Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU THỦY

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO
THỎA THUẬN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM NĂM 2014
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số:60380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI MINH HỒNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự giúp đỡ của giáo
viên hướng dẫn. Những kết luận khoa học của Luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công
trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về Luận văn này nếu có bất kỳ sự tranh
chấp nào.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2015
Tác giả Luận văn


Nguyễn Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chƣơng I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA

5

VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN
1.1 Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

5

1.1.1 Khái quát chung về chế độ tài sản của vợ chồng

5

1.1.2 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

8

1.1.2.1 Định nghĩa

8


1.1.2.2 Đặc điểm

9

1.1.2.3 Ý nghĩa của việc thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa

13

thuận
1.2 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật ở

17

Việt Nam qua các thời kỳ
1.2.1 Vấn đề tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến

17

1.2.2 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật thời kỳ

20

Pháp thuộc
1.2.3 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật ở miền

21

Nam giai đoạn 1954 – 1975
1.2.4 Vấn đề chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật
ở miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975 và từ khi đất nước thống nhất đến nay


24

1.2.4.1 Giai đoạn trước khi có Luật HN&GĐ năm 2014

24

1.2.4.2 Giai đoạn từ khi có Luật HN&GĐ năm 2014

27


1.3 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật một

29

số nƣớc
1.3.1 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Hoa Kỳ

29

1.3.2 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong BLDS Pháp

30

1.3.3 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong BLDS Nhật Bản

33

1.3.4 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong Bộ luật Dân sự


34

và Thương mại Thái Lan
1.3.5 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong Đạo luật Gia

35

đình Úc
Chƣơng II QUY ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

39

THEO THỎA THUẬN TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014
2.1 Quy định chung về chế độ tài sản của vợ chồng

39

2.1.1 Nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng

39

2.1.2 Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng

40

2.1.3 Nguyên tắc bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình

42


2.1.4 Nguyên tắc bảo đảm lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và

44

người khác
2.2 Xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

46

2.2.1 Điều kiện về nội dung

47

2.2.2 Điều kiện về hình thức

50

2.3 Nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

52

2.3.1 Xác định tài sản của vợ chồng

52

2.3.2 Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản

56


2.3.3 Phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản

58


2.4 Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ

60

chồng
2.5 Một số đề xuất nhằm thực hiện có hiệu quả chế độ tài sản của

64

vợ chồng theo thỏa thuận
KẾT LUẬN

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

HN&GĐ


: Hôn nhân và gia đình

HVLL

: Hoàng Việt Luật lệ

NĐ-CP

: Nghị định - Chính phủ

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP

: Nghị định của Chính phủ số
70/2001/NĐ-CP

ban

hành

ngày

03/10/2001 quy định chi tiết thi hành
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP

Luật HN&GĐ năm 2000
: Nghị định của Chính phủ số
126/2014/NĐ-CP ban hành ngày
31/12/2014 quy định chi tiết một số


QTHL

điều và biện pháp thi hành Luật
HN&GĐ năm 2014
: Quốc Triều Hình Luật


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay còn gọi là hôn ước đã được
thừa nhận rộng rãi và áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới. Pháp luật quy định chế độ
tài sản của vợ chồng được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo luật định, trong đó,
chế độ tài sản theo luật định chỉ áp dụng khi vợ chồng không có thỏa thuận về chế
độ tài sản. Ở châu Á, các nước như Ấn Độ, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Philipines, Singapo, Thái Lan...đều giải quyết chế độ tài sản của vợ chồng theo
hướng này. Mặc dù có những lo ngại về việc thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận có thể đe dọa tính cộng đồng và truyền thống trong gia đình Á
Đông, nhưng quan điểm chung được thừa nhận vẫn là tôn trọng sự thỏa thuận của
vợ chồng về chế độ tài sản của họ.
Cũng như các nước khác trong khu vực, quyền tự định đoạt đối với tài sản cá
nhân là quyền hiến định ở nước ta. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình,
Nhà nước ta đặt ra nhiều hạn chế, trong đó chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài
sản theo luật định mà không phải là theo thỏa thuận. Xác định rằng, cho phép vợ
chồng có quyền lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận chính là góp phần đảm bảo
thực hiện quyền tự định đoạt đối với tài sản của cá nhân, Luật hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ) năm 2014 thay thế Luật HN&GĐ năm 2000 đã thừa nhận chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận. Đây là một sự chuyển biến lớn về tư tưởng của nhà
lập pháp Việt Nam về chế độ tài sản của vợ chồng và là chủ đề được xã hội đặc biệt

quan tâm. Bởi vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014”
với mong muốn mang đến cái nhìn rõ nét hơn về chế độ tài sản của vợ chồng theo


