơng dụng hữu ích từ chính vật đó,

nhưng trái lại, chúng ta khơng thể được khai thác cơng dụng từ chính đồng tiền giấy
hay đồng tiền xu6. Chức năng của tiền là thước đo giá trị, phương tiện lưu thông,
phương tiện cất trữ, phương tiện thanh tốn7. Việc nhìn nhận về “tiền” dưới góc độ
kinh tế và dưới góc độ pháp lý (cụ thể là trong pháp luật dân sự) có rất nhiều điểm
khác biệt. Dưới góc độ kinh tế, nội tệ hay ngoại tệ cũng đều là tiền. Cách phân loại
tiền thành nội tệ và ngoại tệ hoàn toàn phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận của từng
quốc gia. Một loại tiền được coi là nội tệ của quốc gia phát hành và là ngoại tệ đối
với các quốc gia khác. Trong pháp luật dân sự, ngoại tệ không được coi là tiền, bởi
lẽ ngoại tệ không bao giờ được coi là cơng cụ thanh tốn đa năng – một tính năng
quan trọng nhất của tiền. Ngoại tệ được coi là một loại tài sản đặc biệt, thuộc nhóm
hàng hố hạn chế lưu thông. Chỉ những chủ thể nhất định (ngân hàng hay các tổ
chức tín dụng khác, các tổ chức có chức năng hoạt động ngoại thương, … mới
được phép xác lập giao dịch đối với ngoại tệ8.
Giấy tờ có giá: theo khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2010 giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều
kiện trả lãi và các điều kiện khác. Tuy nhiên, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2010 lại không quy định cụ thể giấy tờ có giá bao gồm những loại nào. Vấn đề này
đã được nhiều văn bản pháp lý hướng dẫn chi tiết. Căn cứ vào Thông tư
9

5

Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 111.
6
Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý 2008 , tlđd 04, tr. 358.
7
Theo “Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – ênin” – Bộ Giáo dục và đào tạo
(2013), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 207 – 211.

8
Bùi Đăng Hiếu 2005 , “Tiền - một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự”, Luật h c số, (01), tr. 40.
9
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số: 46/2010/QH12 ngày 16 tháng 06 năm 2010.


9

122/2012/TT-BTC10 thì giấy tờ có giá bao gồm: “Cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kỳ
phiếu, cơng trái, chứng chỉ tiền gửi, giấy tờ có giá khác theo quy định pháp luật, trị
giá được thành tiền và được phép giao dịch”11. Trong khi đó, trước đây, theo Luật
các cơng cụ chuyển nhượng12 thì “cơng cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận
lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào
một thời điểm nhất định”13. Cũng theo Luật các công cụ chuyển nhượng thì hối
phiếu địi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc được xác định là giấy tờ có giá14. Có thể thấy
rằng, hiện nay việc xác định nội hàm của khái niệm giấy tờ có giá vẫn chưa thực sự
rõ ràng và thống nhất giữa các văn bản pháp luật.
Quyền tài sản là: “quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”15.
Trên thực tế chúng ta thường gặp các quyền tài sản như: quyền chuyển giao tài sản,
quyền đòi nợ, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa… Khác với vật là tài sản hữu hình, quyền tài sản là tài sản vơ
hình.
Có thể thấy, khái niệm tài sản là một phạm trù rất rộng. Việc xác định một
cách đúng đắn nội hàm của khái niệm này có ý nghĩa lớn đối với quá trình áp dụng
pháp luật dân sự (hiểu theo nghĩa rộng). Với pháp luật hơn nhân và gia đình, việc
hiểu rõ về tài sản là nền tảng quan trọng để tìm hiểu sâu hơn về quan hệ tài sản giữa
vợ và chồng nói riêng và chế độ tài sản của vợ chồng nói chung.



Khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng

Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn16. Với việc thực hiện
hành vi kết hôn, nam nữ xác lập nên mối quan hệ hôn nhân – quan hệ vợ chồng17.
10

Thông tư 122/2012/TT-BTC ngày 27 tháng 7 năm 2012 về quản lý đối với các loại tài sản quý hiếm và
giấy tờ có giá do Kho bạc Nhà nước nhận gửi và bảo quản.
11
Mục 1.2 Điều 2 Thông tư 122/2012/TT-BTC.
12
Luật Các công cụ chuyển nhượng số 49/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005.
13
Khoản 1 Điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng 2005.
14
Về vấn đề này, Công văn số 141/ 2011/ TANDTC/ KHXX ngày 21/ 9/ 2011 về Thẩm quyền giải quyết
các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, cũng có nội dung đề cập đến những loại tài sản
được xem là giấy tờ có giá.
15
Điều 115 BLDS 2015.
16
Khoản 1 Điều 3 LHNGĐ 2014.
17
Quan hệ hơn nhân cịn được công nhận đối với những cặp đôi nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn; hoặc trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng
từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 nhưng đã đăng ký kết hơn tính đến hết ngày 01/01/2003.
Những trường hợp này cịn được gọi là “hơn nhân thực tế” Xem thêm Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10).


