BÀI TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
ĐỀ TÀI: NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI BANA
K’RIÊM Ở HUYỆN VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu vấn đề ...................................................................................2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2
4. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................3
6. Đóng góp đề tài .......................................................................................................3
7. Bố cục đề tài ............................................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI BANA K’RIÊM Ở VÂN CANH, TỈNH
BÌNH ĐỊNH....................................................................................................................5
1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ................................................................................5
1.1.1. Điều kiện tự nhiên .........................................................................................5
1.1.2 Điều kiện xã hội .............................................................................................5
1.2. Nguồn gốc ............................................................................................................6
1.3. Địa bàn cư trú .......................................................................................................7
1.4. Phong tục tập quán ............................................................................................... 8
1.5. Đời sống vật chất và tinh thần, văn hóa ............................................................... 8
CHƯƠNG 2: NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI BANA K’RIÊM Ở HUYỆN
VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH ...............................................................................12
2.1 Tổng quan nghi lễ................................................................................................ 12
2.1.1 Khái niệm nghi lễ .........................................................................................12
2.1.2 Khái quát chung về nghi lễ hơn nhân ..........................................................12
2.2 Qúa trình tổ chức .................................................................................................14
2.2.1 Phần nghi trong nghi lễ hôn nhân ................................................................ 14
2.2.2 Phần lễ trong nghi lễ hôn nhân ....................................................................17
CHƯƠNG 3: PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP TRONG
NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI BANA K’RIÊM Ở HUYỆN VÂN CANH,
TỈNH BÌNH ĐỊNH ......................................................................................................23
3.1. Những giá trị truyền thống văn hóa ...................................................................23
3.2 Sự biến đổi của nghi lễ ........................................................................................24
3.3. Một số giải pháp nhằm phát huy giá trị văn hóa của nghi lễ hơn nhân .............25
KẾT LUẬN ..................................................................................................................27
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là quốc gia đa dân tộc, Việt Nam có một nền văn hóa đa sắc thái. Trong bức
tranh chung đó, văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi là một mảng màu sinh động. Có
thể nói rằng, sắc màu văn hóa ấy được biểu hiện rõ nét qua hệ thống các phong tục tập
quán. Phong tục tập quán vận hành từ thế hệ này sang thế hệ khác và dần trở thành các
lệ tục, luật tục. Dưới các hình thức tồn tại khác nhau (truyền miệng hay đã được ghi
chép), lệ tục, luật tục có vai trị như những chuẩn mực nhằm ổn định và điều chỉnh xã
hội. Chúng được nảy sinh, lưu truyền, biến đổi trong chính cộng đồng đã sinh ra nó và
góp phần tơ đậm bức tranh văn hóa các tộc người.
Như chúng ta đã biết Bình Định là nơi tập trung nhiều đồng bào chủ yếu là
Bana, Hrê, Chăm, mỗi đồng bào có những nét riêng biệt trong phong tục tập quán, lối
sống và sinh hoạt hằng ngày của họ. Bởi người đồng bào Bana k’riêm ở huyện Vân
Canh đều có chung nguồn gốc, có chung tiếng nói,có chung phong tục tập quán điều
quan trọng là đa số là đồng bào Bana k’riem cư trú tại huyện.
Nghi lễ hôn nhân nơi đây không phải lúc nào tổ chức cũng được bởi họ quan
niệm rằng khi mà tổ chức đó phải có tất cả trong cộng đồng góp mặt tham gia và nhất
là phải có sự chứng kiến của thần linh, bởi vì bất cứ tổ chức một lễ hội nào thì thần
linh đóng vai trị là người có vị trí cao nhất là một vị thần bảo vệ cho tất cả mọi người
tại nơi đó. Các nghi lễ này thường được tổ chức vào những dịp nhất những ngày hè,
bởi họ nghĩ những ngày đó những tháng đó có khí hậu mát mẻ, thuận lợi cho việc như
tổ chức các hội hè, nghi thức, nghi lễ, hội đâm trâu, mừng ăn lúa mới… Không những
thế phong tục cũng không có sự thay đổi nhiều trong q trình kế thừa những phong
tục tập quán đó đã tạo điều kiện cho nền văn hóa tinh thần rất phát triển ở Vân Canh.
Nghi lễ hơn nhân là một sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bật, xuất phát với quan
niệm con người lớn lên trưởng thành đều phải lập gia đình sinh con đẻ cái có một cuộc
sống ấm no hạnh phúc đã dần dần trở thành nghi lễ độc đáo trong các bn làng. Đây
là nghi lễ mang tính chất đậm đà truyền thống được thể hiện rõ trong yếu tố cộng
đồng, sự ngưỡng vọng của thần linh được gắn kết chặt chẽ với nhau, là sự kế tục văn
hóa xa xưa của người Bình Định.
Với những nét đặc săc như vậy, có thể coi nghi lễ hơn nhân của người Bana là
một văn hóa có giá trị cao, cần được tìm hiểu một cách có hệ thống để tiếp tục duy trì
1
phát huy yếu tố mạnh đó trong cộng đồng cao hơn để những giá trị văn hóa tốt đẹp đó
khơng bị mất đi, khơng bị mai một. Đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài “Nghi lễ hôn
nhân của người Bana k’riêm ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định” làm cơng trình
nghiên cứu của tơi.
2. Mục đích nghiên cứu vấn đề
Mục đích đầu tiên của đề tài nhằm tìm hiểu những nét đặc trưng nhất về mảnh
đất, con người, tập qn, tín ngưỡng truyền thống văn hóa của Bình Định, trên cơ sở
đó kết nối với nghi lễ hôn nhân với việc tổ chức đám cưới trong các bn làng Bình
Định. Mục đích thứ hai là tập trung nghiên cứu về nghi lễ hôn nhân từ nguồn gốc, nghi
lễ đến giá trị, từ đó đi sâu làm rõ nét khác biệt riêng có ở mỗi tộc người khi tiến hành
tổ chức nghi lễ này. Mục đích cuối cùng là trên cơ sở phân tích và thực trạng nghi lễ
hôn nhân hiện nay, tiến tới những định hướng, giải pháp bảo tồn.
Với những mục đích trên, qua đề tài này mang lại một cái nhìn tổng quát và hệ
thống nghi lễ hôn nhân của các tộc người thiểu số ở Bình Định, giúp người đọc hiểu
được giá trị văn hóa và nghệ thuật chứa đựng, để từ đó thêm tự hào vốn văn hóa truyền
thống đa dang của đất nước mình.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghi lễ hơn nhân rất hiếm, mỗi dân tộc có những nghi lễ khác nhau chúng ta chỉ
tìm thấy các nghi lễ đó chỉ có ở các đồng bào dân tộc thiểu số. Việc nghiên cứu về
nghi lễ hơn nhân này cịn rất hạn chế nên rất ít tài liệu liên quan đến nghi lễ hôn nhân
giữa các dân tộc thiểu số. Cung cấp nhiều quá trình khái quát trong việc hình thành và
thay đổi trong đời sống xã hội. Với nội dung này tạo nên một nhận thức khách quan
thúc đẩy việc thực hiện các nghi lễ vừa mang tính kế thừa vừa mang tính đổi mới.
Tuy nhiên qua q trình nghiên cứu chưa có một tác giả nào nói đến một cách
có hệ thống nghi lễ hơn nhân, đặc biệt chưa triển khai được trong việc khai thác nghi
lễ hôn nhân ở tỉnh Bình Định của người đồng bào Bana k’riêm.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu Nghi lễ hôn nhân của người Bana k’riêm ở huyện Vân
Canh, tỉnh Bình Định. Trong quá trình nghiên cứu giúp chúng ta hiểu thêm giá trị nhân
văn về vốn văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số mang tính sâu sắc.
Phạm vi nghiên cứu:
2
+ Không gian: Đề tài đi sâu nghiên cứu về nghi lễ hôn nhân của người Bana
k’riêm ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định.
+ Thời gian: Nghi lễ này ln xuyên suốt đi theo từng cá nhân sống trong cộng
đồng. Vì vây, chúng ta có thể khẳng định rằng từ rất xa xưa mà nghi lễ này vẫn được
tồn tại tuy không như trước đây nhưng các cộng đồng vẫn phát huy giá trị văn hóa
truyền thống sâu sắc đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chủ yếu sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp luận và phương pháp chuyên ngành
+ Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Thu thập thông tin tư liệu từ nhiều
liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn gốc khác nhau liên quan tới đề tài nghiên cứu, có
tầm nhìn khái qt về vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê,phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này giúp
định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện các yếu tố và
sự ảnh hưởng yếu tố tới hoạt động trong đề tài nghiên cứu, việc phân tích, so sánh,
tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các
chương trình phát triển và các định hướng, các chiến lược để phát triển trong nước
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Tiến hành điề dã tại địa bàn. Trong quá trình điền dã, tơi sử dụng phương pháp
phỏng vấn sâu với già làng và những người dân trực tiếp tham gia lễ hội,bởi vì lễ hội
này diễn ra vào tháng 11 dương lịch hằng năm nên tôi không tham gia trực tiếp quan
sát tham dự được.