2

thỏa thuận mà Luật HN&GĐ mới đã ghi nhận, góp phần đưa các quy định mới này
đi vào thực tiễn cuộc sống.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ
chồng nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nói riêng, tiêu biểu
có thể kể đến một số công trình như:
+ Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nguyễn Văn Cừ, Luận án Tiễn sĩ Luật học, năm 2005;
+ Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa
Pháp và pháp luật Việt Nam, Bùi Minh Hồng, Tạp chí Luật học, Số 11 năm 2009,
tr18 – 25;
+ Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng hôn ước ở Việt Nam, Phạm Thị
Linh Nhâm, Khóa luận tốt nghiệp, năm 2010;
+ Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam,
Nguyễn Thị Kim Dung, Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2014.
Song, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thừa nhận trong Luật
HN&GĐ năm 2014 là một vấn đề hoàn toàn mới trong hệ pháp luật về hôn nhân gia
đình của nhà nước ta. Do đó, có thể khẳng định, luận văn là công trình đầu tiên tập
trung nghiên cứu một cách toàn diện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
theo Luật HN&GĐ năm 2014.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận đã được thừa nhận ở nhiều nước
trên thế giới. Trong lịch sử, ở Việt Nam cũng đã từng ghi nhận sự tồn tại của chế độ

tài sản này. Tuy nhiên, bên cạnh một số vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ


3

chồng theo thỏa thuận, Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận trong phạm vi các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam
hiện hành.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu bằng sự kết hợp nhiều phương pháp như: phân
tích, đánh giá, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử…trên cơ sở phương pháp luận
của Chủ nghĩa duy vật, Chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm xem xét, đánh giá vấn đề một
cách toàn diện.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận xung quanh
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, đánh giá các quy định hoàn toàn mới
về chế độ tài sản này trong Luật HN&GĐ năm 2014 từ đó hoàn thiện và góp phần
bảo đảm tính khả thi của các quy định đó.
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận;
- Tìm hiểu quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong
pháp luật ở Việt Nam qua các thời kỳ và trong pháp luật của một số nước trên thế
giới để so sánh, đối chiếu, trên cơ sở đó đưa ra nhận xét và đánh giá chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận trong Luật HN&GĐ năm 2014;
- Phân tích các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong
Luật HN&GĐ năm 2014, từ đó đưa ra nhận xét, hoàn thiện các quy định này.
6. Những điểm mới của Luận văn



4

Những điểm mới của Luận văn thể hiện ở các nội dung sau: Nghiên cứu một
cách có hệ thống các vấn đề lý luận xung quanh chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận;
Nêu rõ ý nghĩa của việc thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận trong Luật HN&GĐ năm 2014;
Phân tích, đánh giá các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và đưa ra kiến
nghị, góp phần hoàn thiện các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành hai chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận.
Chương II: Quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.


5

Chƣơng I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO THỎA THUẬN
1.1 Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
1.1.1 Khái quát chung về chế độ tài sản của vợ chồng
Trong đời sống hôn nhân và gia đình, tài sản là cơ sở đảm bảo đời sống vật
chất, tinh thần của vợ chồng và đáp ứng nhu cầu của gia đình, giúp gia đình thực
hiện tốt các chức năng duy trì nòi giống, chức năng giáo dục và chức năng kinh tế.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình dành nhiều quy định điều chỉnh những vấn đề về
tài sản của vợ, chồng để bảo vệ lợi ích của vợ chồng nói riêng và của gia đình nói

chung. Những quy định này hợp thành một chế độ pháp lý, được gọi là chế độ tài
sản của vợ chồng.
Ở Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng từ lâu đã được pháp luật quy định
nhưng lại chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Từ điển Luật
học giải thích một cách ngắn gọn: “chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài
sản riêng” [5, tr.129]. Cụ thể hơn, theo TS. Nguyễn Văn Cừ, “chế độ tài sản của vợ
chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh
quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng; bao gồm các quy định về căn cứ, nguồn gốc
xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng đối với các loại tài sản đó; quy định các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản chung của vợ chồng” [11, tr.1].
Hai định nghĩa trên đều đã đưa ra những nội dung cơ bản về chế độ tài sản
của vợ chồng. Nhưng, chế độ tài sản này chỉ mang tính cách là chế độ tài sản của vợ


