Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM NHẬT BẢN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 41 trang )

QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT
NAM - NHẬT BẢN TỪ NĂM
1986 ĐẾN NĂM 2000


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................2
5. Đóng góp của đề tài..................................................................................................2
6. Bố cục.......................................................................................................................2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN ....................................3
1.1. Việt Nam ...............................................................................................................3
1.1.1. Điều kiện tự nhiên...........................................................................................3
1.1.2. Điều kiện xã hội ..............................................................................................3
1.1.3. Khái quát chung về nền kinh tế Việt Nam......................................................4
1.2. Nhật Bản................................................................................................................5
1.2.1. Điều kiện tự nhiên...........................................................................................5
1.2.2 Điều kiện xã hội ............................................................................................... 6
1.2.3. Khái quát chung về nền kinh tế Nhật Bản ......................................................6
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................8
CHƯƠNG 2. QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – NHẬT BẢN ...................................9
TỪ NĂM 1986 – 2000 ....................................................................................................9
2.1. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam .........................................................9
2.1.1. Quy mô đầu tư ................................................................................................ 9
2.1.2. Cơ cấu đầu tư ..................................................................................................9
2.1.3. Hình thức đầu tư ...........................................................................................10
2.2. Tài trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản cho Việt Nam .....................11
2.2.1. Khái quát chung về ODA .............................................................................11


2.2.2. Quá trình thực hiện ODA của Nhật Bản cho Việt Nam ............................... 11
2.2.3. Đánh giá tình hình tiếp nhận và sử dụng ODA Nhật Bản ở Việt Nam ........13
2.3. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản ................................................14
2.3.1. Quan hệ thương mại được đánh dấu bằng những sự kiện điển hình ............14
2.3.2. Kim ngạch buôn bán song phương ............................................................... 15


2.3.3. Cơ cấu các sản phẩm xuất - nhập khẩu.........................................................16
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 18
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG CỦA QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – NHẬT
BẢN TRONG THỜI GIAN TỚI ...................................................................................19
3.1. Lợi ích của Việt Nam trong quan hệ kinh tế với Nhật Bản ................................ 19
3.2. Lợi ích của Nhật Bản trong quan hệ kinh tế với Việt Nam ................................ 19
3.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – Nhật
Bản ............................................................................................................................. 19
3.4. Giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – Nhật Bản .................22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 25
KẾT LUẬN ...................................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 27


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đất nước với muôn vàn tiếng thơm cho đời, với một truyền thống
yêu nước, nơi của sự giao thoa kinh tế giữa các bạn bè năm châu, Việt Nam một đất
nước luôn phấn đấu để trở thành một nước cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Và điều
đó đã chứng minh rằng một đất nước muốn đi lên một cách tốt đẹp thì cần có sự
ngoại giao tốt ở nhiều lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, đặc biệt là kinh tế. Việt Nam
hợp tác kinh tế với các nước Tây Ban Nha, Hà Lan, Thụy Điển, Trung Quốc, Hàn
Quốc hay các nước Đông Nam Á như: Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanma,

Singapo… đặc biệt là quan hệ kinh tế với Nhật Bản một đất nước nằm ở Đông Bắc
Á. Hai nước đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng hiện tại từ năm 1986 đến năm 2000
đã có rất nhiều hợp tác tốt đẹp. Hai đất nước tuy cách trở về mặt địa lý nhưng vẫn
hợp tác song song và tồn tại bền vững lâu dài trong giai đoạn hiện nay.
Tôi chọn đề tài “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1986 đến năm
2000”, làm đề tài nghiên cứu. Đề tài hướng đến việc miêu tả sự tốt đẹp về quan hệ
kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn này.
Việc nghiên cứu tìm hiểu quan hệ kinh tế giữa hai nước là việc làm cần thiết,
mang ý nghĩa khoa học thực tiễn. Việc nghiên cứu đó góp một phần tư liệu mới cho
nghành lịch sử và những ngành khoa học khác có liên quan, từ đó giúp cho chúng ta
có nhìn nhìn tốt đẹp và ấn tượng hơn về hai nước Việt Nam - Nhật Bản.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việt Nam - Nhật Bản tuy chung một châu lục, cách trở về mặt địa lý nhưng
đã có sự giao thoa kinh tế tốt đẹp trong những năm gần đây. Chính vì thế đã có rất
nhiều cơng trình lớn, nhỏ đã tìm hiểu trên nhiều phương diện về mặt kinh tế giữa
hai nước Việt Nam - Nhật Bản và chưa có một tác giả nào làm rõ được tất cả các
mặt của vấn đề trên.
Như trong cuốn Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những năm
1990 và triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, năm xuất bản 2000_Vũ
Văn Hà (chủ biên): đã nêu lên quan hệ Việt Nam và Nhật Bản trong bối cảnh năng
động của nền kinh tế quốc tế, khu vực, chính sách kinh tế của 2 nước. Quan hệ
1


thương mại giữa hai nước nằm 1990. Vốn ODA của Nhật cho Việt Nam và sự đầu
tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam nhưng chưa đề cập tới lợi ích của Việt Nam
và Nhật Bản trong mối quan hệ của 2 nước. Chưa đề cập tới những thuận lợi, khó
khăn và giải pháp trong mối quan hệ kinh tế Việt – Nhật này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản từ

năm 1986 đến năm 2000”.
Về mặt thời gian: đề tài đã đề cập đến mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật
Bản từ năm 1986 đến năm 2000.
Về mặt nội dung: đề tài đi vào nghiên cứu tìm hiểu quan kinh tế Việt Nam Nhật Bản từ năm 1986 đến năm 2000 đây là giai đoạn huy hoàn để cho con cháu về
sau noi gương mà phát huy hơn nữa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu một cách sâu sắc về đề tài “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật
Bản”. Đề tài của tôi chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
Tưởng Hồ Chí Minh kết hợp vận dụng phương pháp chuyên ngành đó là phương
pháp lịch sử, phương pháp logic. Đề tài còn vận dụng phương pháp liên ngành,
phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu làm rõ vấn đề trên.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu về “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản” là nghiên cứu
về kinh tế của hai đất nước và từ đó giúp chúng ta hiểu hơn về quan hệ kinh tế Việt
Nam – Nhật Bản. Cũng như biết thêm về mối quan hệ mật thiết của hai nước. Đề tài
cũng góp phần cung cấp những thộng tin xác thực và có giá trị về mặt khoa học, tìm
thấy được mặt tích cực để phát huy những giá trị kinh tế giữa hai nước.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phục lục, nội dung bài
tiểu luận được chia làm ba chương:
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VIỆT NAM - NHẬT BẢN
Trong chương này tôi chỉ nêu khái quát chung về vị trí địa lý và kinh tế - xã
hội của Việt Nam - Nhật Bản.


CHƯƠNG 2. QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – NHẬT BẢN TỪ NĂM
1986 – 2000
Trong chương này tôi tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về Quan hệ kinh
tế của Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1986 đến năm 2000 trong đó tìm hiểu các vấn
đề, đầu tư, ODA và quan hệ thương mại Nhật Bản - Việt Nam.

CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG CỦA QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM –
NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN TỚI
Phân tích những lợi ích trong quan hệ kinh tế giựa Việt – Nhật, đưa ra các
khó khăn và thuận lợi trong mối quan hệ này, đồng thời nêu giải pháp thúc đẩy quan
hệ Việt – Nhật trong thời gian tới.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
1.1. Việt Nam
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Việt Nam là một quốc gia nằm ở Đơng Nam bán đảo Đơng Dương, có phần đất
liền trải dài từ kinh tuyến 102°8′ Đông đến 109°27′ Đông và từ vĩ tuyến 8°27′ Bắc đến
23°23′ Bắc. Diện tích đất liền vào khoảng 331.698 km².
Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, vịnh Bắc Bộ và biển
Đơng ở phía Đơng, Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa ở phía Bắc, Lào và Campuchia phía
Tây. Hình thể nước Việt Nam có hình chữ S, khoảng cách từ Bắc tới Nam (theo đường
chim bay) là 1.648 km và vị trí hẹp nhất theo chiều Đơng sang Tây là 50 km. Đường bờ
biển dài 3.260 km không kể các đảo. Ngoài vùng nội thuỷ, Việt Nam tuyên bố 12 hải
lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và
cuối cùng là thềm lục địa. Diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km2 biển Đơng.
Dọc theo lãnh thổ trải dài khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền Bắc có
khí hậu cận nhiệt đới ẩm, miền Trung mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong
khi khí hậu miền Nam nằm trong vùng nhiệt đới xa-van. Khí hậu Việt Nam có độ ẩm
tương đối trung bình 84-100% cả năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về vĩ độ và sự khác
biệt địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng.
Trong mùa Đông hay mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa thường
thổi từ phía Đơng Bắc dọc theo bờ biển Trung Quốc, qua vịnh Bắc Bộ, luồn theo các
thung lũng sông giữa các cánh cung núi ở Đơng Bắc mang theo nhiều hơi ẩm; vì vậy ở đa
số các vùng việc phân biệt mùa Đông là mùa khơ chỉ là khi đem nó so sánh với mùa

mưa hay mùa hè. Trong thời gian gió mùa Tây Nam mùa hè, xảy ra từ tháng 5 đến tháng
10, khơng khí nóng từ sa mạc Gobi phát triển xa về phía Bắc, khiến khơng khí ẩm từ biển
tràn vào trong đất liền gây nên mưa nhiều.
1.1.2. Điều kiện xã hội
Việt Nam đứng thứ 13 trong các nước Đông dân trên thế giới. Tổng điều tra dân số
vào năm 2009 ghi nhận nước ta có gần 86 triệu dân. Từ đó đến nay, tỷ suất tăng dân số
trung bình mỗi năm của Việt Nam là 1,06%, thấp hơn so với tỷ suất của giai đoạn 19992009 (1,2%). Chúng ta cũng có mức tăng quy mơ dân số thấp nhất trong 35 năm qua.

3


Tổng tỷ suất sinh 2,09 trẻ/phụ nữ hiện nay cũng cho thấy tỷ lệ sinh của Việt Nam đang
tiếp tục giảm và ổn định.
1.1.3. Khái quát chung về nền kinh tế Việt Nam
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp và mơ hình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa kiểu Xô Viết đã
được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển
kinh tế, nhất là tập trung cho cơng nghiệp hố, ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng.
Nhưng nền kinh tế nói chung và sản xuất cơng nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, có xu
hướng giảm sút và rơi vào khủng khoảng.
Vào năm 1986, Việt Nam tiến hành một số cải cách về kinh tế, mở cửa cho nền
kinh tế Việt Nam hòa nhập với quốc tế. Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao với
178 quốc gia, quan hệ kinh tế - thương mại, đầu tư trên 24 quốc gia và vùng lãnh thổ là
thành viên của Liên Hợp Quốc, ASEAN1 , ASEM2 , APEC3 , WTO4 , Tổ chức quốc tế
Pháp ngữ5 , Phong trào không liên kết và nhiều tổ chức quốc tế, khu vực khác…
Kể từ năm 2000 Việt Nam là một trong những nước có mức tăng trưởng kinh tế
nhanh nhất thế giới và theo Citigroup, mức tăng trưởng cao này sẽ còn tiếp tục phát triển.
Sau khi trải qua nhiều cuộc chiến tranh, Việt Nam thực thi chính sách Đổi mới, đặt mục
tiêu phát triển kinh tế. Song, vào năm 1992, khi viện trợ ODA của Nhật Bản được nối lại,
nền kinh tế tập trung bộc lộ nhiều yếu kém, cuộc sống của người dân rất thiếu thốn. Hệ

thống cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt, các nhà máy điện và mạng lưới tải điện, hệ
thống cấp thốt nước… vẫn ở trong tình trạng xuống cấp hoặc bị phá hủy do chiến tranh.
Vì vậy, năm 1990, Việt Nam nằm trong danh sách những nước nghèo nhất thế giới. Tuy
nhiên sau đó, nhờ tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân đã tăng lên gấp đôi vào năm
2000, Việt Nam bước vào nhóm các nước thu nhập trung bình. Kinh tế Việt Nam phát
1

ASEAN là tên viết tắt của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations), được
thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 tại Băng-cốc.
2

Diễn đàn hợp tác Á – Âu (tiếng Anh: The Asia-Europe Meeting, viết tắt ASEM), còn gọi là Hội nghị thượng đỉnh
Á - Âu, được chính thức thành lập vào năm 1996.
3
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia - Pacific Economic Cooperation, viết tắt là
APEC là tổ chức quốc tế của các quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường
mối quan hệ về kinh tế và chính trị.
4
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization). WTO được thành
lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15-4-1994.
5

Là cộng đồng các quốc gia và vùng lãnh thổ có sử dụng tiếng Pháp hay gọi tắt là Cộng đồng Pháp ngữ. Tổ chức
này bao gồm 56 thành viên và 19 thành viên khơng chính thức. Cộng đồng Pháp ngữ đang nhận cương vị quan sát
viên tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.