10


Quan hệ hơn nhân được hình thành trên cơ sở tình cảm giữa nam và nữ. Sự tự
nguyện ln là yếu tố khơng thể thiếu để duy trì mối quan hệ này một cách lâu dài
và bền vững. Nếu không có sự u thương, tơn trọng lẫn nhau thì nam nữ rất khó có
thể đi đến hơn nhân và cũng theo đó, quan hệ vợ chồng rất khó có thể tồn tại. Yếu tố
tình cảm vì thế đã tạo nên điểm khác biệt mấu chốt giữa quan hệ hôn nhân so với
các mối quan hệ có tính dân sự khác.
Bên cạnh yếu tố tình cảm, vật chất cũng là cơ sở không thể thiếu để củng cố
và phát triển đời sống gia đình. Trong hơn nhân, quan hệ nhân thân và tài sản luôn
tồn tại song hành. Việc thiếu đi một trong hai yếu tố kể trên đều có thể gây ra những
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ giữa vợ và chồng. Để bảo vệ quan hệ hôn
nhân, gia đình, đồng thời tạo nên những định hướng phát triển tốt đẹp cho mối quan
hệ này, ngoài các quy định về nhân thân, pháp luật hơn nhân và gia đình dành một
phần dung lượng khá lớn để điều chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong
khoa học pháp lý đặc biệt là trong lĩnh vực hơn nhân – gia đình . Theo từ điển Luật
học: “chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy định của pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng18. Tác giả Lê Vĩnh
Châu lại cho rằng: “chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy định của pháp
luật về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, phương thức xác lập quan hệ tài sản để
xác định sở hữu chung, sở hữu riêng của vợ chồng trong mối quan hệ vợ chồng với
nhau và với người thứ ba”19. Cũng về vấn đề này, tác giả Nguyễn Văn Cừ có quan
điểm: “chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy định của pháp luật do Nhà
nước ban hành, quy định về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung của vợ, chồng;
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các tài sản đó; quy định các trường hợp và
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng”20.
Với các khái niệm kể trên, các tác giả đều thống nhất rằng: chế độ tài sản của
vợ chồng là sự tổng hợp các quy định pháp luật về những vấn đề liên quan đến quan
hệ tài sản giữa vợ chồng.
18


Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý 2006 , tlđd 03, tr.129.
Lê Vĩnh Châu 2001 , Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, luận
văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 2.
20
Nguyễn Văn Cừ 2014 , “Một số nội dung cơ bản về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt
Nam- được kế thừa và phát triển trong dự thảo Luật hơn nhân và gia đình sửa đổi ”, Tòa án nhân dân, (08),
tr. 01.
19


11

Hiện nay, chế độ tài sản của vợ chồng được ghi nhận tại Mục 3 Chương II
LHNGĐ 2014. Ở góc độ chung nhất, có thể hiểu: Chế độ tài sản của vợ chồng là sự
tổng hợp những quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng về việc xác định quyền sở hữu tài sản nội dung quyền và nghĩa vụ tài sản;
các nguyên tắc giải quyết quan hệ tài sản khi chế độ tài sản của vợ chồng chấm dứt.
Không như những chế độ tài sản đã tồn tại trước đó, chế độ tài sản của vợ chồng
theo pháp luật HNGĐ 2014 bao gồm đồng thời các quy định điều chỉnh một cách
trực tiếp và gián tiếp mối quan hệ tài sản của vợ chồng 21. Nội dung của pháp luật
hiện hành cho phép vợ chồng được quyền lựa chọn chế độ tài sản phù hợp với nhu
cầu và hồn cảnh của mình.


Khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

LHNGĐ năm 1959, năm 1986 và năm 2000 đều ghi nhận duy nhất chế độ tài
sản theo luật định. Theo đó, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ tài sản giữa vợ chồng
đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định

được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật, điều chỉnh mối quan hệ tài sản giữa
vợ và chồng, bao gồm: căn cứ xác lập tài sản chung tài sản riêng; quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng tương ứng với từng loại tài sản cách thức phân chia tài sản khi
hôn nhân chấm dứt và các quy định khác liên quan đến quan hệ tài sản của vợ
chồng.
Khác với các văn bản luật trước đây, lần đầu tiên luật HNGĐ 2014 ghi nhận
sự tồn tại của cùng lúc hai chế độ tài sản. “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế
độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận”22. Mỗi chế độ tài sản
chịu sự điều chỉnh bởi những quy định độc lập. Chế độ tài sản của vợ chồng theo
luật định được thực hiện theo quy định từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến
Điều 64 LHNGĐ. Trong khi chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được điều
chỉnh bởi Điều 47, 48, 49, 50 và 59 LHNGĐ.
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức nào về chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận. Tuy nhiên, thông qua các quy định cụ thể, chúng ta có thể

21

Thay vì trực tiếp quy định về quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng như trước đây, một số quy
định của pháp luật hiện hành chỉ điều chỉnh sự thoả thuận của vợ chồng. Nội dung cụ thể của mối quan hệ tài
sản do chính vợ chồng tự mình định đoạt.
22
Điều 28 LHNGĐ 2014.


