Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TIỂU LUẬN đề tài tìm hiểu về các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.51 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH TẾ, LUẬT VÀ QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC UEH
KHOA KINH TẾ
Ơ&Í

TIỂU LUẬN

Đề tài: Tìm hiểu về các hành vi tham nhũng
theo quy định của pháp luật Việt Nam
Giảng viên: Nguyễn Thuỳ Dung
Mã học phần: 21C1LAW51100103
Sinh viên:
MSSV
Nguyễn Xuân Phúc
31211024241
Nguyễn Thị Giang
31211020235
Nguyễn Viết Hải
31211026090
Trần Vương
31211022921
Phan Thị Thảo Vi
31211020310
Đặng Bảo Ngọc
31211025724
Nguyễn Trương Anh Thư 31211023430
Khoá – Lớp: K47 – ĐT001

MỤC LỤC
1



2


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Tham nhũng là một trong những vấn nạn nghiêm trọng trong tình hình xã hội
hiện nay. Và hiện tượng này đã có từ lâu trong lịch sử loài người. Hậu quả, tác hại
của tham nhũng gây ra đối với xã hội là vô cùng lớn. Thế giới ngày càng phát triển
đến trình độ cao thì tình trạng tham nhũng lại ngày càng bùng phát làm kìm hãm,
ngăn cản sự phát triển kinh tế - chính trị của đất nước, đe doạ đến sự ổn định vững
vàng của chế độ chính quyền cũng như độc lập an ninh của Tổ quốc. Hiện nay tham
nhũng có ở hầu hết các nước trên thế giới, với những mức độ khác nhau.
Ở Việt Nam, tình hình tội phạm tham nhũng cũng đã gây ra những tác hại rất to
lớn cho đời sống chính trị, kinh tế, làm xói mịn giá trị đạo đức, văn hố, gia đình,
xã hội, và đặc biệt, tham nhũng làm giảm sút niềm tin của nhân dân, làm sai lệch
các chủ trương, chính sách của Đảng (Dẫn chứng sẽ được nêu chi tiết ở Phần D,
chương 3- Thực trạng). Có thể thấy trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống, quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi tệ
nạn tham nhũng. Thế nhưng đây vẫn còn là một mối nguy hại tiềm tàng đến đời
sống xã hội hiện nay.
Ngoài ra để đảm bảo cho việc PCTN được thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả
và đạt được mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài, Chính phủ đã ban hành Chiến
lược Quốc gia về PCTN đến năm 2020 tại Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày
12/5/2009, Chủ tịch nước đã phê chuẩn Công ước của LHQ về CTN tại Quyết định
số 950/2009/QĐ-CTN ngày 30/6/2009. Trên cơ sở đó, thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07/4/2010 ban hành kế hoạch thực hiện Chiến
lược Quốc gia về PCTN đến 2020 và Kế hoạch thực hiện công ước của LHQ về
CTN.

Trên thực tế, trải qua 5 năm thực hiện Luật PCTN có thể thấy được cơng tác
PCTN đã có những thay đổi tích cực hơn. Thế nhưng, do các tội phạm về tham
nhũng thường là những người giữ chức vụ, quyền hạn, có trình độ kiến thức cao, có
các mối quan hệ phức tạp. Nên họ thực hiện những thủ đoạn tinh vi hơn so với các
tội phạm thơng thường khác. Vì thế cơng tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về
tham nhũng là vơ cùng trở ngại, khó khăn và khơng phải lúc nào cũng thu được kết
quả như kì vọng. Đó cũng chính là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lí của Nhà nước. Một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng
tham nhũng như hiện nay xuất phát từ các quy định của pháp luật về PCTN vẫn còn
những hạn chế, trong đó có một số quy định khơng cịn phù hợp với thực tiễn cũng
như yêu cầu của nhiệm vụ cơng tác PCTN, có một số quy định cịn mâu thuẫn,
chồng chéo.
3


Vì vậy, HTPL về PCTN hiện nay là một nhiệm vụ cấp thiết nhằm đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu của cơng tác PCTN, bảo đảm nâng cao hiệu quả phịng chống, ngăn
chặn và xử lí các hành vi tham nhũng. Để HTPL, cần phải chỉ ra những ưu điểm và
hạn chế của pháp luật về PCTN hiện hành, từ đó đề xuất những giải pháp HTPL về
PCTN.
Bắt nguồn từ những lí do nêu trên, chúng tơi đã quyết định lựa chọn đề tài:
“Tìm hiểu về các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:

Trong những năm gần đây, ở nước ta liên tiếp có nhiều cơng trình nghiên cứu đề
cập đến vấn đề đấu tranh chống tham nhũng. Cụ thể:


Đề tài về “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến

năm 2020” do Thanh tra Chính phủ chủ trì



Sách “Phịng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam - Lý
luận và thực tiễn” của Nguyễn Quốc Sửu



Chuyên đề “Chống tham nhũng của Việt Nam và một số nước trên thế giới”
của Lê Văn Giảng



Đề tài khoa học cấp Bộ “Giải pháp đột phá đấu tranh phòng, chống hiệu quả
tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Cảnh
Q



Đề tài khoa học cấp Bộ: “Phịng, chống tham nhũng trong các cơ quan thực
hiện chức năng phịng, chống tham nhũng” của Tạ Thu Thủy



Bài “chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực” của Vũ Quốc Tuấn



Đề tài khoa học cấp Bộ về “Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với

phòng, chống tham nhũng: Thực trạng và giải pháp” của Lê Hồng Liêm



Bài “Một số vấn đề về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong phòng,
chống tham nhũng”, của Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Thùy Dung

Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình khoa học, các bài viết nghiên cứu, đánh giá
pháp luật về phòng chống tham nhũng, thực hiện pháp luật về phòng chống tham
nhũng để góp phần vào việc hồn thiện pháp luật về phịng chống tham nhũng.
B. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Luận văn có mục đích nghiên cứu các quy định của pháp luật về những hành vi
tham nhũng dưới khía cạnh của luật pháp hình sự, thực trạng tham nhũng hiện nay
trong đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng. Để từ đó đưa ra một số giải
4


pháp nhằm hoàn thiện các quy định về loại tội phạm trong luật hình sự Việt Nam và
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật trong thực tiễn giúp
cho công tác đấu tranh chống, phịng ngừa tội phạm về tham nhũng. Qua đó góp
phần làm rõ vị trí, vai trị của cơ quan thanh tra trong phòng chống tham nhũng ở
giai đoạn hiện nay.
C. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1) Phương pháp nghiên cứu của luận văn bao gồm tổng thể các phương pháp nghiên

cứu của khoa học - xã hội. Trong đó, vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là chủ yếu.
2) Vận dụng các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ

quan thanh tra để phân tích và tổng hợp, so sánh- thống kê và đối chiếu, phương

pháp lịch sử và logic, khái quát hóa, phương pháp trao đổi, điều tra xã hội học… để
thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài luận văn đã đặt ra.
3) Phương pháp phân tích bản án, phân tích tình huống để khảo sát thực tiễn thực

hiện/ áp dụng pháp luật về phòng chống tham nhũng, từ đó làm rõ những hạn chế,
bất cập.
4) Phương pháp dự báo, đánh giá tác động pháp luật để đề xuất giải pháp hoàn thiện

pháp luật chống tham nhũng
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG
1.1 Khái niệm về hành vi tham nhũng:
Tham nhũng là một vấn đề nóng trên tồn thế giới gắn liền với sự hình thành giai
cấp và sự ra đời phát triển của bộ máy nhà nước. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau
về vấn đề này. Ở Việt Nam, theo khoản 1, điều 3 Luật phịng chống tham nhũng
2018 thì: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
quyền hạn, chức vụ đó vì vụ lợi. Cũng trong bộ luật này, ở khoản 7, điều 3 đã quy
định: Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất khơng chính đáng. Tức là,
những người có chức vụ, quyền hạn đã dùng sự ảnh hưởng của mình để nhận tiền,
tài sản hoặc một loại phi vật chất nào đó mang lại lợi ích cho mình hoặc cho người
thân của mình mà khơng xuất phát từ nhu cầu cơng việc, không minh bạch, rõ ràng,
trong sạch. Tham nhũng đã gây ra những tổn thất vô cùng to lớn không chỉ về
chính trị, về văn hóa, tinh thần mà cịn cả nền kinh tế của đất nước.
1.2 Biểu hiện của hành vi tham nhũng:
Tham nhũng hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên phổ biến ở mọi
ngành nghề, cơ quan, tổ chức ở nhiều cấp bậc và trong nhiều lĩnh vực khác nhau
khơng chỉ trong chính trị, bộ máy nhà nước mà còn xảy ra rộng hơn ở khu vực
5



ngoài nhà nước với những mức độ khác nhau. Những hành vi tham nhũng cũng
được thể hiện ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Ở trong bộ máy nhà nước, những
quan chức, viên chức đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi, thực hiện
những hành vi trái với quy định của pháp luật đã đề ra. Ở trong kinh tế, chúng được
che đậy dưới các hình thức liên kết, liên doanh với nhau như trốn thuế, làm sai
ngân sách, thủ quỹ của tổ chức … nhằm thu được lợi nhuận khơng chính đáng về
tay của mình. Những biểu hiện trên được thể hiện rất phong phú với rất nhiều hình
thức khác nhau. Theo quy định tại điều 3 Luật phòng chống tham nhũng 2005 được
liệt kê thành 12 hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, trong luật phịng chống tham
nhũng 2018, 12 hành vi tham nhũng đó vẫn được giữ ngun và được chia thành 2
nhóm chính:
- Nhóm hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước là những người có chức
vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước được quy định gồm 12 hành
vi:
+ Tham ô tài sản là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ
máy nhà nước chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc của
người dân nhằm thu về lợi ích cho mình.
+ Nhận hối lộ là hành vi của những người đã lợi dụng chức vụ, sự ảnh hưởng
của mình sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thơng qua bất kì
hình thức nào để giúp đỡ hoặc đáp ứng yêu cầu, mong muốn của người hối
lộ.
+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản là hành vi của những
người có chức vụ, vị thế trong tổ chức đã vượt ra khỏi quyền hạn của mình
để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức vì những vụ lợi của cá nhân
mình.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi
là hành vi của cá nhân vì lợi ích hoặc vì động cơ khác của người có chức vụ
quyền lực đã làm trái những quyền hạn, nhiệm vụ hay cơng vụ nhằm mục
đích vụ lợi. Điều đó đã gây nên thiệt hại cho nhà nước, xã hội hay quyền lợi
của công dân.

+ Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ cơng vụ vì vụ lợi là hành vi của
người có chức vụ vì vụ lợi mà đã vượt q quyền hạn của mình, làm trái với
cơng vụ gây thiệt hại cho nhà nước, xã hội, quyền lợi của công dân.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền lợi gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
là hành vi của người có chức quyền lợi dụng quyền hạn của mình ảnh
hưởng đến người khác, đến cơng việc của họ làm một việc không được
6