4


triển vượt bậc được như vậy là nhờ ý chí quyết tâm và sự nỗ lực bền bỉ của chính phủ và

nhân dân Việt Nam, bên cạnh đó là nhờ có nguồn vốn đầu tư của khối tư nhân và nguồn
viện trợ của các nhà tài trợ quốc tế. Sự hỗ trợ liên tục trong suốt 20 năm qua của Nhật
Bản, một trong những nhà tài trợ chính, và đối tác hữu nghị trong châu Á, đã đóng góp
khơng nhỏ cho nền kinh tế của Việt Nam.
1.2. Nhật Bản
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Nhật Bản là một đảo quốc ở Đông Bắc Á. Các đảo Nhật Bản là một phần của dải
núi ngầm trải dài từ Đông Nam Á tới Alaska. Nhật Bản có bờ biển dài 37.000 km, có đá
lớn và nhiều vịnh nhỏ nhưng rất tốt và đẹp. Đồi núi chiếm 73% diện tích tự nhiên cả
nước, trong đó khơng ít núi là núi lửa, có một số đỉnh núi cao trên 3000 mét, hơn 532
ngọn núi cao hơn 2000 mét. Ngọn núi cao nhất là núi Phú Sĩ cao 3776 mét. Giữa các núi
là các cao nguyên và bồn địa. Nhật Bản có nhiều thác nước, suối, sơng và hồ. Đặc biệt, ở
Nhật Bản có rất nhiều suối nước nóng, là nơi hàng triệu người Nhật thường tới để nghỉ
ngơi và chữa bệnh.
Mỗi năm Nhật Bản chịu vào khoảng 1000 trận động đất. Các hoạt động địa chấn
này đặc biệt tập trung vào vùng Kanto, nơi có thủ đô Tokyo và người ta cho rằng cứ 60
năm Tokyo lại gặp một trận động đất khủng khiếp. Động đất với mức 7 hoặc 8
trong thang Richter đã từng xảy ra ở Nhật Bản. Động đất cấp 3, 4 xảy ra thường xuyên.
Trận động đất xảy ra vào ngày 1 tháng 9 năm 1923, với cường độ 8,2 trên thang Richter,
đã tàn phá phần lớn hai thành phố Tokyo và Yokohama. Động đất là mối đe dọa lớn nhất
đối với Nhật Bản nên chính phủ Nhật mỗi năm đã phải bỏ ra hàng tỉ Yên Nhật để tìm
kiếm một hệ thống báo động sớm về động đất, và khoa học địa chấn tại Nhật Bản được
coi là tiến bộ nhất trên thế giới nhưng kết quả của các nghiên cứu và các dụng cụ báo
động cho tới nay chưa được coi là đáng tin cậy. Nhật Bản có 186 núi lửa cịn hoạt động
trong đó có núi Phú Sĩ. Đi kèm với núi lửa là các suối nước nóng cũng có rất nhiều ở
Nhật Bản.
Vì nằm ở tiếp xúc của một số lục địa nên Nhật Bản hay có động đất gây nhiều
thiệt hại. Động đất ngồi khơi đơi khi gây ra những cơn sóng thần. Vùng Hokkaido và
các cao ngun có khí hậu á hàn đới, các quần đảo ở phương Nam có khí hậu cận nhiệt
đới, các nơi khác có khí hậu ơn đới. Mùa Đơng, áp cao lục địa từ Siberi thổi tới khiến

cho nhiệt độ không khí xuống thấp; vùng Thái Bình Dương có hiện tượng foehn- gió khơ
5


và mạnh. Mùa hè, đôi khi nhiệt độ lên đến trên 30 độ C, các khu vực đơ thị có thể lên đến
gần 40o. Khơng khí mùa hè ở các bồn địa nóng và ẩm. Vùng ven Thái Bình Dương hàng
năm chịu một số cơn bão lớn.
1.2.2 Điều kiện xã hội
Dân số Nhật Bản hiện nay lên tới khoảng 127 triệu người, xếp hàng thứ 10 trên thế
giới, phần lớn là đồng nhất về ngơn ngữ và văn hóa ngoại trừ thiểu số những cơng nhân
nước ngồi, Zainichi Hàn Quốc, Zainichi Trung Quốc, người Philippines, người Nhật gốc
Brasil. Tộc người chủ yếu là người Yamato cùng với các nhóm dân tộc thiểu số
như người Ainu. Dân cư Nhật Bản phân bố không đồng đều trong cả nước. Dân cư tập
trung Đơng nhất ở vành đai Thái Bình Dương.
Nhật Bản là một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhất thế giới, trung bình
là 81,25 tuổi cho năm 2006. Tuy nhiên, dân số nước này đang lão hóa do hậu quả của sự
bùng nổ dân số sau chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 2004, 19,5% dân số Nhật trên 65
tuổi.
1.2.3. Khái quát chung về nền kinh tế Nhật Bản
Nhật Bản một nền kinh tế thị trường phát triển. Quy mô nền kinh tế này theo thước
đo GDP với tỷ giá thị trường lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ, còn theo thước đo GDP
ngang giá sức mua lớn thứ ba sau Mỹ và Trung Quốc.
Trải qua nhiều biến động trong suốt lịch sử, cuối cùng, kinh tế Nhật Bản đã và
đang tăng trưởng, nhưng cũng nảy sinh khơng ít vấn đề. Vào thế kỉ XVI - XVII, kinh tế
Nhật Bản chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước và đánh bắt cá.
Công nghiệp bắt đầu phát triển sau cuộc Phục hưng Minh Trị vào giữa thế kỉ XIX.
Bước sang thế kỉ XX, ngành công nghiệp của Nhật Bản đã phát triển rõ rệt. Trong suốt
đầu thế kỉ XX, các ngành công nghiệp được ưa chuộng và phát triển nhất là
sắt thép, đóng tàu, chế tạo vũ khí, sản xuất xe cộ. Nhờ các ngành này mà quân đội Nhật
Bản bành trướng ra ngoài. Trong số những vùng mà Nhật chiếm được, đáng chú ý nhất

là Mãn Châu Lý của Trung Hoa và Triều Tiên.
Mặc dù ưu thế ban đầu nghiêng về Nhật Bản. Tuy nhiên, đến năm 1945, nước này
nằm trong tầm ném bom của đối phương. Máy bay ném bom của quân Đồng minh đã tàn
phá nhiều thành phố. Đáng chú ý nhất là vụ ném bom nguyên tử Hiroshima và
Nagasaki đã gây ra sức tàn phá lớn trên quy mô rộng. Sau vụ ném bom, các thành phố và
nhà máy bắt đầu tái thiết lại.
6


Vận mệnh của Nhật thay đổi sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào năm 1950.
Mỹ muốn Nhật sản xuất vũ khí để cung cấp cho lực lượng ủng hộ Nam Triều Tiên. Sản
lượng công nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực như sắt thép và đóng tàu, tăng nhanh
chóng. Nhờ sự hỗ trợ tài chính của Mỹ và quyết tâm khôi phục lại đất nước, đến
khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào năm 1953, nhiều nhà máy mới đã được xây
dựng. Sau sự bùng nổ kinh tế, các hãng điện tử hàng đầu thế giới đã xuất hiện như
Sony, Panasonic hay Honda.
Nền kinh tế của Nhật Bản phát triển chưa được bao lâu thì bỗng nhiên suy thối.
Trong những năm gần đây, rất nhiều cơng ty bị phá sản - hơn 17.000 công ty. Đây cũng
là điều dẫn đến tỉ lệ thất nghiệp tăng. So với các nước phương Tây thì tỉ lệ thất nghiệp
của Nhật ít hơn nhiều, nhưng nếu xét theo tiêu chuẩn Nhật Bản thì con số đó lại cao 5,2% vào năm 2003. Trong số những người bị thất nghiệp, rất nhiều người đã phải ngủ
ngồi đường vì khơng có nhà, hay thậm chí là tự tử. Trước tình hình đó, Nhật Bản đang
cố khắc phục để xây dựng lại nền kinh tế tốt hơn.