6

chồng theo pháp luật Việt Nam trước đây mà không khái quát được hết về chế độ
tài sản của vợ chồng nói chung theo pháp luật của các nước trên thế giới cũng như
pháp luật Việt Nam hiện hành. Hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam
đã thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, trong đó pháp luật ghi
nhận các nội dung cơ bản của chế độ tài sản của vợ chồng không bắt buộc phải do
“quy định của pháp luật” hay “quy phạm pháp luật” quy định mà có thể do thỏa
thuận của các bên quy định. Nói cách khác, các định nghĩa trên cũng không còn phù
hợp với chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014.
Do đó, theo chúng tôi, có thể đưa ra định nghĩa về chế độ tài sản của vợ
chồng như sau: Chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản bao gồm tất cả các
quy định về quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng, gồm: căn cứ, nguồn gốc xác lập
tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối

với các loại tài sản đó và nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng không bao gồm vấn đề cấp dưỡng và vấn đề
thừa kế tài sản giữa vợ và chồng. Bởi, chế độ tài sản của vợ chồng điều chỉnh quan
hệ sở hữu tài sản của vợ chồng, liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng từ khi kết hôn đến khi hôn nhân kết thúc. Vấn đề cấp dưỡng và vấn đề thừa
kế tài sản chỉ được đặt ra khi quan hệ hôn nhân đã chấm dứt.
Các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng không chỉ là căn cứ pháp lý để
vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình mà còn là cơ sở để giải
quyết các tranh chấp về tài sản phát sinh giữa vợ với chồng, giữa vợ chồng với
người thứ ba. Với tầm quan trọng đó, chế độ tài sản của vợ chồng đã sớm được ghi
nhận trong pháp luật về hôn nhân và gia đình. Cụ thể, có hai loại chế độ tài sản của
vợ chồng từng được áp dụng trên thế giới: Chế độ tài sản pháp định (theo quy định


7

của pháp luật) và chế độ tài sản ước định (theo sự thỏa thuận của vợ chồng- còn gọi
là hôn ước).
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản của vợ chồng mà trong đó việc xác
lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; cách
thức quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng; phân chia tài sản đều phải
tuân theo những quy định của pháp luật đã được các nhà làm luật dự liệu trước. Chế
độ tài sản pháp định thường được ghi nhận trong pháp luật về hôn nhân và gia đình
ở tất cả các quốc gia trên thế giới (Pháp luật của Anh không quy định về chế độ tài
sản của vợ chồng theo luật định). Trong đó, có những nước đã từng chỉ thừa nhận
chế độ tài sản pháp định suốt một thời gian dài như Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungari,
Bulgari, Roumani, Cu-ba, Trung Quốc, Việt Nam…Nhà làm luật ở các nước thuộc
hệ thống xã hội chủ nghĩa này không quan niệm hôn nhân là hợp đồng dân sự. Yếu
tố tình cảm, sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên gia đình đã
quyết định cách thức điều chỉnh đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình bằng hệ

thống các quy phạm pháp luật riêng.
Ngược lại, nhiều nước từ lâu đã thừa nhận cả hai loại chế độ tài sản của vợ
chồng là chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản pháp định ( áp dụng trong
trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận về chế độ tài sản) như Mỹ, Pháp, Bỉ, Hà
Lan, Đức, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Đan Mạch, Thái Lan, Úc, Newzeland, Nhật
Bản…Nhà làm luật ở các nước này quan niệm thuần túy coi hôn nhân như hợp đồng
dân sự, vì vậy đã sớm chấp nhận sự thỏa thuận của vợ chồng trong việc lựa chọn
chế độ tài sản. Các quy định liên quan đến sở hữu chung của vợ chồng thường được
các nước này quy định ngay trong Bộ luật Dân sự [12]. Chẳng hạn, Điều 1465
BLDS và Thương mại Thái Lan quy định: “Khi vợ chồng không có sự thỏa thuận


8

đặc biệt về tài sản của họ trước khi kết hôn, thì quan hệ giữa họ về tài sản sẽ được
điều chỉnh bởi những quy định của chương này…”
Ở Việt Nam, nếu như chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật tồn tại từ
thời phong kiến (trong Bộ Luật Hồng Đức) cho đến nay, thì chế độ tài sản theo thỏa
thuận của vợ chồng chỉ được ghi nhận trong một số văn bản theo từng thời kỳ: Bộ
Dân Luật Bắc Kì năm 1931; Bộ Dân Luật Trung Kì năm 1936 (phỏng theo Bộ Dân
Luật Pháp năm 1804); Luật Gia đình ngày 02/01/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm;
Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh; Bộ Luật Dân sự ngày
20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Trong hệ thống pháp luật HN&GĐ của
Nhà nước Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chỉ đến Luật HN&GĐ năm 2014 chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận mới được thừa nhận song song với chế độ tài
sản của vợ chồng theo pháp luật.
1.1.2 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
1.1.2.1 Định nghĩa
Ở Việt Nam, có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận hay còn gọi là hôn ước. Theo TS. Nguyễn Văn Cừ,