12

hiểu: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận23 là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến sự thỏa thuận của vợ chồng về quan hệ
tài sản, bao gồm: điều kiện phát sinh hiệu lực của thoả thuận về chế độ tài sản, các
nội dung cơ bản của thoả thuận và các trường hợp thoả thuận về chế độ tài sản của

vợ chồng bị tuyên bố vô hiệu.
Khái niệm “chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận” cần được phân biệt
với khái niệm “thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng”24. Chế độ tài sản theo
thoả thuận là một khái niệm có phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều nội dung, trong đó
có nội dung trọng tâm là về sự thỏa thuận của vợ chồng. Nếu như chế độ tài sản
theo thỏa thuận là sự tổng hợp của các quy phạm pháp luật, thì thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng đơn thuần là văn bản thể hiện ý chí của hai bên25. Chế độ tài
sản của vợ chồng theo thoả thuận không trực tiếp đưa ra các nguyên tắc điều chỉnh
mối quan hệ tài sản của vợ chồng. Những nội dung cụ thể về căn cứ xác định tài sản
chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ đối với từng loại tài sản, nguyên tắc phân
chia tài sản khi hôn nhân chấm dứt được quy định bởi thoả thuận của vợ chồng.
Trong khi thoả thuận thể hiện mong muốn, nguyện vọng cụ thể của vợ chồng; chế
độ tài sản theo thoả thuận lại là một hành lang pháp lý với những nguyên tắc cơ bản
thể hiện sự định hướng của pháp luật HNGĐ đối với mối quan hệ tài sản của vợ
chồng.
1.1.2.

Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là một nội dung đặc thù của pháp
luật hôn nhân và gia đình. Chế độ tài sản theo thỏa thuận có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: chế độ tài sản theo thỏa thuận đề cao quyền tự định đoạt và sự chủ
động của vợ chồng trong mối quan hệ tài sản
Quyền định đoạt ở đây được hiểu là quyền tự do bàn bạc, thỏa thuận, quyết
định về các vấn đề liên quan đến quan hệ tài sản sẽ phát sinh trong thời kỳ hôn
nhân. Nếu như trong chế độ tài sản theo luật định, các nội dung liên quan đến quan
hệ tài sản giữa vợ chồng đều được pháp luật điều chỉnh một cách cụ thể, rõ ràng; thì
23

Sau đây gọi tắt là “chế độ tài sản theo thỏa thuận”.

Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng còn thường được nhắc đến với tên gọi “ước” hay “hôn ước”.
25
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng trong
phạm vi của mình, pháp luật Hơn nhân và gia đình chỉ cơng nhận những thỏa thuận được thể hiện dưới dạng
văn bản được công chứng hoặc chứng thực (nội dung này sẽ được đề cập kỹ hơn ở phần sau).
24


13

đối với chế độ tài sản theo thỏa thuận, những nội dung này lại do chính vợ chồng
quyết định. Trước khi kết hơn, vợ chồng có quyền thỏa thuận mọi vấn đề về tài sản
theo ý chí và nguyện vọng của mình. Đó có thể là những thỏa thuận phân định
quyền sở hữu của mỗi người, xác định các quyền liên quan đến tài sản của mỗi bên
trong thời kỳ hôn nhân hay các nguyên tắc phân chia tài sản khi hôn nhân chấm dứt.
Chế độ tài sản theo luật định chỉ ghi nhận sự thỏa thuận của vợ chồng trong
một số trường hợp, chẳng hạn như: nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung, phân
chia tài sản trong thời kỳ hơn nhân. Trong khi đó, chế độ tài sản theo thoả thuận cho
phép nam nữ tự mình quyết định gần như toàn bộ các nội dung liên quan đến mối
quan hệ tài sản giữa họ. So với chế độ tài sản theo thỏa thuận, phạm vi quyền tự
định đoạt của vợ chồng trong chế độ tài sản theo luật định bị giới hạn hơn rất nhiều.
Mặt khác, việc áp dụng chế độ tài sản theo thoả thuận giúp cho vợ chồng vận
hành mối quan hệ tài sản trong thời kỳ hôn nhân một cách thuận lợi và chủ động.
Với tư cách là những người trực tiếp xây dựng nên thoả thuận, hơn ai hết, vợ chồng
thực sự hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ tài sản mà họ cần phải thực hiện. Điều này
cũng giúp cho quá trình áp dụng thoả thuận được diễn ra một cách thuận lợi và dễ
dàng.
Trong chế độ tài sản theo luật định, vợ chồng được thoả thuận phân chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đây là giải pháp giúp cả hai xác định lại khối tài
sản chung và tài sản riêng khác với những gì mà pháp luật quy định. Vợ chồng