Ngồi ra, trong q trình điền dã địa bàn tơi cịn sử dụng các phương pháp kỹ
thuật hỗ trợ như máy ảnh, máy ghi âm để phục vụ trong nghiên cứu đề tài nghiên cứu
của mình.
6. Đóng góp đề tài
Thơng qua đề tài này Nghi lễ hôn nhân của người Bana k’riêm ở huyện Vân
Canh, tỉnh Bình Định giúp tơi hiểu rõ hơn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp đó. .
Giúp mọi người hiểu được phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu
số Tây Nguyên nói chung và của dân tộc Bana ở Bình Định nói riêng.
Từ đó giữ nguyên cái cũ và phát huy cái mới, lưu giữ giá trị nguồn gốc xa xưa,
phát huy những giá trị đó tránh mai một và bị quên lãng văn hóa của mình.
3
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
đề tài này được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về người Bana k’riêm ở Vân Canh
Chương 2: Nghi lễ hôn nhân của người Bana k’riêm ở huyện Vân Canh,
tỉnh Bình Định
Chương 3: Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp trong nghi lễ hôn nhân
của người Bana k’riêm ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI BANA K’RIÊM Ở VÂN CANH, TỈNH
BÌNH ĐỊNH
1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vân Canh có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi. Phía Nam Vân Canh giáp với huyện
Đồng Xuân (Phú Yên), phía bắc Vân Canh giáp với 2 huyện Tây Sơn và An Nhơn,
phía tây Vân Canh giáp với huyện Kơng Chơro (Gia Lai), và phía đơng Vân Canh là
huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn. Vân Canh cùng với Vĩnh Thạnh, như một
hàng lang lớn giữa bắc Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ án ngữ đèo An Khê.
Vân Canh cách không xa Quốc lộ 1A, gần ga Diêu Trì. Từ Vân Canh, xuống Cảng
Quy Nhơn, hoặc ngược lên đường 19, đến vùng đất Tây Nguyên đều rất thuận tiện.
Đặc biệt, tỉnh lộ ĐT 638 từ thị trấn Diêu Trì (huyện Tuy Phước) lên Vân Canh có thể
đi thẳng tới tỉnh Phú Yên. Hàng hóa từ Vân Canh vào Nam, ra Bắc, hay ngược lên Tây
Nguyên đều thuận lợi và ngược lại.
Vân Canh có các ngọn núi: hịn Ơng, hịn Chng, hịn Bà, hịn Nắm… cùng
sông Hà Thanh dài 48km,và các con suối nhỏ chảy quanh co, vừa tạo cho Vân Canh
cảnh quan đẹp, có nét hùng vĩ và thơ mộng riêng; đồng thời, cũng chia khu vực này
thành 3 thung lũng nhỏ: nằm giữa có sơng Hà Thanh là vùng đất cày trong tâm niệm
của đồng bào Chăm H’roi; phía đơng Vân Canh có suối Đá Lộc,Đá Lót, xã Canh Giao
nhiều dầu rái; phía tây Vân Canh là vùng An Tượng với suối Khe Cành, sông An
Trường, suối Lao… Các làng canh tác dọc theo các thung lũng với các vùng: vùng
ruộng nước ở An Tượng, đất rừng nà thổ ở vùng đất cày và vùng rừng dầu rái ở vùng
Canh Giao.
Cảnh quan Vân Canh một vóc dáng hùng vĩ nhờ có Núi Ông và núi Bà với độ
cao hơn 1.000m tạo nên khung cảnh nên thơ mà thật sự đã đi vào tâm thức đồng bào
với một kho chuyện kể thấm đẫm triết lý và đan xen lịch sử, huyền thoại.
1.1.2 Điều kiện xã hội
Vân Canh là huyện miền núi, nằm về phía Tây Nam tỉnh Bình Định. Phía Nam
giáp huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên; phía Bắc giáp Thị xã An Nhơn và huyện Tây
Sơn; phía Tây giáp huyện Kơng Chro, tỉnh Gia Lai.
Diện tích đất tự nhiên 798 km2, dân số 22.300 người (năm 2002), mật độ dân số
thấp chỉ có 28 người/km2.
5
Có 7 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có thị trấn Vân Canh mới được thành
lập và các xã Canh Hiển, Canh Hiệp, Canh Hòa, Canh Liên, Canh Thuận, Canh Vinh.
Có 3 dân tộc cùng chung sống là dân tộc Kinh, dân tộc Chăm và dân tộc Ba Na; trong
đó dân tộc Chăm tập trung chủ yếu ở xã Canh Hòa, dân tộc Bana tập trung ở các xã
Canh Liên, Canh Thuận, Canh Hiệp với dân số chiếm trên 40% so tổng dân số. Người
Chăm (Chăm Hroi) ở Vân Canh có quan hệ mật thiết và có quá trình phát triển vừa
chung vừa riêng rất đáng được chú ý trong cộng đồng người Chăm trong cả nước.
Người Chăm ở Vân Canh sống xen cư với người Bana và người Kinh; họ có khá nhiều
tên gọi khác nhau như Chăm Hroi, Hroi, Aroi, Chăm Đắc Rây, Chăm Hơđang…Phần
lớn các xã của huyện Vân Canh nằm trên tuyến đường Diêu Trì - Mục Thịnh mới được
nâng cấp nên giao thơng khá thuận lợi; trong những năm gần đây phong trào bê tơng
hóa giao thơng nơng thơn phát triển nên đường sá có phần được cải thiện đáng kể, trừ
địa bàn xã Canh Liên giao thơng cịn khó khăn. Ngồi ra trên địa bàn huyện cịn có
đường sắt Việt Nam đi qua với ga Vân Canh.
Đời sống nhân dân cịn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Đất đai bị bạc màu và
thiếu nước tưới nên chủ yếu sản xuất lúa nước 1 vụ và màu. Trong những năm gần
đây, cây mía phát triển khá, là vùng nguyên liệu mía của Nhà máy đường Bình Định,
nên đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Khu vực Canh Liên có đồng cỏ rộng,
khả năng phát triển bò đàn. Ở đây còn là khu vực có diện tích rừng tự nhiên cịn khá và
đang phát triển rừng trồng.
1.2. Nguồn gốc
Vân Canh có ba dân tộc chính là Chăm H’roi, Bahnar và Kinh. Vân Canh có
khoảng 10.270 đồng bào các dân tộc thiểu số Trong đó, người Bahnar tại Vân Canh có
5.267 người, được gọi là Bơhna- Chămroi. Người Chăm H’roi khoảng 4.800 người.
Về nguồn gốc của người Chăm H’roi vẫn có nhiều ý kiến khác nhau và chưa có
một kết luận chắc chắn nào. Tuy nhiên, theo đồng bào Chăm ở Vân Canh thì Chăm
H’roi là người Chăm ở vùng cao. Theo chuyện kể của đồng bào, trước đây, người
Chăm H’roi cư trú tại vùng thấp, tức vùng mặt trời mọc, sau mới chuyển lên vùng cao,
vùng đất cày.
Với những mối quan hệ và một quá trình phát triển vừa chung, vừa riêng rất
đáng được chú ý, cộng với những bản sắc văn hóa độc đáo của các tộc người cùng cư
6
trú trên mảnh đất này, Vân Canh được đánh giá là khu vực điển hình cho hiện tượng
cư trú hỗn hợp giữa các dân tộc ở Bình Định nói riêng và Việt Nam nói riêng.
Có thể gốc gác người Chăm ở Vân Canh vốn là người Chàm cổ. Những người
Chàm cổ này sau sự kiện thất bại của Vương quốc Chiêm Thành ở thành Đồ Bàn đã
chạy dạt lên đây rồi tụ cư lại. Trong quá trình sinh sống do tách biệt cộng đồng ban
đầu, do ảnh hưởng của người Bana sống trước đó nên trong văn hố của bộ phận
Chăm miền núi này dần xuất hiện những yếu tố văn hố mới. Cũng có thể người Chăm
này vốn là nhóm người địa phương của người Chàm cổ có mặt ở Vân Canh trước đó.