7


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Việt Nam và Nhật Bản có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên cũng như
điều kiện xã hội nên vấn đề hợp tác lâu dài về mặt kinh tế sẽ được đảm bảo hơn torng
thời gian tới. Nhật Bản là đất nước phát triển lớn mạnh vì vậy có thể giúp đượcm ột đất

nước đang trên đà phát triển nhưng còn lạc hậu và thiếu thốn như Việt Nam. Nhật Bản se
giúp Việt Nam khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có trữ lượng lớn ở Việt
Nam hiện nay nhưng do nhiều vấn đề và đặc biệt là do thiếu trình độ kỹ thuật cũng như
cơ sỡ hạ tầng nên chúng ta chưa khai thác được. Nhật Bản là một thị trường rộng lớn, vì
vậy chúng ta phải tập trung đẩy mạnh để khai thác thị trường tiềm năng này qua con
đường giao lưu thương mại giữa hai nước.

8


CHƯƠNG 2. QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – NHẬT BẢN
TỪ NĂM 1986 – 2000
2.1. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam
2.1.1. Quy mô đầu tư
Trước 1990 Nhật Bản thực hiện chủ trương “Đông cứng” tài trợ kinh tế nhưng
khơng đình chỉ các khoảng viện trợ nhân đạo được Nhật tiếp tục thực hiện vào Việt Nam
một khoản trị giá 130.000 USD dưới hình thức mua hàng của Nhật.
Từ 1990 cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu ổn định và
quan hệ giữa Việt – Nhật được xúc tiến trở lại, chính phủ Nhật quyết định nối lại viện trợ
cũng như đầu tư cho Việt Nam với tổng số 281,2 triệu USD, đưa nước Nhật lên vị trí số 1
trong các quốc gia tài trợ đầu tư cho Việt Nam.
Năm 1993 là 898,9 triệu USD, sau năm 1995 nguồn đầu tư của Nhật vào Việt
Nam tăng nhanh chóng do sự có mặt của các công ty lớn của Nhật đổ vào Việt Nam.
Đồng Yên lên giá thúc đẩy các công ty này đầu tư vốn của mình ra nước ngồi và đầu tư
cơ sở hạ tầng trút nguồn vốn ODA và FDI6 vào Việt Nam.
Năm 1996 việc triển khai các dư án đầu tư quy mô, vốn đầu tư viện trợ tăng lên
giữa các năm 1999 đạt tới 1120 triệu USD.
Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam từ ngành nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp,
đẩy mạnh khai thác tài nguyên thiên nhiên. Tiếp sau đó Nhật đầu tư vào mãng dịch vụ và
thương nghiệp.

2.1.2. Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư theo ngành cũng được điều chỉnh theo hướng hợp lý, tập trung vào
lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu xây dựng cơ sở hạ tầng và các cơ sở sản xuất công
nghiệp chủ chốt. Nhật bản đã dần tập trung lượng vốn khá lớn đầu tư vào Việt Nam, các
tập đồn kinh tế lớn của Nhật Bản có mặt hầu hết ở Việt Nam với các dự án có quy mô
lớn như Sony, Toyota, Honda…
Đến đầu năm 1995, Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam với 127 dự án và tổng số vốn
là 2156,693 triệu USD đứng thứ 3 sau Đài Loan và Hồng Kông đầu tư vào Việt Nam.
Theo thống kê, Nhệt Bản đầu tư vào Việt Nam lớn nhất ở 2 lĩnh vực dầu khí và khách sạn
du lịch (9,4%) tiếp theo là các ngành du lịch (4,75%) công nghiệp (4,6%) và ngư nghiệp
6

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh
doanh. Cá nhân hay công ty nước ngồi đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.

9


(2%). Tuy nhiên đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam ở giai đoạn này cũng hạn chế về
mức độ vốn và các dự án với quy mô nhỏ (năm 1994 trung bình một dự án đầu tư của
Nhật Bản khoảng 4 triệu USD).
Nhật Bản xúc tiến đầu tư vào các mãng kinh tế: ngân hàng, cảng biển, xuất nhập
khẩu… Về văn hóa – giáo dục như: tài trợ cho các trường đại học, các giao lưu văn hóa
giữa hai nước song phương và đa phương, du lịch. Ngoài ra Nhật còn tài trợ cho Việt
Nam về mảng y tế: tiêm chủng….
Việt Nam và Nhật Bản đều muốn mở rộng quan hệ giữa hai nước, không chỉ dừng
lại trong lĩnh vực kinh tế, mà cịn cả trong lĩnh vực chính trị và giao lưu văn hóa, giáo
dục. Chính phủ Nhật Bản đã đề nghị Việt Nam gữi các dự án xin viện trợ văn hóa của
Nhật bản và mỗi năm chính phủ Nhật Bản đều sẽ cấp viện trợ văn hóa khơng hồn lại cho

Việt Nam một dự án.
Trong các năm 1994 - 1995, nguồn viện trợ khơng hồn lại của Nhật bản cho Việt
Nam vẫn tiếp tục tăng, riêng năm 1995, Nhật đã thỏa thuận viện trợ tổng cộng 10,5 tỷ
yên vào Việt Nam trong toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, văn hóa.
Tóm lại Để góp phần thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam,
cơ cấu, chính sách đầu tư của Nhật Bản tập trung ưu tiên vào 5 lĩnh vực sau:
(1) Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.
(2) Hỗ trợ phát triển ngành giao thông vận tải và điện lực.
(3) Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn.
(4) Ưu tiên cho giáo dục, sức khỏe và dịch vụ y tế nhằm nâng cao đời sống của
nhân dân và tạo điều kiện cho phát triển trong tương lai.
(5) Cải thiện môi trường, trong đó nhấn mạnh tới bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
2.1.3. Hình thức đầu tư
Các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam chủ yếu bằng hình thức liên doanh (chiếm
61% số dự án và chiếm 70% vốn đầu tư ). Do đó nhà nước Việt Nam có những chính
sách đối xử công bằng giữa các liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngồi.
Hơn nữa tình hình chính trị và môi trường Việt Nam ổn định và phát triển. Hình thức này
được các nhà đầu tư Nhật Bản lấy làm cơ sở cho việc đầu tư vào Việt Nam bởi tính độc
lập tử chủ và khả năng kiểm soát hoạt động sản xuất của bản thân doanh nghiệp.