“hôn ước (còn gọi là hôn khế, khế ước) theo pháp luật của các quốc gia phương
Tây là sự thỏa thuận bằng văn bản (hợp đồng) do vợ chồng kết lập với nhau từ
trước khi kết hôn nhằm điều chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân”[13]. Quan điểm khác cho rằng: “Hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập
trước khi kết hôn theo thể thức nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về
chế độ tài sản vợ chồng được áp dụng trong thời kỳ hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu
lực trong thời kỳ hôn nhân”[31, tr.4]; “Hôn ước là sự thỏa thuận giữa vợ và chồng
về việc lựa chọn chế độ quản lý và thanh toán tài sản trong gia đình để áp dụng cho
suốt thời kỳ hôn nhân của họ”[19]. Hay: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa


9

thuận là chế độ tài sản mà theo đó vợ chồng cùng thỏa thuận về việc xác lập, thực
hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thỏa thuận này được thể hiện dưới
dạng văn bản và dưới nhiều tên gọi khác nhau như: hôn ước, hợp đồng tiền hôn
nhân hoặc thỏa thuận trước hôn nhân…”[18, tr.17].
Có thể thấy, dù hiểu theo quan điểm nào, chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận là chế độ tài sản xác lập theo thỏa thuận của vợ chồng được thể hiện
bằng văn bản, do vợ chồng cùng nhau thỏa thuận từ trước khi kết hôn về chế độ tài
sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận chỉ phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký kết hôn và thông thường có
hiệu lực đến thời điểm hôn nhân chấm dứt. Trong trường hợp vợ chồng sửa đổi, bổ
sung, thậm chí lựa chọn thay đổi toàn bộ nội dung chế độ tài sản theo thỏa thuận thì
chế độ tài sản đã xác lập có thể chấm dứt hiệu lực theo thỏa thuận của các bên ngay
khi hôn nhân đang tồn tại.
Theo đó, có thể đưa ra định nghĩa về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận một cách đầy đủ như sau: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là chế
độ tài sản của vợ chồng xác lập theo thỏa thuận của vợ chồng bằng văn bản được
lập từ trước khi kết hôn quy định về quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng, gồm: căn

cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa
vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó và nguyên tắc phân chia tài sản của vợ
chồng.
1.1.2.2 Đặc điểm
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là một trong hai loại chế độ tài
sản của vợ chồng được ghi nhận trong pháp luật về hôn nhân và gia đình. Bởi vậy,
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có đầy đủ các đặc điểm của chế độ tài
sản của vợ chồng:


10

+ Thứ nhất, chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này phải có quan
hệ hôn nhân hợp pháp. Để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các bên nam,
nữ phải có đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự và phải tuân thủ các
điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật về HN&GĐ. Mặt khác, chế độ tài
sản của vợ chồng cũng không tồn tại giữa những người chỉ chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nói cách khác, chủ thể của quan hệ sở
hữu trong chế độ tài sản của vợ chồng phải là vợ, chồng được pháp luật công nhận
qua sự kiện kết hôn hợp pháp.
+ Thứ hai, xuất phát từ vai trò quan trọng của gia đình đối với xã hội, pháp
luật quy định về chế độ tài sản của vợ chồng luôn hướng đến mục tiêu bảm đảm
quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ, chồng. Chế độ tài sản
của vợ chồng dù theo thỏa thuận hay theo luật định vẫn đảm bảo trên hết quyền lợi
của gia đình, đặc biệt là những nhu cầu thiết yếu để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó,
chế độ tài sản của vợ chồng cũng góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân vợ, chồng,
trong đó, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận giúp vợ, chồng có thể đảm
bảo tối ưu quyền tự định đoạt của riêng mình đối với tài sản cá nhân.
+ Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
Mặc dù có thể được thỏa thuận trước khi hôn nhân xác lập (đối với chế độ tài sản

của vợ chồng theo thỏa thuận) nhưng chế độ tài sản của vợ chồng chỉ có hiệu lực
trong thời kỳ hôn nhân. Trước khi nam và nữ trở thành vợ, chồng hợp pháp của
nhau thì giữa họ không có chế độ tài sản của vợ. Trong trường hợp hai bên đã lập
văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, văn bản này đã được công
chứng hoặc chứng thực nhưng việc kết hôn không diễn ra thì thỏa thuận về chế độ
tài sản này cũng sẽ vô hiệu. Sau khi quan hệ vợ chồng chấm dứt, chế độ tài sản của
vợ chồng cũng đồng thời chấm dứt. Bởi vậy mà chế độ tài sản của vợ chồng không