thường chỉ tiến hành phân chia tài sản khi có nhu cầu tạo nên sự độc lập về mặt tài
chính. Lý do có thể xuất phát từ việc một bên cần có tài sản để thực hiện nghĩa vụ
riêng. Hoặc hai bên tồn tại mâu thuẫn trầm trọng nhưng lại không muốn chấm dứt
hôn nhân. Lúc này, giải pháp phân chia tài sản được áp dụng nhằm giảm bớt mối
liên hệ và sự ràng buộc của họ đối với nhau. Tuy vậy, một khi mâu thuẫn đã phát
sinh, các chủ thể rất khó đạt được sự đồng thuận trong việc phân chia tài sản. Nói
một cách khác đi, là mặc dù lúc này pháp luật cho phép, nhưng việc có thể thỏa
thuận và thống nhất về kết quả phân chia tài sản trên thực tế lại là điều không hề
đơn giản. Đối với những hoàn cảnh như vậy, nếu có u cầu, thì Tịa án sẽ áp dụng
ngun tắc phân chia tài sản khi ly hôn để giải quyết26. Trong trường hợp này, kết
quả phân chia tài sản không hồn tồn xuất phát từ ý chí của các bên. Đây là điều
26

Khoản 3 Điều 38 LHNGĐ 2014.


14

trái ngược với thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Nội dung của thỏa thuận
thực sự là kết quả của quá trình bàn luận và quyết định của nam nữ. Hơn nữa, thỏa
thuận được xác lập một cách chủ động chứ không phải chờ đến khi phát sinh sự
việc hoặc tranh chấp mới được lập nên như trường hợp phân chia tài sản trong thời
kỳ hôn nhân.
Cũng cần lưu ý rằng, dù pháp luật cho phép nam nữ thỏa thuận về quan hệ tài
sản, nhưng sự tự do và chủ động này luôn được đặt trong một giới hạn nhất định.
Quyền tự định đoạt của vợ chồng được bảo vệ khi thỏa thuận về chế độ tài sản thực
sự hướng đến việc điều chỉnh mối quan hệ tài sản của họ và đồng thời không làm
ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể khác. Chế độ tài sản theo thỏa thuận phải vừa
dung hịa được lợi ích của vợ chồng và bảo vệ một cách hợp lý quyền lợi của các
chủ thể khác có liên quan.

Có thể thấy, chế độ tài sản theo thỏa thuận đáp ứng nhu cầu của những cặp vợ
chồng mong muốn tổ chức đời sống kinh tế gia đình khác đi so với quy định mang
tính khn mẫu của pháp luật. Với việc lựa chọn áp dụng chế độ tài sản này, vợ
chồng tự thiết lập nên nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ tài sản của chính mình.
Cũng nhờ có vậy mà việc tham gia vào quan hệ tài sản sau khi kết hôn của vợ chồng
được thực hiện một cách tự do và chủ động.
Thứ hai: chế độ tài sản theo thoả thuận không chứa đựng những quy định trực
tiếp điều chỉnh mối quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
Chế độ tài sản theo thỏa thuận tập trung điều chỉnh các nội dung liên quan đến
sự thoả thuận của vợ chồng như: điều kiện phát sinh hiệu lực của thoả thuận, các
nội dung cơ bản của thoả thuận hoặc các trường hợp thoả thuận bị vô hiệu. Những
nội dung cụ thể về mối quan hệ tài sản như: căn cứ xác lập tài sản chung, quyền và
nghĩa vụ liên quan đến từng loại tài sản, nguyên tắc phân chia tài sản khi hôn nhân
chấm dứt, không được pháp luật quy định cụ thể.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận chỉ đề ra giới hạn cho sự thỏa thuận, còn các
nội dung chi tiết của mối quan hệ tài sản hoàn tồn phụ thuộc vào ý chí của nam nữ.
Đây là điều rất khác biệt so với chế độ tài sản theo luật định. Đối với chế độ tài sản
theo luật định, mức độ chi tiết và cụ thể của pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc
điều chỉnh mối quan hệ tài sản của vợ chồng. Trong khi đó, chế độ tài sản theo thỏa


15

thuận chủ yếu chỉ tạo nên những định hướng để nam nữ tự do thể hiện ý chí của
mình.
Thơng qua văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản, nam nữ xác định và thống
nhất về mối quan hệ tài sản giữa họ. Sự thỏa thuận này được xem như “luật chung”
của hai bên. Hiệu lực của thỏa thuận có ý nghĩa tương tự như hiệu lực của những
điều khoản thuộc chế độ tài sản theo luật định. Nói cách khác, một khi đã thỏa thuận
về chế độ tài sản, nam nữ có nghĩa vụ phải tơn trọng và tn thủ sự thỏa thuận này.