10


2.2. Tài trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản cho Việt Nam
2.2.1. Khái quát chung về ODA
Khái niệm: ODA là tên viết tắt của Official Development Assitance - Hỗ trợ phát
triển chính thức hay Viện trợ phát triển chính thức. (Hỗ trợ phát triển chính thức là một
hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các
khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đơi khi cịn gọi là
viện trợ. Gọi là phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển

kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức vì nó thường là cho
Nhà nước vay). ODA bao gồm các khoản viện trợ khơng hồn lại, viện trợ có hồn lại
hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho
các nước đang và chậm phát triển.
Đặc điểm: Có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đối với các
nước đang và kém phát triển (vốn ODA có thời gian cho vay (hồn trả vốn dài), có thời
gian ân hạn dài.
2.2.2. Q trình thực hiện ODA của Nhật Bản cho Việt Nam
Tháng 11 năm 1992, Nhật chính thức cơng bố nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam
và bắt đầu cho Việt Nam vay 45,5 tỷ yên với lãi suất ưu đãi 1%/năm trong vòng 30 năm,
trong đó 10 năm đầu khơng phải trả lãi.
Quyết định của Nhạt Bản khôi phục viện trợ ODA cho Việt Nam có một ý nghĩa
quan trọng trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ
hợp tác trên rất nhiều lĩnh vực giữa hai quốc gia.
Năm 1992, Việt Nam đã trở thành 1 trong 10 nước đứng đầu danh sách nhận viện
trợ ODA song phương của Nhật bản với số vốn là 281,24 triệu USD.
Năm 1993, Việt Nam xếp thứ 9 trong số các nước nhận viện trợ khơng hồn lại
của Nhật Bản với số tiền là 6720 triệu yên.
Tháng 8/1994, Thủ tưởng Nhật Bản Tomiichi Myazawa sang thăm hữu nghị chính
thức Việt Nam đã ký các văn kiện về việc viện trợ khơng hồn lại cho Việt Nam 7733
triệu n. Năm 1994, Việt Nam đã được Nhật Bản viện trợ 58,76 triệu USD. Ngồi ra,
Nhật cịn viện trợ hợp tác kỹ thuật cao cho Việt Nam trị giá 24,46 triệu USD.
Đến đầu năm 1995, Nhật đã cho Việt Nam vay 165 tỷ Yên, bao gồm cả 97,8 tỷ
yên từ khôi phục viện trợ vào năm 1992. Cũng vào ngày 21/4/1995, trong chuyến thăm
11


Nhật Bản của Tổng bí thư Đỗ Mười, Nhật Bản và Việt Nam đã ký một hiệp định tín dụng
trị giá 58 tỷ yên cho 8 dự án của Việt Nam, bao gồm: các dự án về xây dựng nhà máy

nhiệt điện và thủy điện, viện trợ khơng hồn lại để cải tạo hệ thống cấp thoát nước khu
vực Gia Lâm là 6,5 triệu yên, trang bị máy móc y tế cho thành phố Hà Nội là 590 triệu
yên. Đây là khoản tín dụng ưu đãi với lãi suất 1,8%/năm, thời gian vay là 30 năm, trong
đó 10 năm đầu không phải trả lãi. Hai nước cũng đã ký được một hiệp định viện trợ văn
hóa với gia giá 42 triệu yên để trang bị cho phòng học tiếng Nhật của trường Đại học
Ngoại thương. Đồng thời Nhật Bản cũng cam kết viện trợ khơng hồn lại 3 tỷ n để hỗ
trợ công cuộc cải cách ở Việt Nam.
Tháng 6/1995, trong chuyến thăm Việt Nam của thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản,
phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ khơng hoàn lại cho Việt Nam 1947 triệu yên (khoảng
23 triệu USD) để thực hiện giai đoạn hai, xây dựng cảng cá Vũng Tàu; 238 triệu yên
(khoảng 2,6 triệu USD) để thực hiện trương trình tiêm chủng mở rộng và 85.000 USD hỗ
trợ cho Việt Nam tham gia một số hoạt động của ASEAN. Tính chung trong năm 1995,
Nhật Bản đã thỏa thuận cho Việt Nam vay 70 tỷ Yên.
Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức của Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản vào
ngày 27/7/1996, phía Nhật đã cam kết viện trợ khơng hồn lại cho Việt Nam 3,557 tỷ n
(khoảng 35 triệu USD ) cho dự án xây dựng cầu nơng thơn và miền núi phía Bắc và 45,1
triệu n ( khoảng 450,000 USD) viện trợ văn hóa nhằm cung cấp thiết bị nghe nhìn cho
khoa tiếng Nhật Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
Nhìn chung, viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho Việt Nam đã tăng
khá nhanh. Trong thời gian 8 năm, từ 1992 đến 1999 Nhật Bản đã cam kết cho Việt Nam
vay 6,335 triệu USD, đặc biệt trong năm 1998 và 1999, mặc dù vẫn cịn rất khó khăn về
kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng Nhật vẫn cam kết cho Việt
Nam vay 835 triệu USD (năm 1998) và 1,1 tỷ USD (năm 1999, chiếm hơn một nữa trong
số 2,1 tỷ USD mà các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết cho Việt Nam vay).
Đến năm 2000 Nhật Bản là nước đứng đầu trong số 25 nước và 350 tổ chức quốc
tế tài trợ cho Việt Nam. Tính từ khi chính phủ Nhật Bản chính thức nối lại viện trợ cho
Việt Nam tháng 11/1992 cho đến năm 2000, tổng số viện trợ và phát triển chính thức
(ODA) đã lên tới 9280.31 tỉ Yên (khoảng 7,957 USD).

12



2.2.3. Đánh giá tình hình tiếp nhận và sử dụng ODA Nhật Bản ở Việt Nam
Thông qua các nguồn ODA, Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng rất nhiều cơng
trình hạ tầng kinh tế - xã hội như: khơi phục Bệnh viện Chợ Rẫy (TP. Hồ Chí Minh), xây
dựng Cảng cá Cát Lở (Vũng Tàu), nâng cấp Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), xây dựng hệ
thống cấp nước ở Gia Lâm (Hà Nội) và Hải Dương, xây dựng các cầu nhỏ ở nông thôn,
hệ thống thủy lợi Tân Chi, Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt - Nhật ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, nguồn vốn ODA còn dùng để xây dựng mở rộng và nâng cấp nhiều cơng
trình như: Quốc lộ 5, 10, 18, các cầu trên Quốc lộ 1, Nhà máy nhiệt điện Phả Lại 2, Phú
Mỹ 1, Nhà máy thủy điện Hàn Thuận - Đa My, Đại lộ Đông - Tây (TP.Hồ Chí Minh),
cầu Bãi Cháy (Quảng Ninh), cầu Thuận Kiều (Hải Phịng), cầu Thanh Trì (Hà Nội),
đường hầm xun đèo Hải Vân... Đáng chú ý, cầu Bãi Cháy hiện đang là cầu lớn và hiện
đại nhất không chỉ ở Việt Nam mà ở cả Đông Nam Á. Và các khoản vốn ODA còn đặc
biệt hướng tới ngành giáo dục, đầu tư cho các phòng học các thiết bị tiên tiến, đầu tư vào
ngành y tế như tiêm chủng và vắc xin.
Bên cạnh những thành tựu đã nêu trên, Việt Nam cũng cịn tồn tại nhiều khó khăn
bởi vì q trình tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam còn đang rất mới mẻ, chúng ta
vừa học tập và vừa thực hành trong điều kiện có nhiều khác biệt về quy định giữa trong
nước và nước ngồi, có nhiều khác biệt trong thủ tục cung cấp ODA giữa các nhà tài
trợ… chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót trong khâu tiếp nhận và sử dụng cụ thể
là:
Cơ chế quan lý và sử dụng các nguồn viện trợ khơng cịn nhiều điểm chồng chéo,
rườm rà nên đơi lúc dẫn đến tình trạng chậm trễ trong việc thành lập các Ban quản lý dự
án. Ví dụ như dự án thuộc lĩnh vực lâm nghiệp khi đạ có hiệu lực 3 tháng mà vẫn không
mở được tài khoản do thiếu nhân lực, sau 5 tháng dự án này mới rút được một khoản tiền
tạm ứng để hoạt động. Thực tế cho thấy các thủ tục xem xét và trình tự duyệt dự án cịn
phức tạp, phải trải qua nhiều cơng đoạn, nhiều cấp; nhất là khâu đấu thầu và chấm thầu
khiến cho thời gian thực hiện dự án bị chậm lại.