Trong q trình phát triển đã mang yếu tố văn hoá của nguồn cội, đồng thời mang yếu
tố văn hố khác do mơi trường sống tạo nên.
Về nguồn gốc ngơn ngữ: Người BaNa nói ngơn ngữ Mơn - Khơ me thuộc dịng
Nam Á; người Chăm nói ngơn ngữ Anh đơ-nê-diêng thuộc nhóm Malaiơ-Pơlinêdiêng.
Mặc dù trong q trình sống cộng cư, giữa hai dân tộc đã có sự pha trộn ít nhiều về
ngơn ngữ, nhưng cho đến nay, tiếng Chăm và tiếng BaNa vẫn có sự khác nhau cơ bản
về nguồn gốc, cấu trúc, từ vựng, ngữ âm…
Về nguồn gốc nhân chủng: Tuy cùng nằm trong tiểu chủng Mơngơlơít. Phương
Nam của đại chủng Úc- Á, nhưng người Chăm thuộc nhóm loại hình Nam Đảo, gồm
người Ba Na lại mang những đặc trưng nhân chủng của nhóm loại hình Nam Á.
Về Văn hố: Tuy sự giao thoa đã diễn ra ở mức độ khá cao song mỗi dân tộc
vẫn giữ lại những nét riêng biệt, họ không chấp nhận hai bản sắc dân tộc độc lập.
Về nguồn gốc xa xưa của bộ phận Bana ở Vân Canh hiện nay có nhiều ý kiến
tranh luận khác nhau. Có ý kiến gợi ý rằng: có thể xưa kia người Bana ở đây chính là
người Ma đa mà bia ký Chàm đã nói đến. Qua mơt q trình đấu tranh sinh tồn và chịu
những biến động của lịch sử, người Bana ở vùng ven biển đã dần chuyển lên vùng cao
hơn để sinh sống. Nhưng một số ý kiến khác lại xếp người Bana ở Vân Canh thành
một bộ phận riêng gọi là Bana – Chăm.
1.3. Địa bàn cư trú
Đa số địa bàn cư trú của cư dân ở huyện Vân Canh tồn là người Chăm Hroi,
cịn người Bana k’riêm chủ yếu sống ở những vùng sâu vùng xa điển hình nhất là ở xã
Canh Liên thuộc huyện Vân Canh người đồng bào tồn là người Bana cùng sinh sống
khơng có cư dân nào di cư họ sống trong một tập thể chung nhất. Con đường đến làng
đó gây rất nhiều khó khăn, việc đi lại cũng tốn kém rất nhiều thời gian. Hiện nay khi
7
mà nhà nước đã có chủ trương những dự án xây đường nơng thơn thì đã có những thay
đổi đáng kể, nếu lúc trước khi chưa có đường mới họ chỉ quanh quẩn trong làng còn
bây giờ khi đã cải tiến đường mới có nhiều hộ nơng dân đã xuất hiện trao đổi thơng
thương. Ngày nay, Canh Liên có 8 làng, 447 hộ, 2.083 nhân khẩu, với 5 dân tộc anh
em là Bana, Tày, Thái, Chăm và người Kinh cùng sinh sống. Nghề chính của đồng bào
là sản xuất lúa nước, chăn ni, trồng và chăm sóc rừng.
Người Ba Na ở Vân Canh sống tập trung gọi là Ba Na Kriêm, Người Ba Na
thường cư trú ở vùng rừng núi cao, độ che phủ của rừng còn nhiều, thảm thực vật
phong phú, đa dạng. Đơn vị xã hội cơ bản của người Ba Na là plây (làng), do một bộ
máy tự quản gồm chủ làng và một số người giúp việc có nhiệm vụ quản lý, điều hành
mọi sinh hoạt của cộng đồng dân cư dựa vào luật tục vốn có từ ngàn xưa. Người Ba
Na có tính cộng đồng cao trong cư trú, trong sản xuất, trong quan hệ xã hội (đoàn kết,
thương yêu đùm bọc, chia sẻ quyền lợi) nên chưa hề có sự phân hố giai cấp mà chỉ
mới có phân hố giàu nghèo. Xã hội người Ba Na là một xã hội cơng bằng, thấm đượm
tính nhân văn.
1.4. Phong tục tập quán
Mỗi dân tộc đều có những phong tục, tập quán riêng. Các đồng bào sinh sống ở
Bình Định đều có phong tục tập qn có sự giống nhau nhưng người Bana ở Vân Canh
có sự du nhập của văn hóa Chăm và người Kinh nên có sự khác nhau đó, do những tác
động đó mà người Bana không thể bỏ những phong tục tập quán chính gốc của mình ở
đây họ vẫn duy trì và thậm chí họ cịn phát huy những truyền thống tốt đẹp đó.
Ở huyện Vân Canh các đồng bào Bana canh tác vùng lúa với hình thức canh tác
nương rẫy. Và lúa trở thành nguồn thức ăn chính và ni sống cho cư dân, ngồi ra họ
cịn trồng các loại thức ăn khác như khoai, sắn, ngô để phục vụ sinh hoạt của họ. Do
có sự tác động đó mà họ đã biết trồng lúa nước phục vụ trong sản xuất. Đồng bào Bana
có những phong tục hết sức đa dạng tiêu biều như: lễ hội đâm trâu, cưới hỏi, lễ tang, lễ
đặt tên, ngồi ra cịn nhiều phong tục khác trong cộng đồng này.
1.5. Đời sống vật chất và tinh thần, văn hóa
Gia đình người Bana là nơi bảo tồn các gía trị văn hóa truyền thống, là nơi trao
ttruyền các truyền thống tộc người trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Các dân tộc Bana ở huyện Vân Canh trong quá trình tồn tại và phát triển đã
hình thành nên những bản sắc văn hóa vừa mang đặc trưng riêng của cộng đồng,vừa
8
mang đặc trưng chung của từng khu vực,của quốc gia tộc người. Những bản sắc văn
hóa của người Bana rất phong phú và đa dạng được thể hiện trong các lĩnh vực văn
hóa sản xuất,văn hóa đảm bảo đời sống,văn hóa chuẩn mực xã hội. Những bản sắc văn
hóa đã trở thành nếp sống,trở thành các chuẩn mực gí trị được đồng bào giữ gìn và lưu
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác... ... Đó là những nét đẹp trong truyền thống sản
xuất,trong cách ăn,ở,mặc,trong cách đối sử,trong đời sống tâm linh hay trong văn học
nghệ thuật của đồng bào Bana k’riem. Mặc dù bị tác động của nền văn hóa Chăm và
Việt( Kinh), nhưng khơng có ảnh hưởng trong văn hóa truyền thống cộng đồng nơi
đây.
+ Về văn hóa vật chất
Cách ăn: Trong quá sinh sống và cư trú tại vùng đất mới thơng thường cũng
khơng có sự khác biệt đến mấy trong cách ăn do nhiều tác động qua lại lẫn nhau đã chi
phối toàn bộ. Cho nên mỗi người dân rất bình thường giản dị, người Bana k’riem trong
q trình sinh sống đã có những ứng xử phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường
rừng núi. Đồng bào Bana khơng những có lối sống, nề nếp sinh hoạt rất riêng, độc đáo
mà ngay cả đến cách ăn, cách uống của họ cũng đã trở thành một nghệ thuật đặc thù,
tạo nên bản sắc riêng cho dân tộc mình.
Đồng bào Bana thức ăn chủ yếu là gạo tẻ nhưng đồng bào này chỉ dùng gạo nếp
trong các ngày lễ lớn tiêu biểu là tết Nguyên Đán. Cư dân sống chủ yếu vào nền kinh
tế nương rẫy nên họ trồng nhiều sản phẩm thu hoạch cho từng gia đình trong làng,
nguồn thực phẩm chủ yếu của họ là tự cung tự cấp. Về trồng trọt thì có lúa rẫy, ngơ,
bầu, bí, sắn, mướp, đu đủ, ớt, chuối, mít…; chăn ni có gà, vịt, lợn, bị, trâu, dê…
Họ cịn có thể đi săn thú rừng cung cấp thức ăn sinh hoạt hằng ngày và thậm chí
họ có thể kiếm ra tiền trong rừng núi đó. Ngồi ra, các lương thực trong rừng còn phục
vụ cho các ngày lễ lớn. Thường ngày, người Ba Na uống nước lã hay rượu cần, rất ít
khi uống rượu cất. Rượu có loại ủ bằng gạo, kê, ngô, nay thường làm bằng sắn. Uống
rượu cũng được quy định theo thứ bậc, vai vế của người đứng đầu làng, dòng họ được
ưu tiên uống trước. Hết già đến trẻ, men rượu cùng với các món ăn phong phú và đa
dạng làm cho cả cộng đồng say sưa cho đến tận thâu đêm. Nhưng ngày nay rượu cất
và nước chè được dùng phổ biến trong cộng động dân tộc Ba Na. Thuốc lá cũng là
thức hút quen thuộc, từ đàn ông đến đàn bà, từ người già đến con trẻ. Nếu nghiện
9
nặng, đồng bào còn ngậm thuốc bằng cách nhét lá thuốc vào những kẽ răng, hoặc ăn
thuốc giã với vôi.