phép làm nhằm trục lợi dưới bất kì hình thức nào, gây hậu quả nghiêm
trọng đến người khác.
+ Giả tạo trong cơng tác là hành vi của cá nhân vì những lợi ích các nhân của
mình mà đã lợi dung chức quyền, quyền hành của cá nhân để làm sai lệch
số liêu, giấy tờ, tài liệu, làm giả các loại giấy tờ, làm giả chữ kí của cá nhân,
tổ chức hay đơn vị.
+ Đưa hối lộ, mô giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức hay
một đơn vị nào đó là hành vi của một cá nhân thuộc một cơ quan tổ chức
hay một đơn vị nào đó đã tìm cách hối lộ cho người có quyền hạn, chức vụ
đang phụ trách các dự án, chương trình đề thơng qua đó đạt được lợi ích
cho tổ chức cũng như cá nhân.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công là hành vi lợi
dụng quyền quản lý tài sản của nhà nước để phục vụ cho lợi ích cá nhân
thay vì phục vụ cho lợi ích cơng. Đây là một hành vi khá phổ biến hiện nay.
+ Nhũng nhiễu vì vụ lợi là hành vi gây khó khăn, hách dịch, khơng thể hiện
một thái độ công tâm và tinh thần trách nhiệm mà còn lợi dụng, tạo ra
những thủ tục rườm rà, nhiều bước gây khó khăn cho cơng dân nhằm mục
đích vụ lợi. Hành vi này như là một hình thức hối lộ gián tiếp mà chưa đến
mức nghiêm trọng để có thể dùng các biện pháp xử lý.
+ Khơng thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ cơng
vụ là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn được giao nhiệm vụ

nhưng không thực hiện, hoặc khơng thực hiện đầy đủ để hồn thành nhiệm
vụ hồn chỉnh nhất nhằm mục đích vụ lợi cho cá nhân.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi là hành vi có sự che chắn, cản trở, can thiệp vào quy định
của pháp luật, có sự đồng lõa với những người bên vi phạm pháp luật hoặc
những người cấp cao hơn. Do vậy, việc phát hiện và xử lý ở hành vi này rất
khó khăn.
- Nhóm hành vi tham nhũng ngoài khu vực nhà nước là những người có chức
vụ, quyền hành trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước được quy định gồm 3
hành vi:
+ Tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức quyền của cá nhân để trục lợi,
chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp hay một tổ chức ngoài nhà nước.
+ Nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ của cá nhân nhận tiền, tài sản hoặc
vật chất nào đó của bên hối lộ thơng qua bất kì hình thức nào nhằm thực
hiện, đáp ứng yêu cầu của bên hối lộ đưa ra.
7


+ Đưa hối lộ, mô giới hối lộ để giải quyết cơng việc của doanh nghiệp, tổ
chức mình vì vụ lợi là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn thực hiện
hành vi hối lộ không trong sạch nhằm giải quyết cơng việc và đạt được lợi
ích, giành được lợi thế cho doanh nghiệp, tổ chức.
1.3 Những phương thức hành vi tham nhũng:
Từ những hành vi tham nhũng đã được nêu trên, ta thấy được những hành vi
tham ô đều lợi dụng những sơ hở của pháp luật, các chính sách, các biện pháp tổ
chức, điều hành, quản lý của các tổ chức, cơ quan, bộ máy nhà nước để đạt được
những lợi ích của mình. Những hình thức tham nhũng đã phát triển với mn hình
vạn trạng nhưng chung quy lại, các hành vi tham nhũng được thể hiện tập trung ở
những phương thức sau:
- Nhóm trực tiếp nhận hối lộ và sử dụng quyền hạn cũng như phương tiện của

cơ quan, tổ chức phục vụ cho nhu cầu, mục đích của cá nhân, gia đình. Đây là
nhóm hành vi phổ biến nhất. Bên cạnh đó, những cá nhân này cịn mang lại những
lợi ích khơng chính đáng cho bên thứ hai, từ đó hưởng lợi trong tương lai.
- Có địa phương, cơ quan tổ chức đưa ra những chỉ thị, nghị quyết không đúng
với pháp luật, quy định của nhà nước để thu những khoản lợi bất chính.
- Đề ra những khoản phí hàng loạt bắt nhân dân đóng góp, thiếu cơng khai minh
bạch để thu lợi cho mình.
- Gây những khó khăn, sách nhiễu, những thủ tục rườm rà nhằm mục đích để
được hối lộ.
- Các chủ thể tham nhũng thông qua những lớp ngụy trang bằng các hoạt động
hợp pháp.
- Lợi dụng buôn bán, vận chuyển trong nước hoặc đi nước ngoài để cấu kết với
bọn buôn lậu bất chấp hậu quả ảnh hưởng đến người dân, đến xã hội như thế nào,
miễn là thu được lợi nhuận về mình.
- Sử dụng tiền quỹ cơng, tiền tín dụng của nhà nước, các chính sách ưu đãi dành
cho những người dân, gia đình có hồn cảnh khó khăn để cho vay lấy lãi, lập quỹ
đen.
- Tạo thành tích giả từ những hình thức q cáp, khen thưởng, biếu xén nhau
trong các dịp lễ để tham ô.
- Thành lập các công ty ma, những dự án ma để trục lợi, lấy tiền từ nhà nước.
- Những chủ thể tham nhũng còn lợi dụng những lỗ hổng trong q trình thanh
tra, kiểm tra để tham ơ, hối lộ, sử dụng vốn vào những hoạt động khơng có mục
đích nhằm thu được lợi nhuận về mình.
8


1.4 Lịch sử hình thành và phát triển của hành vi tham nhũng:
Về nguồn gốc, tham nhũng xuất hiện từ rất sớm, xuất phát từ khi có sự phân
chia quyền lực và hình thành nhà nước. Khi có quyền lực, người có quyền lực có
rất nhiều phương thức, phương pháp sử dụng khác nhau. Nếu sử dụng quyền lực