Nhìn chung các dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế nhất định; hàng ngàn cán bộ,
công nhân viên Việt Nam được đào tạo hoặc tái đào tạo về những kỹ năng chun mơn
hoặc quản lý thơng qua các chương trình, dự án ODA có kết quả cao. Tuy nhiên nhìn một
cách tồn diện nguồn viện trợ khơng hồn lại bị phân tán, dàn trải quá nhiều, chưa tập
13


trung vào những lĩnh vực có lợi thế tương đối và có khả nang tác động thúc đẩy sự phát
triển các ngành khác của nền kinh tế.
Hơn nữa, nhiều người vẫn coi viện trợ là của “trời cho”, vì vậy việc sử dụng và
quản lý các nguồn viện trợ thường khơng đảm bảo đúng chế độ tài chính, thậm chí cịn
rất lãng phí và tùy tiện. Điều đó cũng góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn vốn
ODA.
Về năng lực và khả năng làm việc của các nhân viên trong môi trường ODA: theo
đánh giá của nhiều nhà phân tích trong và ngồi nước, mặc dù ta đã qua một thời gian
khá dài tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, nhưng nhân sự và kỹ năng nhân sự
trong công tác điều hành – sử dụng nguồn vốn ODA ở những cấp khác nhau hiện đanh
thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, họ còn quá yếu so với yêu cầu quốc tế và yêu cầu
của các nhà tài trợ. Đây là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm xem xét nhưng tốc
độ khắc phục những yếu kém này còn quá chậm.
Hậu quả của các khâu trong quá trình tiếp nhận và sử dụng viện trợ đều có những
sai lầm lăp đi lặp lại nhiều lần, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay và uy tín
của Việt Nam trong lĩnh vực huy động và tiếp nhận ODA. Đó là những hạn chế nổi bật
đòi hỏi Việt Nam từng bước khắc phục để nguồn vốn ODA được sử dụng hiệu quả hơn.
2.3. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản
2.3.1. Quan hệ thương mại được đánh dấu bằng những sự kiện điển hình
Năm 1989 kinh tế - xã hội Việt Nam sau khi thực hiện đổi mới đã ngày càng ổn
định hơn, quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản ngày càng mật thiết. Nhiều cơ quan chính
phủ phụ trách về kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đến Việt Nam để xúc tiến dần các hoạt
động hợp tác kinh tế giữa hai nước bao gồm các cơ quan như: Tổ chức xúc tiến mậu dịch

Nhật Bản (JETRO), cục hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), quỹ hợp tác kinh tế với nước
ngoài (OECF), Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (KEIDANREN), Hội mậu dịch
Nhật Bản (JVTA). Để có được mối giao thỏa tốt đẹp về phía Nhật Bản đã tổ chức các
hoạt động giao lưu: Diễn đàn “Kinh tế và Văn hóa Nhật Bản” vào tháng 6 năm 1989 tại
Tokyo. Đến tháng 9 năm 1989, phía Việt Nam đã phối hợp với Nhật Bản tổ chức Hội
thảo “Giao lưu kinh tế Nhật - Việt” tại Hà Nội.
Ngày 29 tháng 12 năm 1987, Chính phủ ban hành Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt
Nam và chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1988. Năm 1989, Nhật Bản đã có
một dự án đầu tiên vào lĩnh vực dịch vụ.
14


Tháng 10 năm 1990, Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ
Thạch đã sang thăm Nhật Bản và đến tháng 6 năm 1991, Ngoại trưởng Nhật Bản
Makayama đã sang thăm Việt Nam.
Tháng 11 năm 1991, Keidanren đã cùng với Việt Nam thành lập Ủy ban Kinh tế
Nhật - Việt, để từ đó hai bên cùng phối hợp để mở rộng giao lưu kinh tế của hai nước.
Chính vì thế, xuất nhập khẩu đã có những chuyển biến rõ rệt vào năm 1991 đạt 879 triệu
USD tăng 70,3% so với năm 1989 và xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Nhật ngay từ
đầu những năm 1986 mới chỉ đạt 83 triệu USD thì năm 1991 đã lên tới 662 triệu USD.
2.3.2. Kim ngạch buôn bán song phương
Với dân số 127 triệu người (tháng 1.2001), GDP7 đạt xấp xỉ 4.417.060 triệu USD
vào năm 2000, Nhật Bản là thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ,
đồng thời cũng là nước nhập khẩu lớn với kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 300 400 tỷ USD. Trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật trong những năm tới đây sẽ là:
hàng dệt may, hải sản, giày dép và sản phẩm da, than đá, cao su, rau quả, thực phẩm chế
biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ.
Quan hệ thương mại Việt - Nhật đã có những bước phát triển khá tốt đẹp trong
thời kỳ 1991-2001. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật tăng đều qua các năm,
trừ năm 1998 là năm xuất khẩu của nhiều nước vào Nhật, trong đó có Việt Nam, đều
giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Đến những năm 1997-2000,

kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật đã đạt mức 1,6 – 2,6 tỷ USD, hơn gấp ba
mức của năm 1991, năm 2000, xuất khẩu sang Nhật bản đạt 2,26 tỉ USD. Hiện nay Nhật
là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ trọng của Nhật trong xuất
khẩu của Việt Nam đang giảm dần qua các năm 1995-1998, nhưng tăng dần từ 1998 đến
nay. Nếu như năm 1991 Nhật còn chiếm 34,5% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì
đến năm 1997-1998 tỷ lệ này đã hạ xuống còn 16-17% , đến năm 1999-2000 là trên 18%.
Thị trường Nhật Bản: Đây vốn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ta. Kim ngạch
xuất khẩu sang Nhật Bản đã tăng bình quân 22%/năm trong giai đoạn 1996 - 2000 từ 950
triệu USD lên 2,6 tỷ USD, riêng năm 2001 giảm 3% so với năm 2000. Mục tiêu phấn đấu

7

GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động sản
xuất của tất cả các đơn vị thường trú trong nền kinh tế của một nước trong một thời kỳ nhất định; phản
ánh các mối quan hệ trong quá trình sản xuất, phân phối thu nhập, sử dụng cuối cùng sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ ...