11

bao gồm vấn đề thừa kế hay vấn đề cấp dưỡng, mặc dù các vấn đề này cũng liên
quan trực tiếp đến tài sản của vợ, chồng.
+ Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng mang những đặc thù riêng trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Thông thường người có tài sản riêng
có quyền tự mình định đoạt mà không phụ thuộc ý chí của người khác. Song, với
chế độ tài sản của vợ chồng, dù là chế độ tài sản pháp định hay chế độ tài sản theo
thỏa thuận, trong một số trường hợp nhất định quyền năng định đoạt tài sản của chủ
sở hữu có thể bị hạn chế (ví dụ: khi tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của
gia đình…) [14, tr.14-15]. Bởi, đặc thù của quan hệ gia đình là dựa trên nền tảng
tình cảm và huyết thống, do đó mặc dù cá nhân có quyền tự định đoạt tài sản riêng
mà không phụ thuộc ý chí của người khác nhưng trong gia đình, quyền tự định đoạt
tài sản đó không mang tính tuyệt đối.
Bên cạnh những đặc điểm chung nói trên, chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận còn có những đặc điểm riêng:
+ Thứ nhất, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận do hai bên vợ chồng
tự do thỏa thuận một cách tự nguyện, bình đẳng. Khác với chế độ tài sản pháp định,
chế độ tài sản ước định cho phép vợ, chồng tự do bàn bạc và xác lập với nhau các
quyền, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng. Chính nhờ đặc
điểm này mà chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận mang lại sự ưu việt hơn

trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt tài sản theo ý chí của cá nhân vợ, chồng.
Hầu hết các nước thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận đều
quy định việc thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng phải được thực hiện một
cách tự nguyện trước khi kết hôn. Theo đó, trước khi bước vào hôn nhân, hai bên
vợ, chồng thông qua hoạt động thỏa thuận đã thể hiện rõ phần nào ý chí cá nhân đối
với tài sản của mình. Mặc dù chế độ tài sản pháp định cũng ghi nhận sự thỏa thuận


12

của vợ chồng trong một số trường hợp nhất định, tuy nhiên chúng tôi cho rằng việc
thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn, tức là khi nam, nữ chưa xác lập quan hệ vợ
chồng sẽ đảm bảo tính tự nguyện, bình đẳng cao hơn. Do chưa chịu ảnh hưởng của
các mối quan hệ gia đình, quyền tự định đoạt tài sản của cá nhân cũng do đó mà dễ
dàng được đảm bảo hơn.
+ Thứ hai, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận phải được lập thành
văn bản trước khi kết hôn, tuy nhiên nó chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kỳ hôn
nhân. Nếu như việc lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp
luật hoàn toàn không cần vợ, chồng thể hiện bằng ý chí (mặc nhiên thừa nhận nếu
vợ, chồng không lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận), thì chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận chỉ được công nhận khi ý chí của các bên tham gia thỏa
thuận được thể hiện rõ ràng bằng văn bản. Như trên đã nêu, thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng phải được thực hiện trước khi kết hôn, do đó văn bản thể hiện sự
thỏa thuận này cũng cần phải được lập trước khi kết hôn. Chế độ tài sản của vợ
chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân nên văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng chỉ có hiệu lực khi hôn nhân tồn tại.
+ Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có phần đề cao quyền
lợi cá nhân của vợ, chồng hơn so với chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
Mặc dù vẫn hướng tới việc đảm bảo quyền lợi chung của gia đình, song chế độ tài
sản này cho phép vợ, chồng có thể tự do hơn trong việc thực hiện quyền sở hữu tài

sản của riêng mình. Đối với chế độ tài sản này, quyền tự định đoạt của cá nhân
được đảm bảo hơn, các quan hệ tài sản được thực hiện phù hợp hơn với điều kiện
gia đình, điều kiện kinh tế của vợ chồng. Người vợ, người chồng có thể tự do hơn
trong việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản cá nhân, đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu của mình nhưng vẫn bảo đảm lợi ích chung của gia đình.