Cách mặc: Sống giữa núi rừng bạt ngàn, những đường nét trong trang phục của
người Ba na đều như hòa quyện cùng với thiên nhiên, mang hơi thở đại ngàn. Khác
với trang phục của nhiều dân tộc khác, trang phục của người Ba na rất giản dị với
những đường nét khỏe khoắn nhưng không kém phần duyên dáng.
Đàn ông mặc áo chui đầu, cổ xẻ, hở ngực, cộc tay, đóng khố hình chữ T. Phụ
nữ mặc áo chui đầu, khơng xẻ cổ kết hợp với váy. Váy của phụ nữa Ba Na khơng được
may lại mà nó chỉ là một tấm vải đen được quấn quanh thân dưới. Trang phục nữ Phụ
nữ Ba Na ưa để tóc ngang vai, khi thì búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng
đồng, thiếc, khơng chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vài hay vòng cườm.
Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ
đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo
ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa
tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng
mang theo quan niệm triết lý của cộng đồng hơn là trang sức.
Trong các ngày lễ, trang phục của người Ba na có phần sặc sỡ hơn. Nhưng do
ảnh hưởng của văn hóa Chăm và Việt nên về hình dáng những chiếc áo cũng có sự
khác nhau giữa các đồng bào Bana khác.
Trong trang phục, chính các họa tiết làm nên sự độc đáo. Với lối tư duy đơn
giản, các họa tiết trong trang phục của người Ba na là những hình khối đối xứng mang
tính biểu tượng cao. Họa tiết đối xứng phản ánh quan niệm về vũ trụ, trời – đất, âm –
dương lấy thiên nhiên làm hình mẫu. Mỗi tấm thổ cẩm được làm ra là một bức tranh
thiên nhiên thu nhỏ từ những nét cách điệu hình học.
Cách ở:
Nhà cửa Nhà người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Cho đến nay, nhà
của người Ba Na đã có rất nhiều thay đổi, hầu như khơng cịn nhà sàn dài. Nhà sàn
ngắn của các gia đình nhỏ là hiện tượng phổ biến. Mặc dù có nhiều thay đổi như vậy
nhưng vẫn tìm được ở những địa phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na có những
đặc điểm như là những đặc trưng của nhà cổ truyền Ba Na, nhà nóc hình mai rùa hoặc
chỉ cịn là hai mái chính với hai mái phụ hình khum-dấu vết của nóc hình mai rùa.
Chỏm đầu dốc có "sừng" trang trí (với các kiểu khác nhau tùy từng địa phương). Vác
che nghiêng theo thế "thượng thách hạ thu". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chơn
10
nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn lộ thiên trước mặt nhà. Trên sàn này
người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Ðiểm đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái
"ngõng", Khi giã gạo người ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ
đặt trên sàn. Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, ngồi được buộc rất cầu kỳ có giá trị
như là một thứ trang trí Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Ðã là vì kèo nhưng vẫn trên
cơ sở của vì cột. Tổ chức mặt bằng cũng đơn giản là 1 hiện tượng rất phổ biến hiện
nay.
Ngôi nhà công cộng (nhà rông) cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ
sở của làng, nơi các bô lão tề tựu bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi thanh niên
chưa vợ và trai góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng,
nơi tiếp khách lạ vào làng.
+ Văn hóa tinh thần:
Phong tục tập quán: Nếu như cư dân nơi đây xem rừng là nguồn nhân lực rất
lớn thì rừng đóng vai trị trong cách ứng xử giữa con người với điều kiện tự nhiên môi
trường rừng núi. Nhìn chung hoạt động kinh tế trước đây của đồng bào chủ yếu dựa
vào tự nhiên, mang tính tự cung tự cấp. Vì vậy,phát triển trong mọi mặt lĩnh vực kinh
tế,ni heo,ni bị,phát triển kinh tế vườn,các nghề thủ cơng truyền thống... những
nét văn hóa của đồng bào thể hiện qua cách ứng xử trong cộng đồng làng bao trùm cụ
thể là mối quan hệ giữ con người với con người là lòng yêu thương quê hương,yêu lao
động,là sự gắn bó với núi rừng với dân tộc.
+ Tín ngưỡng: Được thể hiện qua sự đa dạng tín ngưỡng, cổ truyền, qua hệ
thống lễ hội và nhất là qua sự phong phú của các loại hình nghệ thuật . Những lễ hội
đặc sắc của đồng bào Bana như lễ hội đâm trâu,lễ hội đầu xuân,lễ cúng sản xuất nương
rẫy,lễ cúng nước,lễ mừng lúa mới là những sinh hoạt văn hóa tinh thần không chỉ đáp
ứng nhu cầu tâm linh của đồng bào mà còn tác dụng củng cố ý thức cộng đồng. Đặc
biệt hiện nay trong đời sống văn hoá tinh thần còn lưu giữ được nhiều vốn văn nghệ
dân gian quý báu. Đó là các loại chuyện kể, các loại khan, H’amon, thơ ca dân gian,
các hình thức và thể loại múa, các hội hoạ điêu khắc. Đó cịn là sự phong phú của các
loại hình nhạc cụ, của dàn nhạc cồng chiêng …
11
CHƯƠNG 2: NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI BANA K’RIÊM Ở HUYỆN
VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1 Tổng quan nghi lễ
2.1.1 Khái niệm nghi lễ
Về định nghĩa, lễ cưới hay đám cưới là một phong tục văn hóa trong hơn nhân
nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn
nhân. Với ý nghĩa này, người ta còn gọi là lễ cưới. Trong tâm thức người đồng bào thì
lễ cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứng nhận đăng ký kết hơn.
Cách tiến hành nghi thức, trình tự và ý nghĩa không phải ai cũng nắm rõ, đồ
cưới truyền thống, các sính lễ, phẩm vật cưới… đa phần tự làm nên rất khó tìm mua.
Phong tục cưới là một trong khơng nhiều nét văn hóa tồn tại mạnh mẽ trong đời sống
cộng đồng dân tộc thiểu số.Với những nghi thức thiêng liêng, độc đáo, giá trị cộng
đồng vượt ra ngoài phạm vi gia đình, khơng khí vui tươi mang bản sắc văn hóa, đám
cưới của đồng bào thiểu số mang dáng dấp như một lễ hội “mini” - lễ hội của tình u,
hạnh phúc.
2.1.2 Khái qt chung về nghi lễ hơn nhân
Cưới hỏi là một nghi lễ không thể thiếu tại bất kỳ quốc nào trên thế giới. Tùy
thuộc vào phong tục tập quán của mỗi nước, mỗi vùng miền mà ở đó người ta có
những cách tổ chức lễ cưới khác nhau. Chỉ nói riêng ở Việt Nam, trong tổng số 54 dân
tộc anh em, mỗi dân tộc lại có những cách tổ chức lễ cưới theo phong tục riêng của
mình. Cưới hỏi từ lâu đã là một nét văn hóa đẹp, mang đậm bản sắc của Việt Nam.
Việt Nam với phần đông là người dân tộc Kinh, và một nhóm đồng bào dân tộc
thiể sống cư trú tại các vùng miền khác nhau lại chia làm hai nhóm theo tơn giáo để có
những phong tục tổ chức lễ cưới khác nhau. Nhìn chung, các lễ cưới dù được tổ chức ở
đâu, theo phong tục nào thì đó cũng là một đại lễ quan trọng của đời người.
Nghi lễ hôn nhân có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống cộng đồng người
Bana. Tùy thuộc vào từng vùng, từng giai đoạn lịch sử mà phong tục cưới hỏi của
người Bana có một số điểm khác nhau. Tuy nhiên, phong tục cưới hỏi truyền thống
của người Bana nói chung vẫn giữ được nét nguyên sơ, giàu tính nhân văn, thể hiện
sắc thái văn hoá độc đáo.
12
Phong tục hôn nhân của cộng đồng các tộc người thiểu số ở người Bana rất
phong phú, đa dạng và độc đáo. Nhưng nhìn chung đều có một điểm nổi bật người con
gái thường có vị thế tương đối chủ động trong việc tìm kiếm và lựa chon bạn đời.