Thứ ba: chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận chỉ được áp dụng khi có
sự lựa ch n của vợ chồng.
LHNGĐ 2014 ghi nhận sự tồn tại của cùng lúc hai chế độ tài sản. Việc xác
định điều kiện áp dụng với từng loại chế độ tài sản cụ thể là điều cần thiết. “Chế độ
tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không
lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản
nhưng thỏa thuận này bị Tịa án tun bố vơ hiệu theo quy định tại Điều 50 của
LHNGĐ”27. Theo luật định, khi các bên khơng có sự thỏa thuận hay lựa chọn về
một chế độ tài sản cụ thể, thì đồng nghĩa với việc họ phải chấp nhận áp dụng chế độ
tài sản theo luật định. Ngoài ra, chế độ tài sản theo luật định cũng trở thành căn cứ
điều chỉnh mối quan hệ tài sản của vợ chồng nếu thoả thuận về chế độ tài sản được
xác lập trước đó bị Tồ án tuyên bố vô hiệu.
Khác với chế độ tài sản theo luật định, chế độ tài sản theo thỏa thuận chỉ được
áp dụng khi có sự lựa chọn rõ ràng của nam nữ. Sự lựa chọn này phải được thể hiện
một cách minh thị bằng việc thống nhất sử dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận mà
không sử dụng chế độ tài sản theo luật định. Văn bản thỏa thuận về tài sản là cơ sở
ghi nhận việc lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận. Cùng với đó, thoả thuận về
chế độ tài sản của vợ chồng phải đáp ứng các quy định về hình thức và nội dung mà
pháp luật đặt ra. Có như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận mới thực
sự trở thành cơ sở pháp lý điều chỉnh mối quan hệ tài sản của vợ chồng.
Như vậy, trước khi xác lập quan hệ hôn nhân, nam nữ được quyền lựa chọn
một chế độ tài sản phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của mình. Chế độ tài sản
theo thoả thuận chỉ được áp dụng khi có được sự đồng thuận của cả hai bên. Cùng
với điều kiện về ý chí chủ thể, thoả thuận về chế độ tài sản còn phải đáp ứng các
27

Điều 7 Nghị định 126/2014/NĐ – CP


16


điều kiện về mặt hình thức, nội dung để được công nhận và trở thành nguyên tắc
điều chỉnh mối quan hệ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
1.2.

Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

Chế độ tài sản theo thỏa thuận là một trong hai chế độ tài sản của vợ chồng
được pháp luật ghi nhận. Cũng như các chế định pháp lý khác, sự tồn tại của chế độ
tài sản theo thoả thuận ln giữ một vai trị, ý nghĩa nhất định đối với tiến trình
hồn thiện và phát triển của pháp luật HNGĐ Việt Nam.
Thứ nhất: cùng với chế độ tài sản theo luật định, chế độ tài sản theo thỏa
thuận giữ vai trò quan tr ng trong việc duy trì sự trật tự và ổn định của mối quan
hệ tài sản giữa vợ chồng
Chế độ tài sản theo luật định và chế độ tài sản theo thoả thuận là hai chế độ tài
sản chứa đựng sự khác biệt trong cách thức và phương pháp điều chỉnh. Trong khi
chế độ tài sản theo luật định trực tiếp tác động đến mối quan hệ giữa vợ chồng
thông qua các điều khoản quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ tài sản, thì chế độ
tài sản theo thoả thuận lại ngược lại. Với chế độ tài sản theo thoả thuận, vợ chồng
chính là những chủ thể tự thiết lập nên các quy tắc để điều chỉnh mối quan hệ tài
sản của mình. Tuỳ thuộc từng nhu cầu và hồn cảnh mà sự lựa chọn của vợ chồng
hướng đến một chế độ tài sản thích hợp. Chính đặc trưng của mỗi loại chế độ tài sản
khi được áp dụng trong từng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể đã trở thành yếu tố hỗ
trợ, thúc đẩy, để mối quan hệ tài sản của vợ chồng được tồn tại một cách ổn định và
bền vững.
Nội dung quan hệ tài sản theo luật định có thể chứa đựng nhiều điểm khác biệt
so với quan hệ tài sản do nam nữ tự mình thỏa thuận. Mặt khác, cùng là những
trường hợp áp dụng chế độ tài sản theo thoả thuận nhưng tùy thuộc vào nhu cầu
thực tế mà nội dung của các thoả thuận cũng rất khác biệt. Mặc dù vậy, các quy
định từ Điều 29 đến Điều 32 LHNGĐ 2014 được áp dụng không phụ thuộc vào chế

độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn28. Điều này cũng đồng nghĩa với việc dù áp dụng
chế độ tài sản nào và sự tự do thỏa thuận có được mở rộng đến đâu thì quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng cũng luôn phát triển theo sự đinh hướng mà pháp luật đề ra.
Nhờ đó, mối quan hệ tài sản trong hơn nhân được duy trì một cách trật tự và ổn

28

Khoản 2 Điều 28 LHNGĐ 2014.