13

+ Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có thể được sửa đổi,
bổ sung trong thời kỳ hôn nhân. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, nếu
như chế độ tài sản pháp định mang tính ổn định cao trong suốt thời kỳ hôn nhân thì
chế độ tài sản ước định lại có thể được thay đổi một hoặc nhiều lần. Điều này hoàn
toàn phù hợp với tinh thần đề cao sự tự do cá nhân, tự nguyện thỏa thuận của vợ
chồng. Tuy nhiên, việc sửa đổi này không thể thực hiện một cách tùy tiện mà phải
tuân theo những quy định của pháp luật. Hầu hết các nước thừa nhận chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận cũng đều cho phép vợ, chồng có thể thỏa thuận sửa
đổi, bổ sung chế độ tài sản này.
+ Thứ năm, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận không bắt buộc phải
được thiết lập mà do sự chủ động lựa chọn của các bên trước khi kết hôn, nó không
làm hạn chế quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, không ảnh hưởng đến nghĩa
vụ đối với con. Xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận hay không là quyền của vợ
chồng, do vợ chồng lựa chọn, không phải là quy định bắt buộc của pháp luật. Vợ,
chồng có thể thống nhất lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo luật định
sao cho phù hợp với nhu cầu của mỗi bên. Nếu vợ chồng không lựa chọn chế độ tài
sản theo thỏa thuận thì chế độ tài sản theo luật định bắt buộc được thiết lập.
1.1.2.3 Ý nghĩa của việc thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đời sống hiện nay, sự phát triển của các điều
kiện về kinh tế - xã hội, cũng như sự cần thiết trong việc tương thích với pháp luật
trong nước và thế giới, Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 đã thừa nhận chế độ tài

sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Việc thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận có một số ý nghĩa quan trọng sau:
+ Thứ nhất, việc thừa nhận chế độ tài sản ước định đã bảo đảm quyền tự định
đoạt của công dân về sở hữu tài sản. Điều này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần


14

của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và quy định
của BLDS năm 2005. Cụ thể, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã tuyên bố:
“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật;
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Điều 32 Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định:
“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở,
tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các
tổ chức kinh tế khác;
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.”
Điều 15 BLDS Việt Nam năm 2005 quy định:
“Cá nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự sau đây:
1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản;
2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản;
3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.”
Có thể thấy, chế độ tài sản pháp định theo quy định của Luật HN&GĐ năm
2014 cũng đã thể hiện sự tôn trọng quyền công dân trong quan hệ sở hữu tài sản của
vợ chồng bằng nhiều quy định ghi nhận sự thỏa thuận như: chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung (Điều 35), thỏa thuận đưa tài sản chung vào kinh doanh (Điều 36),

thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Điều 38) …Tuy nhiên, việc


15

ghi nhận thêm chế độ tài sản ước định bên cạnh chế độ tài sản pháp định, thừa nhận
vợ chồng có quyền tự do lựa chọn chế độ tài sản đã đề cao và nhấn mạnh hơn nữa
sự tôn trọng quyền tự định đoạt của công dân về sở hữu tài sản của nhà nước ta
[16].
+ Thứ hai, Việt Nam thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là
xu hướng tất yếu để pháp luật nói chung, pháp luật về hôn nhân và gia đình nói
riêng phù hợp, tương thích hơn với pháp luật nước ngoài. Hầu hết các nước trên thế
giới đều đã chấp nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về quan hệ sở hữu tài sản, cho
phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản để áp dụng trong thời kỳ hôn nhân. Anh và
Pháp là những nước đã áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận từ rất
lâu. Sự xuất hiện của hôn ước ở những nước này gắn liền với sự bảo vệ quyền lợi
của những người phụ nữ lập gia đình và người thân thích của họ trong việc định
đoạt những tài sản có trước khi kết hôn cũng như sử dụng các hoa lợi, lợi tức của
những tài sản này [18, tr.18].
+ Thứ ba, ghi nhận thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể giúp vợ
chồng chủ động trong hoạt động kinh doanh, hạn chế rủi ro về tài sản có thể xảy
đến cho gia đình, bảo vệ tài sản riêng của mỗi bên, mang lại sự minh bạch trong
quan hệ tài sản của vợ chồng, đồng thời hướng đến xây dựng cuộc sống gia đình
bền vững.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận giúp tạo cho vợ chồng sự chủ
động đối với tài sản của mình, tạo điều kiện cho vợ chồng được tự do phát triển
kinh tế và tránh những tranh chấp phát sinh trong quan hệ tài sản của hai bên vợ
chồng. Việc tài sản riêng của mỗi bên được bảo vệ bằng thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng từ trước khi kết hôn có thể giảm thiểu mâu thuẫn, tranh chấp tài
sản giữa vợ và chồng. Nếu vợ chồng cùng ủng hộ việc lập thỏa thuận về chế độ tài