khách quan, thì xã hội phát triển cơng bằng và minh bạch đồng thời đảm bảo được
lợi ích của nhà nước và nhân dân, xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN –
một xã hội thượng tôn pháp luật. Mặt khác, nếu sử dụng quyền lực chủ quan, không
công bằng dẫn đến hành vi lợi dụng quyền hành xuất hiện, khiến xã hội và nền kinh
tế kém phát triển đồng thời làm mất đi lòng tin của nhân dân vào nhà nước. “Quyền
lực càng cao, trách nhiệm càng lớn”. Nếu như trách nhiệm khơng kiểm sốt được
bản thân sẽ khiến cho lịng tham nổi dậy và sẽ thực hiện các hành vi vụ lợi cho cá
nhân. Ngoải ra, cịn có nhiều cá nhân mặc dù khơng có quyền lực nhưng có xu
hướng dựa dẫm vào người có quyền lực từ đó lợi dụng để tiến thành các hành vi
tiêu cực. Nhưng nhìn một cách khách quan, lỗi khơng hồn tồn ở người nắm giữ
quyền lực mà cịn có những yếu tố khác. Trong đó, quản lý kinh tế và xã hội lỏng
lẻo cũng là một yếu tố. Nếu như muốn người khác khơng làm việc xấu thì tốt nhất
là đừng nên tạo cơ hội, do sự kiểm soát quyền lực trong xã hội chưa được chặt chẽ,
có nhiều sơ hở là mầm mống cho các hành vi tiêu cực xuất hiện.
1.4.1 Hành vi về tham nhũng theo pháp luật thời phong kiến
Hành vi tham nhũng xuất phát từ sự phân chia quyền lực và hình thành nhà
nước. Đây ln là vấn đề ở mọi thời đại, đã được sử sách ghi lại từ rất sớm từ thời
phong kiến ở Việt Nam. Tham nhũng luôn là một vấn đề tiêu cực, gây thiệt hại lớn
cho xã hội và nền kinh tế, đe dọa sự tồn vong của đất nước, chế độ. Nhận thấy được
vấn đề, chống tham nhũng đã được đặt ra từ rất sớm và được thay đổi qua từng thời
kỳ lịch sử cũng như phát triển của kinh tế, xã hội.
Từ hơn một ngàn năm trước đây, nhà nước phong kiến triều Lý (1009-1225) đã
ban hành nhiều quy định pháp luật khắc khe và cụ thể về việc trừng trị các hành vi
tham ô, hối lộ, ăn trộm công. Trong việc thu thuế, các quan lại thu thuế dân, với
mười phần đóng vào kho triều đình, được thu riêng một phần gọi là “hồnh đầu”.
Và vua Lý Thái Tơng ban chiếu “Những người thu quá số thuế quy định sẽ bị ghép
vào tội ăn trộm. Người dân tố cáo việc đó được miễn dịch 3 năm. Ngồi việc thu
thuế, triều đình nhà Lý cịn có các quy định về chuộc tội bằng tiền, việc quy định
chuộc tội này khiến cho các tầng lớp quý tộc đã giàu lại càng thêm giàu tạo điều
kiện áp bực nhân dân cũng như các quy định này đã tạo mầm mống cho việc phát

triển tham nhũng. Tuy đã có cách biện pháp phịng, chống như việc thu quá số thuế
sẽ ghép vào tội án trộm.
Đến triều Lê sơ, Lê Thánh Tông đã xây dựng và thực thi bộ luật Hồng Đức, bao
quát nhiều luật khác nhau mà ngày nay gọi là Luật hình sự, Luật dân sự, Luật tố
9


tụng, … Trong Điều 138 của bộ luật Hồng Đức có ghi: “Quan lại mà tham nhũng,
nhận hối lộ, làm sai phép nước thì bị phạt: tham ơ từ 1 đến 9 quan tiền bị cách
chức, từ 10 đến 19 quan thì bị đánh trượng rồi đi đày, từ 20 quan trở lên bị xử
chém. Các quan ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan bị phạt 50 quan, từ 10 đến 19 quan thì bị
phạt từ 60 đến 100 quan, từ 20 quan trở lên bị phạt làm phu. Của hối lộ một phần
trả lại chủ, một phần sung vào kho” đây là một trong 26 điều (trong tổng số 722
điều của bộ luật) quy định cụ thể và chặt chẽ về vấn đề phòng, chống tham nhũng.
Dưới triều Lê, đã cải thiện được những vấn đề thời nhà Lý việc chống tham nhũng
được coi trọng, mặt khác, việc chiêu mộ, sử dụng nhân tài, trong sạch được đề cao.
Khi quan lại đã tham ơ, thì việc định tội không phân biệt giàu nghèo, chức to hay
chức nhỏ. Tuy ngôn từ cũ nhưng bộ luật đã để lại giá trị cho ngày này vì tính rõ
ràng, nghiêm minh.
Đến triều Nguyễn, đã đạt được những thành tựu khá quan trọng về xây dựng bộ
máy và tăng cường kỷ cương phép nước. Đặc biệt, xây dựng lên bộ luật Gia Long,
tuy ban hành bộ luật Gia Long nhưng vẫn sử dụng những quy định, nguyên tắc
trừng phạt của Hồng Đức. Luật Gia Long có 17 quyển quy định riêng về Luật hình
đối với tội nhận hối lộ và gần 20 điều khoản quy định cụ thể về vấn đề này. Trong
số 400 điều của bộ luật này, có 79 điều quy định về các tội liên quan đến tham
nhũng, và rất nghiêm minh.
Thời đại phong kiến có thể thấy pháp luận đấu tranh phòng, chống tham nhũng
đã được quan tâm và thay đổi liên tục để củng cố và đảm bảo. Tuy nhiên những quy
định này vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân khiến cho các triều đại phong kiến
này chuyển sang triều đại phong kiến khác là do sự mục nát, suy tàn của triều đại

phong kiến cũ. Sự mục nát này thể hiện sự yếu kém trong việc quản lý, điều hành
yếu kém, sự lợi dụng quyền hành của bộ máy chính quyền.
1.4.2 Hành vi về tham nhũng theo pháp luật giai đoạn 1986 đến 2019
Năm 1986, đất nước ta bước vào giai đoạn đổi mới, đã cải cách toàn diện bao
gồm kinh tế và đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập
niên 1980. Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng
Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Về nền kinh tế, đã chuyển đổi từ nền Kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Về chính trị
vẫn giữ ngun mơ hình chính trị cũ nhưng có cải cách trên nhiều phương diện như
tăng cường vai trò của cơ quan lập pháp và công cuộc chống tham nhũng tiếp tục
được Đảng ta thúc đẩy. Đại hội VI nêu rõ: “Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát
triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật kỷ cương không nghiêm. Những
hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ, và nhân viên nhà nước... chưa
bị trừng trị nghiêm khắc”. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, một số yếu kém,
10