Hơn nhân của đôi lứa Bana, bao giờ cũng bắt đầu gắn liền với vai trị của ơng
No - người mai dong, đó phải là người có hơn nhân hạnh phúc, uy tín và giao tiếp
khéo. Lễ vật hỏi vợ của người Bana là trầu cau, gạo trắng, thổ cẩm, cặp rượu cần, vật
khơng thể thiếu là 1 chiếc vịng tay bạc hoặc đồng mới nguyên, chưa qua sử dụng. Nhà
gái đồng ý, nhận sính lễ thì ơng No sẽ ngủ lại một đêm ở nhà gái để làm tin, sính lễ
nhà gái “lại quả” là chiếc vòng tay y hệt chiếc vòng nhà trai mang đến. Sau ngày đi hỏi
1 ngày, hai ơng No mới về, nếu đủ đơi vịng tay, nhà trai tiếp tục lo đám cưới, còn về
ngay và chỉ có một chiếc vịng lẻ loi có nghĩa là việc dạm hỏi đã bất thành.
Phong tục là thói quen của một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm
chí một dịng họ, gia tộc. Hệ thống phong tục phong phú, đa dạng: liên quan đến vòng
đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên
lão...; liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ trong năm như lễ hội, lao
động…
Trải qua thời gian, những thói quen trong lao động, sản xuất, sinh hoạt của cá
nhân, cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số được lưu giữ và vận hành trở thành phong
tục, tập quán. Những thói quen sinh hoạt ấy là những biểu hiện đặc trưng cho phong
thái làm ăn, lối sống, nếp sống, nếp nghĩ của đồng bào và nó trở thành những giá trị
văn hóa khu biệt của từng cộng đồng tộc người, là bản sắc văn hóa của các dân tộc
thiểu số trong bức tranh văn hóa Việt Nam
Trước đây, trai gái Ba Na khi đến tuổi trưởng thành (20 tuổi đối với nam; 18
tuổi đối với nữ), được tự do yêu thương, tìm hiểu lẫn nhau, nhưng quyền quyết định đi
đến hơn nhân khơng phải khơng có ảnh hưởng của cha mẹ. Trong thực tế, nhiều khi
cha mẹ can thiệp rất nhiều vào chuyện hơn nhân của con cái. Thậm chí, trong một số
trưởng hợp, quyết định gả cưới của cha mẹ hồn tồn đi ngược lại mong muốn của các
con. Chính vì vậy, trong ngơn ngữ của người dân ở đây tồn tại hai thuật ngữ hôn nhân.
Trong tường hợp trai gái tự do yêu đương và tìm người bạn đời tiến tới hôn nhân,
người dân gọi là chărơihkơ ding (hôn nhân tự chọn); trường hợp cha mẹ quyết định gả
bán con theo ý kiến riềng của mình, người dân gọi là mẽ bă pơ giao ăn (cha mẹ gả
bán).
13
Có lẽ tuổi dựng vợ gả chồng ở họ, thường vào khoảng độ tuổi mười tám, hoặc
đơi mươi. Vì theo đồng bào, thì cách tính tuổi của con người trước đây được tính từ
lúc sinh ra theo bao mùa rẫy; nên khơng được chính xác cho lắm. Trai gái thường tìm
hiểu nhau trong lễ hội bỏ mả, hoặc vào dịp ăn tết cơm mới. Nếu đơi nào ưng nhau thì
về báo cho cha mẹ biết để lo việc cưới xin cho đôi lứa nên duyên vợ chồng. Cha mẹ
của chàng trai nhờ người làm mối đến nhà cô gái bắn tin ướm thử cho chắc chắn thêm.
Được cha mẹ cô gái ưng thuận và chính bản thân cơ ta đồng ý, thì ơng (hay bà) mối về
báo tin cho nhà trai biết. Ngay lập tức chàng trai liền gửi một vịng chỉ và một chuỗi
hạt cườm cho cơ gái đeo vào cổ, qua người mối lái để làm tin. Đồng thời cô gái cũng
trao lại những vật tương tự như thế để chàng trai đeo làm vật tin. Những vật làm tin
này được họ giữ lại để làm kỉ niệm cho đến khi cưới và lúc sinh con đầu lòng thì đeo
ln cho nó. Nếu chẳng may có gì trục trặc khơng cưới nữa, thì họ trả lại cho nhau
những vật tin này.
2.2 Qúa trình tổ chức
Trước khi, mà sắp tiến hành tổ chức nghi lễ hôn nhân này. Gia đình bản thân
người tổ chức rất vất vả tất cả các mặt nhất là việc đi kiếm củi, chỉnh chu lại nhà cửa
cũng như quét dọn sạch sẽ, mời ông già làng cúng, mời người thân họ hàng từ nơi
khác, và các dân làng trong chính cộng đồng đó. Khi mà tổ chức đám cưới sắp tới gần
một hoặc hai ngày các anh chị em trong làng sẽ giúp những việc làm như đi kiếm củi,
chặt các cây tre để dựng trại, giết mổ thịt heo để phục vụ cho đám cưới.
Trong quá trình tổ chức nghi lễ này trước hết phải làm đúng thủ tục của cư dân
nơi đây chính thức mời thần linh, sắp xếp cơng việc chuẩn bị cũng hết sức chu đáo,
cẩn trọng. Trong suốt thời gian này, tiếng cồng chiêng sẽ liên tục nổi lên để khuấy
động khơng khí, để mời gọi, đón tiếp thần linh cũng như người tham dự và hỗ trợ thúc
giục việc chuẩn bị lễ hội thật chu đáo. Nghi lễ chính là hình thức cho ta thấy được một
cách sâu sắc và sinh động truyền thống văn hóa của một dân tộc hay một cộng đồng.
Qua nghi lễ, ta còn nhận ra được khuynh hướng tâm linh,thẩm mĩ và cả những nét đặc
sắc riêng tư trong sinh hoạt của từng dân tộc. Với nghi lễ, người dân luôn luôn được
sống một cuộc đời lý tưởng khác với cuộc sống hiện thực hàng ngày của họ.
2.2.1 Phần nghi trong nghi lễ hôn nhân
Tục cưới xin của người Bana ở Vân Canh là một lễ tục văn hóa về hơn nhân gia
đình đã hình thành và định hình từ lâu đời được coi là một tục lệ văn hóa quan trọng,
14
phong phú, đặc sắc, có ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc đến sự hình thành, phát triển gia
đình, dịng tộc và dân tộc, chứa đựng trong đó rất nhiều phong tục, luật tục, những
chuẩn mực, những quy định, yêu cầu về tìm hiểu yêu đương, kén chọn, gả chồng, gả
vợ.
Tiêu chuẩn chung theo quan niệm của người Bana khi chọn vợ là chọn những
cơ gái chịu khó, chăm chỉ làm ăn, nói năng nhẹ nhàng, biết làm các cơng việc đồng
ángv, biết thêu thùa dệt vải, thành thạo các công việc nội trợ và xử lế phép với bố mẹ,
anh chị, họ hàng, làng xóm. Tiêu chuẩn của một người chồng lý tưởng là có sức khỏe,
cày bừa thành thạo và biết đan lát các cơng cụ gia đình, biết chăm lo cho gia đình.
Nhưng để nên duyên vợ chồng, đơi trai gái người Bana cịn phải trải qua nhiều
thủ tục, nghi lễ bắt buộc. Nhà trai mời ông bà chọn ngày lành tháng tốt đem lễ vật
gồm: một con gà và một ghè rượu, sang nhà gái làm lễ ăn hỏi. Vào đúng ngày ăn thân
phụ mẫu của đôi trai gái, cô dâu và chú rể tương lai cùng đại diện của hai họ, dưới sự
chủ trì của ông mối. Khi đó ông mối làm lễ cúng thần linh cho đôi lứa đến với nhau
sống đến đầu bạc răng long. Rồi ơng chính thức tun bố cho chàng trai và cô gái lấy
nhau nên duyên vợ chồng, trước sự chứng kiến của hai bên gia đình. Sau đó đãi ông
mối và những người đại diện của hai họ có mặt trong lễ ăn hỏi. Trong bữa tiệc này hai
bên gia đình cùng nhau bàn bạc để đi tới thống nhất việc tổ chức đều tự nguyện đóng
góp tiền của vật chất cho đám cưới tùy theo khả năng kinh tế của mình, chứ khơng có
thách cưới, hoặc bắt buộc bên nào phải lo nhiều hay ít tục cưới Bana k’riêm vẫn duy
trì tục lệ khá phóng khống. Đó là một trong hai nhà trai hay gái, nhà nào có điều kiện
hơn thì có thể đứng ra tổ chức đám cưới. Tất nhiên đám cưới của đôi trẻ sẽ được tổ
chưc ở nhà hoặc nhà Rơng. Cịn nhà kia có thể đóng góp thêm tùy theo khả năng của
mình. Đám cưới của từng nhà có hàng chục ghè rượu cần. Cịn đám cưới của những
nhà bình dân thì mổ heo giết gà và 7 – 8 ghè rượu. Sau khi đã chuẩn bị mọi thứ cho
đám cưới xong, thì tổ chức đám cưới và thông báo cho hai bên họ nhà trai và họ nhà
gái biết để tới dự đông đủ.