16

sản, coi đây là cách thức hiện đại và tiến bộ để tránh những mâu thuẫn về tài sản
trong hôn nhân, thì quan hệ giữa vợ chồng không những không bị thỏa thuận này
làm cho xấu đi mà còn được củng cố vững chắc hơn. Người Việt Nam có câu “mất
lòng trước, được lòng sau”. Vì vậy, việc cụ thể hóa – “rạch ròi” quan hệ tài sản
trước khi kết hôn không hề tạo ra sự nghi ngại, ngăn cách giữa hai vợ chồng, thể
hiện sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, không có ý thức xây dựng cuộc sống gia đình bền
vững như nhiều người lầm tưởng.
+ Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thừa nhận giúp
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba – những người khác có liên
quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Khi vợ, chồng tham gia vào các giao dịch
dân sự với bên thứ ba, nhờ có thỏa thuận rõ ràng, cụ thể về tài sản của vợ, chồng mà
người thứ ba tham gia giao dịch có thể đánh giá được mức rủi ro khi họ tiến hành
hoạt động mua bán, tặng cho, cầm cố tài sản...với vợ hoặc chồng. Bởi, chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận với các nội dung cụ thể được thể hiện bằng văn
bản giúp bên thứ ba dễ dàng xác định được nghĩa vụ vợ, chồng phải thực hiện được
đảm bảo bằng tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng.
+ Thứ năm, trong trường hợp vợ chồng có yêu cầu phân chia tài sản, việc
thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận giúp Tòa án giải quyết việc
phân chia tài sản một cách công bằng và nhanh chóng. Chế độ tài sản theo thỏa
thuận đã khắc phục được yếu điểm của chế độ tài sản theo luật định trong trường
hợp này. Nếu như với chế độ tài sản pháp định, Tòa án thường gặp rất nhiều khó
khăn trong việc xác định cụ thể đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ
chồng nằm trong khối tài sản tranh chấp thì với chế độ tài sản ước định, thỏa thuận
về chế độ tài sản của vợ chồng được thể hiện dưới dạng văn bản, lập trước khi kết
hôn là cơ sở, căn cứ quan trọng để Tòa án giải quyết vụ việc một cách dễ dàng. Như



17

vậy, việc Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận là hết sức thiết thực và hợp lý.
1.2 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật ở Việt Nam
qua các thời kỳ
1.2.1 Vấn đề tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến
Pháp luật về hôn nhân và gia đình trong giai đoạn trước khi Quốc Triều Hình
Luật (QTHL) xuất hiện còn hết sức sơ sài, không có những quy định chi tiết về
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của vợ chồng. Những quy định về chế độ tài
sản giữa vợ và chồng thời kỳ này chủ yếu là sử dụng tập quán địa phương hoặc du
nhập những quan điểm của Trung Quốc, đề cao vai trò người chồng và phương thức
bảo vệ sự thống trị của người chồng trong gia đình.
Dưới triều Lê, QTHL (Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Luật Hình triều Lê)
ra đời, tuy vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo và mang tính gia
trưởng cao độ nhưng đã có những bước tiến vượt bậc mang tính dân tộc nhiều hơn.
Đặc biệt, Bộ luật này quy định khá chi tiết về tài sản của vợ chồng. Bộ Luật Hồng
Đức dưới triều Lê đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ “cộng đồng
toàn sản” – giữa vợ chồng chỉ có tài sản chung đặt dưới sự quản lý của người chủ
gia đình là người chồng; toàn bộ tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn và tạo ra
được trong thời kỳ hôn nhân đều được tính thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung được sử dụng cho nhu cầu đời sống chung của gia đình, nghĩa vụ
giáo dưỡng các con và để lại thừa kế cho các con về sau [11].
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản riêng của người chồng, được
thừa kế từ gia đình mình (phu gia điền sản), tài sản riêng của người vợ do được thừa
kề từ gia đình mình (thê gia điền sản) và tài sản do vợ chồng làm ra trong thời gian