khuyết điểm đã bi mắc phải. Trong đó, nạn tham nhũng có chiều hướng gia tăng và
ngày càng phức tạp, nặng nề hơn.
Vào 27/6/1985, bộ luật Hình sự của nước ta ra đời, trên cơ sở của nền Kinh tế
kế hoạch hóa và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. Và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/1986, nhà nước đã ban hành 04 đạo luật để sửa đổi nếu tính
đến khi thơng qua Bộ luật Hình sự của năm 1999. Các tội phạm tham nhũng bao
gồm 07 tội: tội làm quyền khi thi hành công vụ; tội lợi dụng chức vụ, quyền hành
khi thi hành công vụ; tội giả mạo công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy
tài liệu bí mật của cơng tác; tội nhận hối lộ; tội đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ; tội
lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Ngồi ra cịn
có một số văn bản quy định trực tiếp về vấn đề chống tham nhũng như Quyết định
số 240/HĐBT ngày 26/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về đấu tranh chống tham
nhũng; Chỉ thị số 171/TTg ngày 16/12/1990 của Thủ tướng Chính phủ về việc

chống tham nhũng, lãng phí, thất thốt trong xây dựng cơ bản…
Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2005 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/6/2006, là đạo luật đầu tiên do Quốc hội ban hành có hiệu lực pháp luật cao,
được đánh giá là một đạo luật quy định khá toàn diện, đầy đủ, và hiện đang có hiệu
lực thi hành. Tiếp theo đó, ngày 04/8/2007, Quốc hội khóa XII đã ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng.
Nhìn chung, Nhà nước ta đã ban hành, thực thi nhiều văn bản pháp luật tạo cơ
sở pháp lý cho cơng cuộc phịng, chống hành vi tiêu cực trong bộ máy nhà nước
qua các giai đoạn phát triển thời gian này. Tuy nhiên, các văn bản chủ yếu dưới
luật, quy định còn chung chung vàchưa tạo ra những thiết chế, cơ chế cần thiết mà
chỉ chú trọng đến việc xử lý mà chưa có đủ qui định tạo ra cơ chế phòng ngừa tham
nhũng nên vẫn chưa đạt được hiểu quả tối đa.
1.4.3 Hành vi về tham nhũng theo pháp luật giai đoạn 2019 đến hiện nay
Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) 2018 đã được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thơng qua ngày 20/11/2018.
Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2019, gồm 10 chương với 96 điều.
thông qua và sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2019. Sau 10 năm thi hành
Luật PCTN năm 2005, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; phát triển kinh tế - xã hội. Cộng đồng quốc tế
ghi nhận trong khuôn khổ thực thi Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng
mà Việt Nam là thành viên và các diễn đàn quốc tế khác. Công tác PCTN ở Việt
Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn,
đẩy lùi; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
được nâng lên. Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, cơng tác
phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu. Một số vụ việc xử lý còn kéo
11


dài, chưa nghiêm minh; kiểm soát thu nhập, tài sẩn chưa minh bạch còn nhiều hạn
chế; truy lùng số lượng vụ việc cần cải thiện. Từ đó, xây dựng Luật PCTN năm

2018 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập qua 10 năm thi hành Luật PCTN năm
2005.
1.5 Tác hại của tham nhũng:
Những hành vi và cách thức hoạt động của tham nhũng đã thể hiện được những
tác hại của nó đối với đất nước, gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trên
mọi lĩnh vực của xã hội từ chính trị, kinh tế cho đến xã hội. Những tác hại đó có thể
được khái quát qua những điểm sau:
Tham nhũng gây ra sự tổn hại to lớn về nền kinh tế của đất nước, cho sự phát
triển của xã hội. Ở nước ta thời gian qua, tham nhũng đã diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của xã hội, gây những thiệt hại vật chất lên tới hàng trăm, thậm chí là hàng
ngàn tỉ đồng. Đó là những con số rất lớn và đáng lo ngại đối với nhà nước ta. Nó
làm thất thốt khoản tiền lớn trong xây dựng cơ bản do phải chi cho việc đấu thầu,
cấp vốn, thanh tra, kiểm tốn và hồng loạt chi phí khác cũng như từ những kế
hoạch, chính sách, cơng trình mà nhà nước đề ra. Tham nhũng, đặc biệt là hành vi
tham ô, nhận hối lộ đã làm cho một số lượng lớn tài sản công trở thành tài sản tư
của một số cán bộ, công chức, viên chức, biến tài sản, lợi ích của nhà nước, của tập
thể thành tài sản riêng của cá nhân làm thiệt hại, thất thốt lãng phí một lượng lớn
tài sản của nhà nước, của tập thể, của nhân dân. Bên cạnh đó, tham nhũng ở trong
kinh doanh, trong các doanh nghiệp sẽ làm giảm đi khả năng canh tranh của doanh
nghiệp vì nó làm cản trở và gây mất đi cơ hội khi giải quyết công việc, giá thành bị
đội lên, doanh nghiệp sẽ phát triển chững lại và không đạt được hiệu quả cao, ảnh
hưởng đến công ty và cả những người lao động thuộc doanh nghiệp đó, ảnh hưởng
đến cả nền kinh tế của xã hội. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp đó cịn dung túng hay
bao cho che cho những đối tượng tham nhũng thì cịn làm hư hỏng đội ngũ cán sự,
làm ảnh hưởng đến các nhà đầu tư, đến sự thu hút từ nước ngoài, ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế, làm cho chi phú của doanh nghiệp tăng lên ảnh hưởng đến
canh tranh không lành mạnh. Do đó, ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động kinh
doanh của tổ chức, doanh ngiệp. Tham nhũng đã tác động, làm thay đổi, đảo lộn
những chuẩn mực đạo đức của xã hội. làm suy thối các tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống cũng như tác động đến tinh thần, đời sống, làm tha hóa đi một đội ngũ