17

định. Sự tồn tại của chế độ tài sản theo thoả thuận, vì vậy, khơng làm ảnh hưởng
đến tính đồng bộ và nhất quán của mối quan hệ tài sản trong pháp luật HNGĐ.
Thứ hai: chế độ tài sản theo thoả thuận đảm bảo cho quyền bình đẳng và tự
do của vợ chồng.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận là một cơ sở quan tr ng để đảm bảo cho quyền
bình đẳng giữa vợ và chồng.
Sự bình đẳng giữa nam nữ nói chung và bình đẳng giữa vợ chồng nói riêng
chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Quan hệ hơn nhân thường được hình
thành trên nền tảng tình yêu, sự tin tưởng và mong muốn cùng nhau xây dựng một
mối quan hệ lâu dài, bền vững. Trên thực tế, sau khi kết hôn, khả năng kinh tế là
yếu tố chi phối nhiều đến cách thức ứng xử, thái độ, cũng như “vị trí” của mỗi thành
viên trong gia đình. Với tinh thần vợ, chồng hồn tồn bình đẳng, có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau trước pháp luật, thơng qua chế định về tài sản, Nhà nước
khuyến khích quan hệ vợ chồng phát triển theo hướng lành mạnh, trong sáng, tránh
đi bất cứ sự bất công hoặc phân biệt đối xử nào giữa vợ, chồng.
Theo Điều 29 LHNGĐ 2014, “vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa
vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt
giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”. Đây là những nguyên tắc

chung được áp dụng cho cả hai loại chế độ tài sản của vợ chồng. Đối với mỗi chế độ
tài sản cụ thể thì quy định về sự bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng lại
được nhìn nhận và đánh giá dưới một góc độ khác biệt. Trong chế độ tài sản theo
luật định, sự bình đẳng giữa vợ chồng được thiết lập bởi chính những quy phạm
pháp luật do Nhà nước đề ra. Bằng việc tuân thủ những quyền và nghĩa vụ pháp lý
về tài sản, quyền bình đẳng giữa vợ chồng ln được bảo vệ và duy trì. Trong khi
đó, sự bình đẳng trong chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được đặt ra ngay
từ giai đoạn xác lập và giao kết thoả thuận. Ở giai đoạn này mỗi bên đều được đảm
bảo quyền tự do ý chí, được quyền trao đổi, thảo luận và đi đến thống nhất với bên
còn lại về nội dung của thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Thông qua các quy định cụ thể về điều kiện phát sinh hiệu lực của thoả thuận
hoặc nội dung của thoả thuận, pháp luật hôn nhân gia đình ln chú trọng bảo vệ sự
bình đẳng giữa vợ chồng. Mọi thoả thuận không xuất phát từ sự tự nguyện ý chí
hoặc xâm phạm đến sự bình đẳng giữa vợ chồng đều có nguy cơ bị Tồ án tuyên bố


18

vơ hiệu khi có u cầu29. Trong chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận, với sự
hỗ trợ từ phía các quy định pháp luật, vợ chồng đóng vai trị chủ động trong việc
xác lập và duy trì sự bình đẳng trong mối quan hệ tài sản của chính mình.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận đảm bảo cho sự tự do của vợ chồng trong việc
thực hiện quyền năng của chủ sở hữu.
Ngay từ đầu, việc được quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định
hay theo thoả thuận đã là một sự tự do. Mỗi đối tượng lại có một hồn cảnh và nhu
cầu khác biệt. Chế độ tài sản theo luật định có thể phù hợp với rất nhiều gia đình.
Nhưng cũng có những trường hợp, các quy định có sẵn mang tính khn mẫu lại
khơng đáp ứng được u cầu cụ thể mà vợ chồng đặt ra. Với việc áp dụng chế độ tài
sản theo thỏa thuận, vợ chồng đã thiết lập nên những nguyên tắc riêng để điều chỉnh
mối quan hệ tài sản của mình. Chế độ tài sản theo thỏa thuận vì thế đã thực sự giúp

cho vợ chồng trở nên tự do và chủ động hơn khi vận hành mối quan hệ tài sản trong
thời kỳ hôn nhân.
“Theo một logic đơn thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từng cá nhân được
tự do định đoạt tài sản của mình thì trong hơn nhân hai cá nhân đó cũng được thỏa
thuận định đoạt chế độ tài sản vợ chồng30”. Hơn ai hết, nam nữ là những người hiểu
rõ được mong muốn và yêu cầu của mình đặt ra đối với quan hệ tài sản. Thêm vào
đó, những nội dung của quan hệ tài sản tác động rất lớn đến đời sống gia đình, cũng
như ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của mỗi bên. Vì vậy, việc họ được tự do thỏa
thuận về chế độ tài sản là điều hồn tồn chính đáng. Quyền tự do trong chế độ tài
sản theo thỏa thuận thể hiện một cách rõ nét khi vợ chồng được tự mình bàn bạc và
định đoạt về căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ đối với
từng loại tài sản, hay cách thức phân chia tài sản khi hôn nhân chấm dứt.
Tóm lại, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận đã thực sự tạo điều kiện
để vợ chồng thực hiện quyền tự do và bình đẳng của mình. Trong đó sự tự do là nền
tảng quan trọng để quyền bình đẳng có cơ hội được thực hiện. Nhờ vậy, vợ chồng
có thể cùng nhau bàn bạc và đưa ra quyết định về nội dung của thoả thuận. Mặt
khác, quyền tự do cũng chỉ phát huy ý nghĩa khi hai bên có được sự bình đẳng trong
việc thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình. Có như vậy, thỏa thuận về chế độ tài