Vào tối hôm trước ngày cưới ông mai tiến hành làm lễ tơ hồng kết duyên cho
đôi trai gái ở tại nhà xin cưới. Tại đây người ta sửa soạn sẵn một ghề rượu có cắm nơm
na đây là lễ uống rượu thề của đơi trai gái. Ơng mai tiến hành làm lễ cúng Yàng, rồi
cầu khấn cho đoi lứa hạnh phúc trăm năm. Đôi trai gái ngồi đối diện tay cầm ngậm
uống một ngụm rượu và ăn một miếng gan gà. Sau đó đơi trai gái hứa hẹn thề sống
15
trọn đời bên nhau. Nếu một trong hai người bỏ vợ hoặc bỏ chồng đã có ơng mai làm
chứng.
Phần nghi này rất quan trọng khi mà làm lễ cưới. Trước tiên trong gia đình phải
thực hiện những nghi thức đúng truyền thống của đồng bào. Khi mà trước thời gian dự
định ngày lễ cưới, thì hai người con phải ra mắt trước hai dịng họ gia đình 2 đến 3
ngày có khi là một tuần, để hai giịng họ có thể biết trước được nhau khơng ngần ngại
trong q trình xưng hô. Nhưng vấn đề chủ yếu nhất vẫn là hai đối tượng trong lễ cưới
đó, họ sẵn sàng tìm đến nhau một cách tự nguyện sau khi nghi lễ làm chính thức xong
xi họ đã là một cặp trời cho họ đến với nhau và tìm hiểu nhau trước khi hơn nhân
được tổ chức. Ở đây có một phong tục rất huyền bí, khi mà hai người sắp tổ chức đám
cưới thì trước tiên cả hai nếu ở cùng trong cộng đồng, nếu lúc trước một trong hai có
quan hệ trước hơn nhân thì bắt buộc người đó phải khai để cho ông No hoặc già làng
được chứng kiến và trực tiếp ông già làng hỏi lúc trước con đã có quan hệ mấy người.
Thủ tục cúng Yàng như một con heo, một con gà, một chế rượu cần… với hình thức là
cho các thần linh biết và sẽ được các thần linh bảo vệ tính mạng. Nếu khơng lấy lời
khai như vậy sau này sẽ ảnh hưởng không chỉ cho bản thân mà cịn liên lụy trong gia
đình hoặc cho cả cộng đồng. Như vậy những thủ tục đó rất quan trọng và đi theo
xuyên suốt bất cứ người nào trong làng có sai phạm vì trong cộng đồng là có sự bảo vệ
của thần linh do vậy họ quan niệm những hành động việc làm của mình thần linh đều
biết hết, khơng nên gian dối. Đó là một phong tục rất quan trọng nhất.
Trước sự chứng kiến của hai gia đình, dưới sự hướng dẫn của ơng mối, đơi trai
gái lần lượt trao vịng cho nhau. Đơi trai gái đã qua lễ trao vịng thì khơng được có
quan hệ yêu đương với người khác. Nếu vi phạm hoặc vì lý do nào đó muốn thối hơn
thì một trong hai bên phải nộp cho ông mối một con gà, phải trả lại vòng và bồi
thường danh dự cho bên kia một con lợn và những lễ vật có giá trị.
Trong quá trình thực hiện phần nghi này thì ở mỗi dân tộc đều có phong tục
riêng, nghi thức riêng, tập qn riêng vì vậy khơng nên hồi nghi. Là một dân tộc theo
ngun tắc ngoại hơn dịng họ nên phong tục của người Ba Na khuyến khích những
đơi trai gái khác Thứ nhất, toàn bộ các thành viên nam nữ thuộc họ gần tức là con cháu
trong vòng ba đời của một ông bà tổ, bao gồm cả bên cha và bên mẹ, như: con cô, con
cậu, con chú con bác, con dì con già; cháu cơ cháu cậu, cháu chú cháu bác, cháu dì
cháu già... tuyệt đối khơng có quan hệ tính giao và hơn nhân. Thứ hai, các thành viên
16
nam, nữ thuộc họ xa, tức là con cháu của một ông bà tổ, từ đời thứ bốn trở lên, tính
theo đằng cha, cũng có thể lấy được nhau, nhưng phải làm một lễ cúng nhỏ tạ lỗi với
tổ tiên. Khi đó họ sẽ khơng mắc vào tội loạn ln và khơng vi phạm luật tục.dịng họ
kết hơn với nhau. Nếu xác định được rõ ràng hai người trong cùng một krung ktum thì
chuyện cưới xin khó xảy ra.
Trong phần tổ chức nghi thức trong lễ cưới cũng là một phần quan trọng. Tập
trung tất cả các hội đồng già làng uy tín dưới hình thức phải biết cúng tế, nơi cúng
khơng phải là đơn giản nhất phải có khơng gian thiêng nhất trong gia đình. Khi cúng
mỗi người già trong làng nói rõ hơm nay là ngày vui của hai đứa con, nhưng phải nói
đúng tên của cả hai xin thần bảo vệ cho họ được hạnh phúc đừng để họ đau ốm bệnh
tật cầu xin thần linh sẵn sàng bảo vệ cho họ trong cuộc sống hằng ngày. Hiện nay, nghi
thức này vẫn được phát huy những người già làng hết sức coi trọng.
2.2.2 Phần lễ trong nghi lễ hôn nhân
Đám cưới truyền thống của người Bana K’riêm ở huyện Vân Canh thường được
tổ chức tại lễ cưới ở nhà trai và lễ cưới ở nhà gái. Hai lễ cưới này được tổ chức song
hành với những lễ nhỏ khá độc đáo, phản ánh đời sống văn hóa phong phú của người
Bana K’riêm.
Phần lễ này được tổ chức trọn gói trong một ngày, trong một ngày đó phải xong
hết tất cả phần lễ, cịn phần nghi thì ngày hôm sau khi rước con dâu hoặc con rể về thì
tiếp tục cúng nữa thơng báo cho thần linh biết. Hôn nhân của người Bana trai hay gái
Đến ngày cưới, thì lễ thành hơn được tổ chức long trọng tại nhà xin cưới. Họ hàng đơi
bên gia đình nhà trai và nhà gái, cùng toàn thể bạn bè thân hữu và bà con xóm giềng
đều có mặt đơng đủ để chúc mừng hạnh phúc của cô dâu và chú rể. Mọi người đến dự
đều mang theo đồ mừng như: một vài cân gạo, một con gà hay một ghè rượu, hoặc một
ít trái cây… Gần đây đồ đi mừng đám cưới của đám thanh niên trong làng đã có xu
hướng thay bằng tặng phẩm. Sau khi mọi người đến dự đã đơng đủ, thì ơng mai dẫn
đơi vợ chồng trẻ tới chỗ để mâm có bày sẵn hai cái đùi gà và hai nắm cơm nhỏ. Rồi
ông mai trao cho mỗi người một phần gồm có 1 đùi gà và 1 nắm cơm, và làm lễ khấn
thần linh ban sức khoẻ và hạnh phúc cho đơi lứa. Sau đó hai vợ chồng đổi phần ăn cho
nhau và cùng ăn mở đầu cho bữa tiệc cưới. Khi ấy tất cả mọi người có mặt cùng lên
tiếng chúc mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ, rồi họ cùng nhau ăn cỗ, uống rượu
17
cần và chuyện trò vui vẻ đến tận chiều tối mới tan cuộc ra về. i về bên nào cũng được
chứ không bắt buộc.
Lễ rước dâu là một nghi thức khá quan trọng. Đội hình múa là những cơ gái bận
các bộ váy truyền thống với nhiều sắc màu rực rỡ, và đeo đủ thứ trang sức. Đội hình
cồng chiêng của nam thì chọn cho mình những chiếc khố, chiếc áo đẹp nhất. Những cơ
gái trong đội hình múa vừa đi vừa múa uyển chuyển theo nhịp cồng chiêng do đội hình
nam đánh. Tất cả tạo nên một bầu khơng khí rất vui nhộn và đẹp mắt. Ngồi đội hình
múa và đội hình cồng chiêng thì khơng thể khơng kể đến hai nhân vật đi cùng, đó là
Pơ rak và Pơ man.