cán bộ cơng chức nhà nước. Trước những lợi ích bất chính, nhiều cán bộ, công
chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của một người cán bộ ln vì nhân
dân, phục vụ nhân dân mà hướng tới các lợi ích bất hợp pháp, vi phạm pháp luật
làm trái công vụ, trái với đạo đức nghề nghiệp. Do vậy, tham nhũng không chỉ xuất
hiện ở trong lĩnh vực chính trị, kinh tế… mà cịn có xu hướng lam sang các lĩnh
vực y tế, giáo dục… hay ở cả lĩnh vực phúc lợi xã hội, bảo vệ pháp luật. Đặc biệt ,
điều đáng nói ở đây là việc tham nhũng dường như đã trở thàh một quan niệm bình
12


thường của một số cán bộ, công chức, viên chức, không hề kiên quyết lên án hay
phản ánh, tố cáo. Chính vì thế, việc tham nhũng đã ngày càng đi sâu trong môi
trường làm việc, trong các cơ quan, tổ chức và trong xã hội. Đây chính là biểu hiện
của sự suy thoái, xuống cấp một cách trầm trọng. Hơn thế nữa, tham nhũng còn
xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc khi những người thực
hiện các hành vi tham nhũng đó là những cán bộ giáo viên, bác sĩ, những người
hoạt động trong lĩnh vực y tế, giáo dục, … là những người tạo nên giá trị tốt đẹp,
xây dựng nên đời sống, tinh thần cũng như văn hóa của con người. Tham nhũng
cịn gây nên một tác hại vơ cùng nguy hiểm, đó là làm tiềm ẩn những mẫu thuẫn,
xung đột, làn tăng khoảng cách giàu – nghèo và bất công trong xã hội. Do vậy,
đảng và nhà nước ta đang cố gắng, nỗ lực từng bước nhằm xóa bỏ những hành vi
trên, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh hơn.
1.6 Nguyên nhân tham nhũng:
1.6.1 Nguyên nhân khách quan:


Thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hữu hiệu

Trong các chủ thể xã hội, nhà nước là chủ thể nắm giữ quyền lực to lớn nhất
với phạm vi quản lý rộng khắp các lĩnh vực. Điều này đồng thời tạo ra nguy cơ từ

việc nhà nước có thể vượt quá các giới hạn mà nhân dân đặt ra cho nó, từ đó lạm
dụng quyền lực một cách bất chính.
Bộ máy nhà nước hiện nay còn thể hiện những khiếm khuyết nghiêm trọng mà
một trong số đó là thiếu vắng sự cân bằng quyền lực cần thiết. quản lý, thanh tra,
kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính “hình thức”
như cảnh cáo, phê bình hoặc chủ trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vơ sự” vì
người vi phạm thường là cán bộ có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe
đủ mạng. Sự thiếu vắng này tất yếu tạo ra nguy cơ hủ hóa của quyền lực đối với các
chủ thể nắm quyền, trong số đó lại là những hệ lụy nhãn tiền là nạn tham nhũng.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt để, khơng theo
kịp được trình độ phát triển của hoạt động thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước, để xây dựng, phát triển và bình ổn trật tự xã hội
cịn nghiêng về “đức trị”, “nhân trị” mà chưa nghiêng về “pháp trị”. Chính sách
thưởng phạt chưa đủ sức răn đe người phạm tội và khuyến khích người lập cơng, tố
giác tội phạm.


Sự lấn át của bộ máy hành chính

Bộ máy hành chính đang ngày càng trở nên lớn hơn và đồng thời hệ thống tầng
bậc phức tạp trong bộ máy hành chính cũng dẫn đến sự rườm rà về thủ tục, quy
định. Do đó, sẽ trở thành một nhóm lợi ích bất thành văn, hưởng lợi từ sự phức tạp
của thủ tục và hệ thống tầng bậc hành chính. Nhóm lợi ích này chính là lực cản nội
13


tại to lớn nhất của mọi quá trình cải cách hành chính và là thủ phạm chính gây ra
hiện tượng tham nhũng trầm trọng ở các nước đang phát triển.Thêm vào đó, mối
quan hệ giữa chính trị và hành chính cũng là vấn đề đáng chú ý. Các hệ thống pháp
luật, chính sách cịn thiếu đồng bộ, chưa thỏa đáng và nhất quán.



Sự “hỗn loạn” các chuẩn mực và giá trị xã hội

Hiện nay, có những chuẩn mực cũ đã khơng cịn phù hợp để duy trì nhưng vì
nhiều lý do tâm lý - xã hội vẫn tồn tại, song song những chuẩn mực mới đang dần
thành hình. Những chuẩn mực cũ - mới này, trong nhiều trường hợp, lại trái ngược
nhau hồn tồn gây ra khơng ít các hệ lụy cho đời sống xã hội.Thêm nữa nữa là
những triết lý về giáo dục, chưa hình thành được một triết lý giáo dục đủ tầm cỡ,
làm trụ cột lâu dài, xuyên suốt và bền vững trong quá trình phát triển. Việc thiếu
vắng một hệ thống chuẩn mực ổn định khiến vai trò điều chỉnh hành vi của chuẩn
mực bị phủ nhận. Đạo đức xã hội bị lung lay khiến con người chỉ cịn biết hành xử
theo lợi ích cá nhân. Chủ nghĩa vị kỷ lên ngôi, mà biểu hiện chân xác nhất trong
khu vực công là hiện tượng tham nhũng trầm trọng.