29
30

Nội dung này sẽ được thể hiện cụ thể hơn ở những phần sau.
Trương Hồng Quang 2013 , “Chế định hôn ước trên thế giới”, Kiểm sát, (21), tr. 54 .


19

sản của vợ chồng mới thực sự bảo vệ tốt quyền lợi của mỗi bên trong mối quan hệ
hôn nhân.

Thứ ba: chế độ tài sản theo thoả thuận giảm thiểu các tranh chấp liên quan
đến tài sản giữa vợ chồng
Theo quan niệm truyền thống, hôn nhân là mối quan hệ được xây dựng trên
yếu tố tình cảm. Cũng vì thế, những người chuẩn bị xác lập mối quan hệ vợ chồng
thường né tránh hoặc rất ít khi thỏa thuận một cách thẳng thắn về vấn đề tài sản.
Điều này có thể dẫn đến những hiểu lầm hoặc bất đồng trong thời kỳ hôn nhân.
Thỏa thuận về chế độ tài sản giữa vợ chồng là cơ hội để nam nữ hiểu rõ về hồn
cảnh và khả năng tài chính của nhau. Trước thời kỳ hôn nhân, mỗi người được thể
hiện quan điểm cũng như những nguyện vọng của mình. Thơng qua q trình bàn
bạc, trao đổi vợ chồng có thể tìm ra được giải pháp dung hịa lợi ích cho cả hai.
Điều này là cơ sở quan trọng để mối quan hệ tài sản được “vận hành” một cách
suôn sẻ, thống nhất, giảm thiểu những tranh chấp khơng đáng có.
Đối với quan hệ hôn nhân, vật chất không phải là yếu tố được đặt lên hàng
đầu. Tuy nhiên, việc xác lập một chế độ tài sản rõ ràng và minh bạch theo ý chí
thống nhất của các bên, trong nhiều trường hợp lại là cơ sở để duy trì một mối quan
hệ bền vững. “Thỏa thuận về chế độ tài sản hạn chế ly hơn vì nó giúp các cặp đơi
vượt qua được bất đồng về mặt tài chính ngay từ ban đầu”31.
Thỏa thuận về chế độ tài sản là căn cứ quan trọng để phân chia tài sản khi vợ
chồng ly hôn. Thông thường, khi mâu thuẫn đã diễn ra, hai bên rất khó tìm được
tiếng nói chung để giải quyết hậu quả về tài sản. Quan hệ của vợ chồng lúc này chịu
tác động bởi sự rạn nứt về mặt tình cảm, cũng như những xung đột về lợi ích vật
chất. Quyết định được đưa ra thường chỉ hướng đến quyền lợi cá nhân mà không
quan tâm đến lợi ích của người cịn lại. Để hạn chế tình trạng kể trên, trước khi kết
hơn nam nữ có thể dự liệu những nguyên tắc giải quyết tranh chấp (dù cho lúc này
mâu thuẫn chưa phát sinh). Trên tinh thần bình đẳng, tự nguyện, tôn trọng lẫn nhau,
nguyên tắc giải quyết tranh chấp được thiết lập một cách sáng suốt, hợp lý, dung
hịa lợi ích của cả hai bên. Với sự tồn tại của chế độ tài sản theo thỏa thuận, hệ quả

31


Luật sư gia đình Alexis Neely, “Tại sao mỗi chúng ta nên có thỏa thuận trước hơn nhân” why
everyone should have prenup) (truy cập lần cuối ngày 06/08/2015)