18


hôn nhân (tần tảo điền sản). Sự quy định rõ thành phần khối tài sản chung của vợ
chồng là điểm rất tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê.
Tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước
khi kết hôn, do được thừa kế từ gia đình của mỗi người. Vợ chồng đều có quyền sở
hữu đối với những tài sản này. Những tài sản này được quản lý chung và khai thác
sử dụng chung. Tuy nhiên, tài sản riêng chỉ tạm thời gộp chung để vợ chồng quản lý
trong thời gian hôn nhân tồn tại. Khi li hôn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về
người đó và họ có quyền mang theo, trừ trường hợp người vợ có lỗi như gian dâm
thì điền sản phải để lại cho chồng: “Gian dâm với vợ người khác thì xử tội lưu hay
tội chết; với vợ lẽ người khác thì giảm một bậc. Với người quyền quý thì sẽ xử cách
khác, kẻ phạm tội đều phải nộp tiền tạ như luật định. Vợ cả, vợ lẽ phạm tội đề xử tội
lưu, điền sản trả lại cho người chồng. Nếu là vợ chưa cưới thì đôi bên đều được
giảm một bậc”(Điều 401) [38, tr.417].
Tuy QTHL đã có những bước cải tiến lớn trong việc phân định tài sản riêng,
chung trong quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng nhưng những quy định trong bộ
luật này vẫn bị ràng buộc bởi rất nhiều yếu tố mang tính phân biệt nam, nữ như:
người vợ được hưởng phần chia từ điền sản của chồng khi chồng mất, không được
nhận phần tài sản đó làm của riêng, nếu lấy chồng khác phải trả lại cho những người
thừa kế khác, nhưng chồng đi lấy vợ khác không bị tước đoạt phần điền sản…Chế
độ tài sản của vợ chồng trong Bộ luật này mặc dù đã có bước tiến vượt bậc so với
pháp luật thời Lý, thời Trần, quyền lợi của phụ nữ đã được bảo vệ hơn, tính bình
đẳng được thể hiện rõ hơn, song vẫn còn nhiều hạn chế do ảnh hưởng của tư tưởng
phụ quyền.
Đến pháp luật thời nhà Nguyễn (1802-1945), với Bộ luật Gia Long hay còn
gọi là Hoàng Việt Luật lệ (HVLL), các quy định về tài sản của vợ chồng có phần


19


lạc hậu, thiếu tính khoa học hơn so với QTHL. HVLL không những xóa bỏ các quy
định tiến bộ về quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng, mà còn sao chép những
quy định lỗi thời điều chỉnh về quan hệ gia đình của Bộ luật nhà Thanh, làm mất đi
tính bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Pháp luật nhà Nguyễn không
có quy định riêng về quan hệ tài sản vợ chồng nên phải theo đường lối, lễ nghĩa
chung, nghĩa là vợ và các con bị coi là không có tài sản riêng và không có quyền
tham gia định đoạt đối với tài sản gia đình [40, tr.97].
QTHL và HVLL đều không quy định về hôn ước – chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận. Trong HVLL có xuất hiện thuật ngữ “hôn thư” – “tư ước”
hay “khế ước”, nhưng thuật ngữ đó không được hiểu là hợp đồng thỏa thuận về vấn
đề tài sản của vợ chồng. “Hôn thư” trong HVLL được hiểu như sự hứa hẹn của hai
gia đình có con trai và con gái về hôn sự của các con, hay còn gọi là “hứa gả con cái
cho nhau” (Điều 94 HVLL quy định: “Người nào đã bằng lòng gả con gái và đã
chấp nhận “hôn thư” hoặc đã kí kết “tư ước” tức là đã biết rõ tình trạng về hôn
nhân và gia đình của vị hôn phu (như tuổi, tàn tật, bệnh nào, dòng giống, con chính
thức, con nuôi…) mà rồi tự mình vô cớ cự tuyệt sẽ bị phạt 50 trượng. Dù là không
có khế ước viết nhưng nếu đã nhận lễ vật (sính lễ) thì cũng bị trừng phạt như trên”
[13, tr.6].
Như vậy, vấn đề chế độ tài sản của vợ chồng đã được ghi nhận trong pháp
luật thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, chế độ tài sản của vợ chồng theo hệ thống pháp
luật thời kỳ này là chế độ “cộng đồng toàn sản”, với nội dung toàn bộ tài sản mà vợ,
chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc do vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn
nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Nói cách khác, “chế độ tài sản của
vợ chồng trong cổ luật Việt Nam là chế độ cộng đồng pháp định. Chế độ này tài sản
này được áp dụng như là duy nhất cho các quan hệ vợ chồng [14, tr.40].


×