Tình trạng thiếu minh bạch thơng tin

Tình trạng bưng bít và thiếu minh bạch thơng tin tạo ra những bất bình đẳng về
quyền được thơng tin của cơng dân. Một số người sẽ có được thơng tin mà số cịn
lại khơng biết và họ sẽ trục lợi từ sự bất bình đẳng này.Tình trạng này khiến hành vi
của cơng chức diễn ra trong bóng tối, tránh được sự kiểm sốt từ các định chế chính
trị trong xã hội. Điều này tạo cơ hội cho công chức trục lợi và tham nhũng. Từ đó,
kết quả của mọi nỗ lực chống tham nhũng của báo chí hoặc cơng dân sẽ bị thất bại
ngay trong giai đoạn đầu tiên bởi sự thiếu vắng nguồn tin. Chẳng những thế, việc
quá nhiều cơ quan có thẩm quyền tùy tiện đóng dấu mật cho văn bản có thể làm vơ
hiệu hóa những hoạt động giám sát của báo chí và nhân dân nói chung và nỗ lực
phịng chống tham nhũng nói riêng.



Hệ thống pháp luật thiếu nhất quán

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc hệ thống pháp luật kém hiệu quả chính là
thiếu sự nhất quán trong tư duy lập pháp. Nói cách khác, triết lý lập pháp ở Việt
Nam vẫn còn đang rất mâu thuẫn trong tư duy của các nhà lập pháp, từ đó tạo ra
những chồng chéo trong hệ thống pháp luật và cũng là mảnh đất màu mỡ để tham
nhũng phát triển.
1.6.2 Ngun nhân chủ quan


Từ lịng tham con người

Việc đam mê lợi ích vơ tình để lịng tham dẫn dắt, che mờ lý trí, điều khiển,
kiểm sốt hành động mà chà đạp lên lợi ích của tập thể, cộng đồng và quần chúng
14


nhân dân thì rõ ràng là khơng thể chấp nhận được. Mọi hành vi tham nhũng dù dưới
hình thức nào chăng nữa đều có thể quy về “lợi ích cá nhân”. Lợi ích nhóm cũng
xuất phát từ lợi ích cá nhân mà ra. Nếu khơng vì lợi ích của bản thân thì chẳng ai
cịn muốn tham nhũng nữa. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất chấp
mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức, pháp
luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng.


Áp lực từ cơng việc, cuộc sống

Một lí do nữa là đên từ những bộn bề cuộc sống, áp lực công việc, môi trường
xung quanh; do giáo dục, do cơ chế và do chính bản thân mà làm cho đạo đức con
người ngày càng bị suy thối, tha hóa. Cơng tác cán bộ nói chung và việc quản lý,

giáo dục cán bộ, đảng viên, cơng chức nói riêng cịn yếu kém. Một số bộ phận
khơng nhỏ các viên chức cịn suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống, thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu
trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”.
Ngồi ra, một số bộ phận cán bộ có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, tư
tưởng chính trị. Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy thối về đạo đức không thể tránh
khỏi của các công chức, viên chức nhà nước, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham
nhũng, nhưng các biện pháp giải quyết chưa thật sự hiệu quả. Những hiện tượng
đút lót, quà cáp để vụ lợi trong các cơ quan công quyền không phải là điều quá xa
lạ và diễn ra ở hầu hết mọi nơi. Điều này này dần dần hình thành hiện tượng tham
nhũng tập thể, vì vậy khi có thanh tra, kiểm tra thì bao che lẫn nhau, dẫn đến việc
khó khăn trong vấn đề phịng, chống tham nhũng.


Tâm lý và trình độ nhận thức kém

Các “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của một bộ phận người dân
còn thấp và yếu kém. Với quan niệm “đầu xuôi đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là
đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải pháp nhanh nhất, tốt nhất để giải quyết vấn đề là
“thủ tục đầu tiên” cũng là nguyên nhân thúc đẩy việc tham nhũng. Hơn thế, một số
còn dùng hối lộ, quà cáp như một hình thức “kết thân”, “đầu tư vào tương lai” để
tạo thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản thân lẫn
người thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vơ tình làm cho
khơng ít cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng này kéo dài sẽ làm
xuất hiện tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, cơng chức để nhận “phong bì” từ dân mới
giải quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ tục tất yếu trong quá trình xử
lý cơng việc. Bởi vậy, một số viên chức khi có quyền lực đã đem địa vị, quyền hành
ra để “mặc cả” và cho rằng “muốn ăn chân giò phải thò chai rượu”. Vơ hình trung
điều này tạo nên một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán bộ công chức
và cả những người muốn dùng tiền để giải quyết cơng việc, dần dần hình thành nên

“văn hóa phong bì”.
15




Những sơ hở, thiếu sót và gian lận

Sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế “xin - cho” còn tồn
tại. Đây là nguyên nhân thường xuyên được đề cập và lặp đi lặp lại nhiều lần trong
các phiên họp của Quốc hội. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ chế kiểm tra,
kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở, giao tài sản
cho nhân viên nhưng khơng có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ, gian lận trong
công tác để chiếm đoạt tài sản,... Các thủ tục, quy định của Nhà nước chưa được
công khai, rõ ràng nên nhân dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo
điều kiện cho cán bộ tham nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản
lý, trong công tác kê khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh
bạch trong các văn bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải
trình của các lãnh đạo cấp cao ở các cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu
cơng khai, minh bạch mặc dù việc báo cáo nghe có vẻ vẫn rất “ổn”, “tốt” trong khi
thực tế đó chỉ là “báo cáo láo”.
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT VỀ THAM NHŨNG VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1 Các quy định pháp luật về phòng chống tham nhũng

Nạn tham nhũng hay hành vi tham nhũng đã tồn tại như một “con sâu đục
khoét” trực tiếp làm lung lay sự tồn tại của đảng và nhà nước ta. Dưới đây là những
điều luật được pháp luật quy định để góp phần giảm bớt cũng như triệt để hành vi
tham nhũng.
2.2 Các quy định pháp luật về công khai, minh bạch

Đối với việc công khai, minh bạch trong luật tham nhũng của Việt Nam được quy
định như sau:


Thứ nhất về ngun tắc cơng khai minh bạch được quy định trong điều 9 của
luật tham nhũng 2018:

Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch thông tin về tổ chức, hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước, bí mật
kinh doanh và nội dung khác theo quy định của pháp luật. Việc công khai, minh bạch
phải bảo đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ, kịp thời theo trình tự, thủ tục do cơ quan, tổ
chức, đơn vị có thẩm quyền quy định và phù hợp với quy định của pháp luật.