15


xuất khẩu vào thị trường này sẽ tăng 10% trong năm 2002. Các mặt hàng có tiềm năng là
dệt may, giày dép, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, rau quả, sản phẩm gỗ.
2.3.3. Cơ cấu các sản phẩm xuất - nhập khẩu
Xuất khẩu
Hàng dệt may: Hàng dệt may hiện đã xuất khẩu được vào Nhật với kim ngạch khá
cao (khoảng 400-500 triệu USD/năm theo báo cáo của các doanh nghiệp)
Hải sản: Hải sản của Việt Nam, nhất là tôm, được thị trường Nhật Bản đánh giá
khá cao. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu hải sản vào Nhật đã đạt mức 340 - 350 triệu
USD/năm. Hầu hết lượng tôm, mực đông lạnh chào hàng của ta đều được khách hàng
Nhật đặt mua.

Giày dép và sản phẩm da: Kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da vào Nhật
còn khá khiêm tốn. Tuy số liệu thống kê của Hải quan Nhật Bản lớn hơn nhiều so với số
liệu thống kê của Hải quan Việt Nam (Hải quan Nhật cho biết năm 1997 ta đã xuất vào
Nhật 79 triệu USD giày dép, năm 1998 khoảng 42 triệu USD trong khi số liệu của Hải
quan Việt Nam cho thấy năm 1998 chỉ xuất được 27,3 triệu USD) nhưng dù căn cứ vào
số liệu của Nhật Bản thì kim ngạch như vậy vẫn là rất khiêm tốn so với tiềm năng trên 1
tỷ USD/năm của ngành da giày Việt Nam.
Than đá: Lượng than đá xuất khẩu sang Nhật hiện đã đạt tới gần 1,4 triệu tấn/năm,
chiếm hơn 40% lượng than xuất khẩu của ta.
Cao su: trước đây đã có thời gian ta xuất cho Nhật một lượng cao su khá lớn
nhưng tới đây chỉ xuất được khoảng 4 - 5 ngàn tấn một năm là tối đa dù thuế nhập khẩu
của Nhật là 0%.
Rau quả, thực phẩm chế biến và chè xanh: các mặt hàng rau quả, thực phẩm chế
biến và chè xanh là những mặt hàng hồn tồn có khả năng xâm nhập và đứng vững trên
thị trường Nhật. Hàng năm Nhật nhập khẩu tới gần 3 tỷ USD rau quả nhưng Việt Nam
mới bán được cho Nhật khoảng 7 - 8 triệu USD/năm, chiếm chưa đấy 0,3% thị phần.
Tiềm năng phát triển các mặt hàng này là rất lớn bởi người Nhật có nhu cầu cao về hành,
cải bắp, gừng, ớt, chuối, bưởi, cam, dứa, xoài và đu đủ, những loại được trồng phổ biến ở
nước ta.
Đồ gốm sứ: đây cũng là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất lớn tại thị trường
Nhật. Nhập khẩu đồ gốm sứ của Nhật đang tăng rất mạnh trong những năm gần đây (năm

16


1996 nhập khẩu đồ gốm tăng tới 40% so với năm 1995, đạt trị giá gần 800 triệu USD,
nhập khẩu đồ sứ tăng 12% và đạt kim ngạch xấp xỉ 200 triệu USD).
Sản phẩm gổ: Người Nhật có nhu cầu sử dụng đồ gỗ khá lớn nên đây là một trong
những mặt hàng cần được để tâm và lưu ý trong thời gian tới.
Nhập khẩu

Xét về cơ cấu hàng hóa, Việt Nam đang nhập khẩu nhiều nhất mặt hàng máy móc,
thiết bị, dụng cụ và phụ tùng từ Nhật Bản với kim ngạch 1.260 triệu USD, chiếm 28,8%
trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa xuất xứ Nhật Bản.
Đứng thứ hai là nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt kim
ngạch 769 triệu USD, chiếm 17,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa xuất xứ
Nhật Bản.
Đứng thứ 3 là nhóm hàng sắt thép các loại, đạt kim ngạch 381 triệu USD, chiếm
17,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa xuất xứ Nhật Bản. Ngồi ra, Việt Nam
cịn nhập khẩu nhiều các mặt hàng khác như linh kiện, phụ tùng ô tô đạt 222 triệu USD;
sản phẩm từ chất dẻo 192 triệu USD; vải các loại 176 triệu USD; ...
Mặt khác, các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt lĩnh vực
công nghiệp hỗ trợ đối với ngành ô tô, dệt may và lĩnh vực năng lượng... sẽ được hai
nước tiếp tục được quan tâm thúc đẩy trong thời gian tới.

17


TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Có thể khẳng định ODA của Nhật Bản trong thời gian qua có ý nghĩa vơ cùng to
lớn trong việc góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới. Đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và hai bên đã ký
kết “Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản”, những thuận
lợi này sẽ tạo cho chúng ta nhiều cơ hội thu hút và sử dụng hợp lý nguồn vốn ODA của
Nhật Bản trong tương lai. Đồng thời qua đây, đã nêu rõ quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật bản đã hình thành và bền chặt qua các sự kiện tiêu biểu. Cho thấy tầm quan
trọng trong quan hệ thương mại xuất nhập khẩu, và kim ngạch buôn bán song phương,
cần phát huy để nâng cao nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới khi hợp tác với Nhật
Bản.

18



CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG CỦA QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – NHẬT BẢN
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Lợi ích của Việt Nam trong quan hệ kinh tế với Nhật Bản
Về phía Việt Nam, trong thực tế Nhật Bản quyết định viện trợ ODA và mở rộng
quan hệ cho Việt Nam vào thời điểm khi Mỹ vẫn chưa xóa bỏ lệnh cấm vận cho Việt
Nam và tiếp tục gây áp lực ngăn cản Nhật Bản mở rộng viện trợ kinh tế cho Việt Nam,
do vậy nối lại viện trợ là một nguồn động viên hết sức to lớn cho Việt Nam. Nhật Bản
viện trợ ODA trở lại khơng những giúp kích thích sự phát triển trên các mặt kinh tế, xã
hội của Việt Nam, thu hút nhiều nguồn vốn viện trợ và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát triển mở rộng quan hệ thương mại cũng
như hợp tác kinh tế giữa hai nước, mà cịn đóng góp vào việc khai thác các nguồn viện
trợ đa phương, tạo ra những cơ hội cho liên doanh với nước ngoài ở Việt Nam và tạo
động lực để cải thiện và mở rộng các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam.
3.2. Lợi ích của Nhật Bản trong quan hệ kinh tế với Việt Nam
Về phía Nhật Bản, quyết định này phản ánh ý chí mạnh mẽ của Nhật nhằm đóng
góp vai trị to lớn hơn và độc lập hơn trong việc tạo lập một hệ thống mới những mối
quan hệ quốc tế trong khu vực và trên thế giới, một vai trò tương ứng với tầm vóc kinh tế
của Nhật Bản trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Quyết định này cũng được xem như một dấu hiệu về việc công khai sự ủng hộ của
Nhật đối với chính sách đổi mới tồn diện của Việt Nam, giúp Việt Nam nhanh chóng
hịa nhập với cộng đồng quốc tế mà trước hết là tổ chức ASEAN, thúc đẩy q trình bình
thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam; thiết lập các mối quan hệ về thương mại và
đầu tư lâu dài với giới kinh doanh Nhật Bản.
3.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – Nhật Bản
Thuận lợi
Trước hết Nhật Bản và Việt Nam là hai nước Đơng Nam Á, chung màu da và có
nhiều điểm tương đồng, hình thành trên nền văn minh nơng nghiệp ở Châu Á. Vì vậy có
mối giao hữu bền chặt như hai nước anh em có mối quan hệ từ thế kỷ thứ VIII đến nay8.