Tiếp đến là Lễ ông mai được tiến hành vào sáng ngày đầu tiên diễn ra đám
cưới. Ông mai và thầy cúng đến nhà trai rất sớm. Họ bắt tay vào chuẩn bị một số đồ
dùng và vật phẩm phục vụ cho các nghi thức chuẩn bị diễn ra trong đám cưới. Khi mọi
việc chuẩn bị cho lễ cúng hoàn tất, người cha của chú rể sẽ đeo vào cổ lần lượt 3 chiếc
vòng làm bằng sáp ong cho thầy cúng và hai ông mai. Theo quan niệm của người Bana
thì sáp ong tượng trưng cho ơng trời (bởi vì sáp ong chính là tinh hoa của trời đất, của
mn lồi hoa kết tinh thành).
Khi đồn rước đi ngang qua cổng nhà cơ dâu thì cơ dâu và đồn người nhà gái
nhập vào phía sau đồn rước (khơng có chú rể đi cùng đoàn rước giống như ở dân tộc
Kinh). Lúc này cô dâu phải đeo sẵn một gùi bó củi sau lưng để đem về nhà chồng.
Điều này thể hiện sự siêng năng, làm nương rẫy giỏi của cơ dâu. Bó củi cũng chính là
lễ vật ra mắt nhà trai của cô dâu. Sau nghi thức này là một loạt các nghi thức khác
được diễn ra tại nhà trai như: Lễ cô dâu bước qua cửa (sợi chỉ); Lễ mời trầu nhà gái;
Lễ đi múc nước; Lễ giã gạo; Lễ uống rượu cần cô dâu; Lễ cúng rượu mời nhà gái ăn
cơm, Lễ cúng dãy ghè rượu để mời bà con dòng họ uống. Tiếp đến là Lễ cúng cơ dâu
chú rể chính thức thành vợ chồng. Lễ rước dâu là một nghi thức khá quan trọng. Đội
hình múa là những cô gái bận các bộ váy truyền thống với nhiều sắc màu rực rỡ, và
đeo đủ thứ trang sức. Đội hình cồng chiêng của nam thì chọn cho mình những chiếc
khố, chiếc áo đẹp nhất. Những cơ gái trong đội hình múa vừa đi vừa múa uyển chuyển
theo nhịp cồng chiêng do đội hình nam đánh. Tất cả tạo nên một bầu khơng khí rất vui
nhộn và đẹp mắt.
Lễ cúng cơ dâu chú rể chính thức thành vợ chồng (được tổ chức vào buổi tối):
Đây là nghi lễ quan trọng nhất của đám cưới. Đến nghi lễ này thì chú rể mới được xuất
18
hiện cùng cơ dâu. Cũng tại nghi lễ này thì chiếc đuôi heo được đeo vào cổ trước ngực
thầy cúng, bên cạnh vịng sáp ong. Đi heo tượng trưng cho chó sói (quyền uy)
nhưng cũng là để gây cười cho mọi người để đám cưới được vui hơn. Thầy cúng đọc
bài cúng báo tin cho các Giàng dòng họ chứng kiến cơ dâu chú rể chính thức thành vợ
chồng. Ngay sáng sớm hôm sau sẽ tiến hành các nghi thức: Lễ cô dâu chú rể đi xúc cá,
Lễ đi lao động (làm rẫy). Đây được xem là các hoạt động lao động đầu tiên của cô dâu
hoặc chú rể về nhà. Tiếp đến là các nghi thức Lễ đạp tro, Lễ lại mặt nhà trai và nhà
gái.
Lễ cưới gồm rất nhiều lễ nhỏ khác đi kèm, như: Lễ cúng rước và thử cồng
chiêng; Lễ giới thiệu dòng họ nhà trai về đám cưới, Lễ mừng những người giúp đám
cưới, Lễ rượu ghè mừng các dòng họ trong làng, Lễ mời cơm dân làng. Sau khi các lễ
trên được tiến hành xong thì sẽ cử hành lễ rước dâu.
Lễ cưới nhà gái: Thường được tiến hành song song với lễ cưới ở nhà trai. Các
món ăn chuẩn bị cho đám cưới, các nghi thức cúng tương tự như nhà trai.
Lễ này thường được tiến hành trước ngày cưới vài ngày. Khi gia đình hai bên
ưng thuận, gia đình nhà trai nhờ ông mai cùng với lễ vật: Trầu, cau, vòng cườm trao
cho cơ dâu làm lễ đính ước. Trong buổi cúng ông mai trao cho cô dâu tương lai một
chiếc vòng tượng trưng cho lời đính ước của nhà trai. Sau khi thống nhất, hai bên gia
đình tiến hành chuẩn bị cho lễ cưới chính thức sẽ diễn ra vào một ngày gần nhất đã
được ấn định. Một điều khá thú vị trong quan niệm của người Bana K’riêm Canh Liên
đó là từ sau lễ hỏi cô dâu và chú rể kiêng không được gặp nhau, chỉ được gặp nhau khi
đến lễ cúng nhận cơ dâu chính thức.
Trong tiếng Ba Na lễ cưới gọi là “pơ koong”. Lễ cưới thường được tổ chức vào
dịp cuối năm, nghĩa là sau mùa thu hoạch. Lúc đó người dân rảnh, lúa thóc đã đầy kho,
trâu bò và gà đã đầy chuồng. Đám cưới là một ngày hội của làng, được diễn ra trong
vòng 1 ngày và thường được tổ chức vào những ngày có trăng trịn. Hơn lễ được cử
hành vào buổi chiều tại nhà Rông. Lễ vật cưới do nhà trai chuẩn bị bao gồm: một con
gà với một ché rượu cần. Một người từng tham dự đám cưới của người Bana, cho biết:
Trong lễ cưới có bất cứ cái gì bằng sắt, nhất là sắt không rỉ sẽ được lấy để kê dưới
ghè rượu. Sau đó mới là lễ cúng Giàng, thần linh: Ơ Giàng, nay hai đứa đã thành vợ
chồng rồi cầu xin Giàng cho con cái, đừng cho đau ốm.
19
Vào buổi tối, sau khi hôn lễ đã tổ chức ở nhà Rông, đám cưới được tiếp tục tại
hai gia đình với sự góp vui của tồn thể dân làng. Mọi người cùng nhau quây quần bên
ché rượu cần cùng ăn uống và nhảy múa. Cha mẹ cô dâu, chú rể sẽ đi mời dân làng
dùng rượu để tỏ lòng cám ơn dân làng đến chung vui cùng với hai bên gia đình. Khi
đám cưới kết thúc, mọi người đã ra về hết, ông mối dắt cô dâu về nhà trai, giao cho
chú rể và tự tay trải chiếu cho đôi tân hôn. Cô dâu và chú rể phải cùng nhau ăn chung
một bữa cơm trước khi đi ngủ. Để trả công cho ông mối theo phong tục của người Ba
Na, qua ngày hơm sau, hai gia đình sẽ lần lượt mời ông mối đến nhà để cám ơn và trả
công: Ngày nay, phong tục cưới hỏi của người Bana có một số thay đổi phù hợp với
đời sống mới. Ché rượu cần và các thủ tục lễ cưới vẫn theo truyền thống ngày xưa.
Còn cách tổ chức bây giờ có phát sinh thêm theo hiện đại như có cây đàn để phục vụ
cho thanh niên. Bây giờ đám cưới Bana cũng thay đổi về trang phục nữa, chẳng hạn
như khơng đóng khố nữa, hay người ta đi giày Tây đến dự đám cưới”. Trong đám cưới
truyền thống của người Ba Na ngày nay, ẩm thực mang đậm đặc trưng của núi rừng,
rượu ghè, các món chua từ lá cây rừng, rau rừng…vẫn là thứ không thể thiếu. Những
luật tục cùng những nghi lễ linh thiêng truyền thống vẫn rất được coi trọng. Có lẽ bởi
thế mà cuộc sống hơn nhân của người Bana thường rất bền vững.