20

pháp lý khi ly hôn (phần tài sản) được giải quyết một cách nhanh chóng và thuận
lợi.
Thỏa thuận về chế độ tài sản khơng chỉ có ý nghĩa to lớn đối với mối quan hệ
giữa vợ chồng mà trong một số trường hợp, còn là cơ sở quan trọng để giải quyết
tranh chấp với người thứ ba. Trên cơ sở thỏa thuận về chế độ tài sản mà quyền hạn,
nghĩa vụ của vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản được xác
định. Đây được xem là căn cứ quan trọng để xem xét, đánh giá, phân định trách
nhiệm giữa vợ chồng với nhau và giữa mỗi bên với chủ thể thứ ba có liên quan.
Cuối cùng, chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng thể hiện sự phát triển
của pháp luật HNGĐ Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới
Hiện nay pháp luật của rất nhiều quốc gia trên thế giới công nhận về các loại
chế độ tài sản khác nhau của vợ chồng. Ngay cả các nước trước đây theo hệ thống
pháp luật Xã hội chủ nghĩa (chỉ duy trì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định)
nay cũng đã thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận32.
Luật Gia đình Australia, Luật Gia đình Liên bang Nga, Bộ luật dân sự Nhật
Bản, Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, Luật
Gia đình của Philipines, Bộ luật dân sự Campuchia, Luật hôn nhân Thụy Điển... đều
ghi nhận nguyên tắc: vợ chồng có quyền thỏa thuận xác lập chế độ tài sản trong hôn
nhân, thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn; trong trường hợp các bên
khơng có thỏa thuận này thì áp dụng chế độ tài sản được quy định trong Luật. Đồng
thời pháp luật các quốc gia này cũng có quy định rất chặt chẽ về điều kiện có hiệu
lực, hình thức và việc sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về tài sản trong hôn
nhân33.
Là một quy định khá mới mẻ trong pháp luật việt Nam, chế độ tài sản của vợ

chồng theo thỏa thuận cần nhiều thời gian để thực sự trở nên quen thuộc và đi vào
đời sống thực tiễn. Với quy định này, pháp luật HNGĐ Việt Nam đã ngày càng hòa
nhịp với xu hướng vận động và phát triển của pháp luật các quốc gia trên thế giới.
Điều này càng trở nên có ý nghĩa khi chế độ tài sản của vợ chồng thực sự là một chế
định bảo vệ tốt quyền tự do của nam nữ, vợ chồng. Đồng thời, sự ra đời của chế độ

32

Chẳng hạn, Bộ luật gia đình của Liên bang Nga 1995, của Cộng hịa Séc, Luật gia đình Belarus 2010.
Trích “Bản thuyết minh Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000” – Bộ Tư pháp.
33


21

tài sản của vợ chồng theo thoả thuận hoàn toàn phù hợp và đáp ứng được những yêu
cầu về kinh tế - xã hội hiện nay đang đặt ra đối với mối quan hệ pháp luật HNGĐ.
1.3.

Cơ sở hình thành chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

1.3.1.

Cơ sở kinh tế - xã hội

“Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật hơn
nhân và gia đình, được Nhà nước quy định dựa trên sự phát triển về kinh tế - xã hội.
Nội dung chế độ tài sản thể hiện tính giai cấp và bản chất của xã hội cụ thể. Thơng
qua chế độ tài sản của vợ chồng, có thể nhận biết được trình độ phát triển của các

điều kiện kinh tế - xã hội và bản chất của chế độ xã hội”34.
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng phát triển song song cùng với sự phát triển
của mối quan hệ kinh tế trong xã hội. Trước đây, khi điều kiện kinh tế chưa phát
triển, hầu như mọi gia đình chỉ quan tâm đến việc đáp ứng những nhu cầu sống cơ
bản nhất. Sở hữu tài sản dư thừa là điều không phổ biến đối với đại bộ phận dân số.
Cũng chính vì vậy, u cầu phân chia tài sản, bảo vệ quyền sở hữu của mỗi cá nhân
bên cạnh sở hữu chung là điều không cần thiết. Quan hệ tài sản của vợ chồng vì vậy
cũng khá đơn giản. Pháp luật Hơn nhân và gia đình cả trên phương diện lý luận và
thực tiễn không đi sâu vào giải quyết những vấn đề như tranh chấp tài sản chung,
tài sản riêng; phân chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân. Quan hệ hơn nhân nói
chung và quan hệ tài sản vợ chồng nói riêng, chủ yếu chịu sự điều chỉnh của các
quy phạm đạo đức và quy phạm tập quán hơn là chịu sự tác động của quy phạm
pháp luật. Tuy nhiên, khi kinh tế phát triển, tài sản dư thừa đã xuất hiện trong xã hội
cũng như trong gia đình thì hàng loạt các câu hỏi được đặt ra như: khối tài sản thuộc
sở hữu của ai, do ai quản lý, được sử dụng vào những mục đích gì… Quan hệ tài
sản giữa các chủ thể dần được chú trọng hơn, kéo theo đó là sự cụ thể hóa, chi tiết
hóa nội dung quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong pháp luật hôn nhân gia đình.
Các quy định pháp luật ra đời sau thường được bổ sung và hoàn thiện để trở
nên phù hợp với sự phát triển của các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp. Khi
đời sống kinh tế ngày một nâng cao, người ta bắt đầu nghĩ đến nhiều hơn những
biện pháp bảo vệ tài sản của mình và hạn chế việc phải chia sẻ cho người khác khối
34

Đoàn Thị Ngọc Hải, “Cơ sở lý luận, thực tiễn của chế độ tài sản của vợ chồng – một số vấn đề cần trao
đổi”
(cập nhật lần cuối ngày
06/8/2015).



×