Mặt khác, cùng chung sống trong một khu vực, cư dân hai nước đã từ lâu tồn tại
nhiều nét “đồng dạng” và “đồng tông” về phong tục, tập qn, tín ngưỡng và tơn giáo.

8

Thế kỷ thứ 8, thời nhà Đường cịn đơ hộ Việt Nam, một viên quan nhà Đường gốc Nhật Bản là Abe no
Nakamaro đã được cử sang làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ.

19


Việt Nam có dịng giống Tiên Rồng, cịn Nhật Bản cho rằng, họ là con của thần Mặt Trời
nghĩa là có yếu tố thần linh trong vấn đề nịi giống
Tiếp theo, Nhật Bản và Việt Nam nằm chung trong nhiều khối kinh tế lớn như
ASEAN, WTO, ASEM, APEC, TPP9…. Có nhiều mục tiêu và sự hợp tác chung giữa hai
nước, cùng hướng tới một tương lai hợp tác bền chặt và hữu nghị.
Thuận lợi về mặt giao lưu kinh tế, văn hóa khi khoảng cách về địa lý giữa hai
nước rất gần và thuận tiện bao gồm đường thủy, đường khơng. Khoảng 4000 km tính
theo đường hàng khơng.
Hai bên đã tạo dựng được cơ chế đối thoại ở nhiều cấp. Ngồi đối thoại chính trị
định kỳ ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao (từ năm 1993), hai bên cũng đã xây dựng được cơ
chế đối thoại kinh tế, an ninh và quốc phòng. Hai bên đã trao đổi tùy viên quân sự, mở
Tổng lãnh sự quán ở Thành phố Hồ Chí Minh ở Việt Nam và Osaka ở Nhật Bản
Hàng năm đều có các cuộc gặp cấp cao. Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam 5 lần
(Tomiichi Murayama 8/1994, Ryutaro Hashimoto 1/1997, Keizo Obuchi 12/1998,
Junichiro Koizumi 4/02,Shinzou Abe 2012.) Ngoại trưởng Nhật thăm chính thức 2 lần
(1996 và 2004). Thủ tướng Việt Nam thăm Nhật Bản 6 lần (1993, 1999, 2001, 2003 - 2
lần - và 6/2004). Từ 1993 đến nay, Tổng Bí thư (2 lần vào 1995 và 2002), Chủ tịch Quốc
hội và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam cũng đã thăm Nhật Bản. Năm 2002, lãnh đạo cấp
cao hai nước thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam - Nhật Bản theo phương châm "đối

tác tin cậy, ổn định lâu dài". Trong chuyến thăm Việt Nam 7/2004 của Ngoại trưởng Nhật
Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung "Vươn tới tầm cao mới của đối tác bền vững".
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử 16 ngàn sinh viên Việt Nam sang Nhật.
Nhật là một thị trường tiềm năng cho lao động Việt Nam trong 5-10 năm tới.
Các Hiệp định đã ký giữa hai nước: Các Hiệp định vay ODA hàng năm (từ 1992),
Hiệp định Hàng không (5/1994), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (9/1995), Hiệp định
hợp tác kỹ thuật (10/1998), Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (12/2004), Hiệp
định hợp tác khoa học và công nghệ (8/2006), Hiệp định Đối tác kinh tế song phương
Việt - Nhật VJEPA (25/12/2008).
Một số thoả thuận khác:
- Thỏa thuận cử đội hợp tác thanh niên hải ngoại (1994).
- Biên bản về hợp tác trong lĩnh vực pháp luật (10/1996).
9

TPP là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương.
20


- Sáng kiến chung Việt - Nhật về cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam
(11/2003), giai đoạn hai (7/2006).
- Tuyên bố chung giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao “vươn tới tầm cao mới của mối
quan hệ đối tác bền vững” 7/2004.
- Tuyên bố chung về hợp tác IT Việt Nam-Nhật Bản (6/2004).
- Thoả thuận hợp tác giữa Học viện quan hệ quốc tế Việt Nam và Viện nghiên cứu
các vấn đề quốc tế Nhật Bản (2/2005).
- Tuyên bố chung hợp tác du lịch giữa Tổng cục du lịch và Bộ Lãnh thổ, Hạ tầng
và Vận tải Nhật Bản 4/2005.
- Tuyên bố chung giữa hai Thủ tướng Việt Nam - Nhật Bản “hướng tới quan hệ
đối tác chiến lược vì hịa bình và phồn vinh ở Châu Á” 10/2006.
- Bản ghi nhớ về việc thành lập Ủy ban Hợp tác Việt Nam - Nhật Bản (5/2007).

Tuyên bố chung làm sâu sắc hơn quan hệ Việt Nam và Nhật Bản và Chương trình hợp tác
hướng tới quan hệ đối tác chiến lược (11/2007).
- Thoả thuận hợp tác về lĩnh vực phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam giữa Bộ
Công thương Việt Nam và Bộ Kinh tế-Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (5/2008).
Ngoài ra Việt Nam và Nhật Bản cùng chung chủ quyền trên Biển Đông, hiện tại sự
tranh chấp giữa các nước và đặc biệt là Trung Quốc nên vì vậy Nhật – Việt cần đẩy mạnh
mối quan hệ để giúp đợ nhau trong vấn đề Biển Đông mục đích gìn giữ hịa bình và đảm
bảo chủ quyền quốc gia trước các âm mưu xấu từ bên trong và ngồi.
Khó Khăn
Nhật Bản và Việt Nam từng có chiến tranh lạnh nên mối quan hệ giữa Việt – Nhật
tới nay cịn chậm chưa bền chặt vì thời gian ngắn để hàn gắn và phát triển so với các
quốc gia khác. Tuy là Nhật – Việt là hai quốc gia cùng khu vực nhưng còn khác biệt khá
lớn về văn hóa, phong tục, ngơn ngữ, đặc biệt là khác biệt quá lớn về trình độ phát triển
kinh tế nên đây là vấn đề khó khăn nhất trong mối quan hệ Việt – Nhật hiện nay.
Việt Nam còn yếu kém trong việc quản lý và đưa ra các chính sách có lợi để thu
hút vốn đầu tư từ Nhật. Ngược lại, Nhật Bản là một đất nước giàu có với nhiều lời mời
đầu tư từ các quốc gia trên thế giới nếu Việt Nam vẫn giữ nguyên tình trạng hiện tại thì
tương lai sẽ khó lịng thu hút được vốn từ Nhật so với các nước đang phát triển khác.

21


×