Đêm hơm đó họ vẫn còn ngượng ngùng chưa dám ngủ chung với nhau; Và kể
từ đây họ tiếp tục sống ở đó một thời gian độ một vài năm. Sau đó đơi vợ chồng trẻ lại
qua sống ở nhà bên kia một khoảng thời gian tương tự. Và cứ như vậy, họ sống luân
phiên hết ở bên nhà bố mẹ vợ thì lại qua ở bên nhà bố mẹ chồng, cho đến khi họ có
khả năng kinh tế vững, thì họ tách ra làm nhà ở riêng. Trên thực tế có nhiều đơi vợ
chồng do hồn cảnh kinh tế khó khăn, sau khi lấy nhau đẻ được một, hai đứa con mà
họ vẫn chưa thể làm nhà ra ở riêng, thì họ vẫn phải tiếp tục sống luân phiên ở cả hai
bên gia đình vậy. Thường thì người con trai trưởng trong gia đình của người Bana khi
lấy vợ và sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với gia đình nhà vợ rồi thì được phép
đưa vợ con về ở hẳn nhà của bố mẹ đẻ ra mình, được thừa hưởng tồn bộ gia sản của
bố mẹ, nhưng phải có nghĩa vụ ni nấng và chăm sóc cha mẹ đến trọn đời.
Buổi tối, sau hôn lễ ở nhà Rông, đám cưới được tiếp tục tại hai gia đình với sự
góp vui của toàn thể dân làng. Người ta quây quần bên ché rượu cần. Thức ăn thì bày
lên những chiếc lá kơ pang đặt trên những tấm phên hay chiếc nong to. Cha mẹ cô dâu,
chú rể đến từng ché để mời mọc và cám ơn dân làng. Trong buổi tối hơm đó, khi đám
20
cưới đã tàn, ông mối dắt cô dâu về nhà trai, giao cho chú rể và tự tay trải chiếu cho đôi
tân hôn. Trước khi đi ngủ, cô dâu, chú rể ăn chung với nhau bữa cơm đầu tiên. Ngày
hôm sau, hai gia đình thơng gia lần lượt mời ơng mối đến nhà để cám ơn và trả công
theo phong tục. Quyền tự do hôn nhân của con cái được tơn trọng, khơng có tình trạng
ép buộc hay gả bán. Trừ lễ vật ở nhà Rông do nhà trai chuẩn bị, cịn chi phí cho bữa
tiệc rượu ở gia đình nào thì gia đình ấy lo. Đây là một phong tục đẹp của cộng đồng
dân tộc Ba Na.
Trong đám cưới của người Bana K’riêm ở Vân Canh, vui nhất và được chờ đợi
nhiều nhất là Lễ mời cơm dân làng. Tất cả đồ ăn sẽ được bày ra để mời tất cả bà con
dân làng cùng ăn. Không cần ai bảo ai, người thì xới cơm, người thì tách các xâu thịt
nướng, người thì múc canh xơ mít… mỗi người một tay; rồi từng nhóm ngồi lại, cùng
nhau ăn chung, vui tiệc đám cưới. Từ những cụ già cho đến những em bé đều tham gia
một cách rất nhiệt tình. Trước khi đến dự lễ mời cơm, nhà nào trong làng cũng gùi đến
một ghè rượu cần để chung vui với đám cưới cơ dâu chú rể, do đó số lượng ghè rượu
bà con đem đến rất nhiều, có khi cả hơn trăm ghè. Rượu này sẽ được dùng để mời
khách tham dự lễ vui đám cưới vào buổi tối. Nhà nào cũng muốn mời khách uống ghè
rượu của nhà mình càng nhiều thì càng mang lại may mắn.
Hiện nay người Bana tuy theo chế độ phụ hệ, nhưng vẫn còn nhiều tàn dư của
mẫu hệ trong các sinh hoạt phong tục và tín ngưỡng dân gian. Trong tục lệ cưới xin
của họ tuy đã nghiêng hẳn sang phụ hệ, nhưng chưa hồn tồn thắng thế như đã trình
bày ở trên. Nhìn chung trong việc hơn nhân của người dân địa phương,thì khi trai gái
đến tuổi trưởng thành được tự do tìm hiểu và u thương nhau. Sau khi đơi lứa ưng lấy
nhau thì nhờ người mai mối để tiến hành lễ ăn hỏi. Và tiếp theo là hai gia đình nhà trai,
nhà gái tiến hành tổ chức đám cưới cho đôi lứa nên vợ, nên chồng. Luật tục về cưới
xin của đồng bào dân tộc Bana k’riêm không đến nỗi nghiêm khắc cho lắm, nhưng có
những điều khoản rất cụ thể không cho phép bỏ nhau một cách vô cớ. Chẳng hạn các
đôi vợ chồng không được tự tiện bỏ nhau, nếu ai cố tình bỏ vợ (hay bỏ chồng) thì làng
phạt rất nặng. Đây là một hình thức phạt dựa trên điều khoản đã hứa của hai vợ chồng
trong lễ tơ hồng trước thần linh và có ơng mối làm chứng. Có lẽ trong phút giây thiêng
liêng nhất cuộc đời và trong lúc tâm trạng bối rối, lại được ông mối mớm lời nên đôi
trai gái cứ việc hứa cho xong; nào ngờ đó là điều giàng buộc rất chặt chẽ về sau này vì
đã lỡ lời chót hứa trước thần linh mất rồi. (Ví dụ như có đôi vợ chồng hứa rằng: Nếu
21
như ai bỏ vợ; hoặc bỏ chồng thì phải nộp phạt 3 trâu, 3 dê, 3 heo, 5 gà và 10 ghè rượu
cần cho người bị bỏ). Như vậy hình phạt này tuy là tự nguỵên, nhưng rất nặng mang
tính chất răn đe là chủ yếu; và đã có ý nghĩa tích cực nhằm duy trì hạnh phúc của
nhiều thế hệ các gia đình trong bn làng.
22
CHƯƠNG 3: PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP TRONG
NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI BANA K’RIÊM Ở HUYỆN VÂN CANH,
TỈNH BÌNH ĐỊNH
3.1. Những giá trị truyền thống văn hóa
Những giá trị văn hóa tộc người đặc sắc chỉ có thể được gìn giữ và trao truyền
bởi chính những chủ nhân tương lai, là thế hệ thanh niên dân tộc đó. Mọi sự hỗ trợ,
tiếp sức chỉ có ý nghĩa khi chính những thành viên của các tộc người hiểu rõ và trân
trọng những giá trị truyền thống đặc sắc của tộc người mình, mong muốn và quyết tâm
gìn giữ.
Trong quá trình giao lưu và hội nhập, nhìn chung văn hóa Bình Định nói chung
và ở huyện Vân Canh nói riêng đã và đang chịu sự tác động và sức ép mạnh mẽ của
các phương tiện và lối sống hiện đại. Những nghi lễ trong hôn nhân giờ cũng đang bị
mai một dần do ý thức của cộng đồng đó vẫn lơ tơ mơ chưa đặt nền văn hóa của nình
là quan trọng nhất ngày càng nghi lễ hồn tồn mất đi. Khơng những nghi lễ bi mai
một mà các hình thức và tính chất, nội dung của nghi lễ càng ngày càng rút ngắn nên
các giới trẻ phải nhanh tay xây dựng lại, khôi phục lại nền văn hóa truyền thống của
chính cộng đồng mình đang sinh sống và tiếp tục phát huy những truyền thống ngày
xưa để lại nhiều tốt đẹp.
Ngày xưa các nghi lễ này được tổ chức không trang trọng nhưng các nghi lễ
được tổ chức một cách bình thường nhưng đầy đủ tính nhân văn. Hiện nay, những nghi
lễ đã bị mai một rất nhiều được tổ chức dưới hình thức mang tính có lệ chứ không đầy
đủ những nội dung trong nghi thức, nghi lễ. Con người dù sinh ra ở đâu, thời điểm
nào, các nghi lễ đầy đủ hay rời rạc thì cần phải thì cần phải phát huy mạnh mẽ. Các tín
ngưỡng đó đã tồn tại song song với con người chúng ta từ xưa đến nay cộng đồng
người vẫn coi trọng phong tục tập quán của mình. Đồng bào quan niệm rằng trong
cuộc sống của chúng ta các tín ngưỡng, các phong tục luôn đi theo họ đến suốt cuộc
đời. Nghi thức hơn nhân của người Bana k’riêm vừa có giá trị tâm linh, văn hóa, nghệ
thuật, đối với người Bình Định hay bất cứ trong cộng đồng dân tộc khác nghi lễ hôn
nhân được thể hiện rất rõ triết lý sống củ họ tồn tại hay mất đi đều do họ quyết định
việc các nghi lễ vẫn giữ nguyên giá trị ngun gốc đích thực của nó.
Vì vậy, để bảo tồn nghi lễ hôn nhân phải bắt đầu từ việc nhận thức của mỗi cá
nhân thì rất cao. Phải có thái độ tơn trọng trong văn hóa tín ngưỡng và nghi lễ của họ.
23