Thứ hai, về nội dung cơng khai, minh bạch được quy định trong điều 10 Luật
Tham Nhũng 2018:

1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật
về các nội dung sau đây:

16


a) Việc thực hiện chính sách, pháp luật có nội dung liên quan đến quyền, lợi ích
hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức; người lao động; cán bộ, chiến sĩ
trong lực lượng vũ trang và công dân;
b) Việc bố trí, quản lý, sử dụng tài chính cơng, tài sản cơng hoặc kinh phí huy
động từ các nguồn hợp pháp khác;
c) Công tác tổ chức cán bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy tắc ứng xử của
người có chức vụ, quyền hạn;

d) Việc thực hiện chính sách, pháp luật có nội dung khơng thuộc trường hợp quy
định tại các điểm a, b và c khoản này mà theo quy định của pháp luật phải công
khai, minh bạch.
2. Cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân khác ngồi nội dung cơng khai, minh bạch quy định tại khoản 1
Điều này cịn phải cơng khai, minh bạch về thủ tục hành chính.


Thứ ba, các hình thức cơng khai, minh bạch có thể được thực hiện theo quy
định sau:

1. Hình thức cơng khai bao gồm:
a) Cơng bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị
b) Niêm yết tại trụ sở của cơ quan, tổ chức, đơn vị
c) Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan;
d) Phát hành ấn phẩm;
đ) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
e) Đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử;
g) Tổ chức họp báo;
h) Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.
Thứ tư, các trách nhiệm nghĩa vụ công khai minh bạch đã được quy định tại
điều 12 của bộ luật này: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải tổ chức
thực hiện công khai, minh bạch đối với tổ chức mình. Trường hợp phát hiện có
vi phạm pháp luật về cơng khai, minh bạch thì phải xử lý theo thẩm quyền hoặc
kiến nghị người có thẩm quyền xử lý.”
• Thứ năm, đối với trách nhiệm giải trình của các cơ quan tổ chức khi cơng khai,
minh bạch. Căn cứ vào điều 15 của Luật Tham Nhung 2018 được quy định:


1.Cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có trách nhiệm giải trình về quyết định,

hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao. Người thực
17


hiện trách nhiệm giải trình là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người
được giao, ủy quyền hợp pháp thực hiện trách nhiệm giải trình.
2. Trường hợp báo chí đăng thơng tin về hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu trả
lời câu hỏi liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao thì cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải giải trình và cơng khai việc giải trình
trên báo chí.
3. Việc giải trình khi có u cầu của cơ quan có thẩm quyền giám sát hoặc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền khác được thực hiện theo quy định
của pháp luật có liên quan.
4. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này.


Thứ sáu, việc cơng khai báo cáo về cơng tác phịng chống tham nhũng được thể
hiện như sau thơng qua điều 16 của bộ luật tham nhũng 2018:

1.Hằng năm, Chính phủ có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về cơng tác phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; Ủy ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về cơng tác phịng, chống tham nhũng
ở địa phương.
2. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước
có trách nhiệm phối hợp với Chính phủ trong việc xây dựng báo cáo về cơng tác
phịng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước
3. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban
nhân dân cùng cấp trong việc xây dựng báo cáo về công tác phịng, chống tham
nhũng ở địa phương.

4. Báo cáo về cơng tác phòng, chống tham nhũng bao gồm các nội dung sau đây:
a) Đánh giá tình hình tham nhũng;
b) Kết quả thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng,
thu hồi tài sản tham nhũng và các nội dung khác trong công tác quản lý nhà
nước về phịng, chống tham nhũng;
c) Đánh giá về cơng tác phịng, chống tham nhũng và phương hướng, giải pháp,
kiến nghị.
5. Báo cáo về cơng tác phịng, chống tham nhũng phải được công khai trên
cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước hoặc
phương tiện thông tin đại chúng.

18

Một số nội dung khác về việc cơng khai, minh bạch được quy định trong điều
13,14,15 và 17 của bộ luật này.


2.3 Các quy định pháp luật về phát hiện và xử lý tham nhũng

+ Trước hết, đối với việc phát hiện tham nhũng, pháp luật Việt Nam đã quy
định trong bộ Luật Tham Nhũng 2018.


Đầu tiên, việc phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát của cơ quan dân
cử, đại biểu dân cử và xử lý đề nghị của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử được quy
định trong điều 59 bộ luật tham nhũng 2018 như sau:
1. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc
hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu
Hội đồng nhân dân, … thông qua hoạt động giám sát nếu phát hiện vụ việc có
dấu hiệu tham nhũng thì đề nghị Cơ quan thanh tra, Kiểm tốn nhà nước, Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Khi nhận được đề nghị quy định tại khoản 1 Điều này, Cơ quan thanh tra,
điều tra, viện kiểm sát nhân dân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
phải xác minh, xử lý và thông báo kết quả cho cơ quan, đại biểu đã đề nghị.
3. Khi nhận được đề nghị quy định tại khoản 1 Điều này, kiểm toán nhà nước
thực hiện kiểm toán hoặc xem xét, quyết định việc kiểm toán theo quy định của
Luật Kiểm toán nhà nước và thông báo kết quả cho cơ quan, đại biểu đã đề
nghị.



Thứ hai, phát hiện tham nhũng phải thơng qua việc kiểm toán được quy định qua
điều 60 của bộ luật này:” Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước thơng qua hoạt
động thanh tra, kiểm tốn có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng,
xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.Trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh, Kiểm toán
nhà nước ra quyết định thanh tra, kiểm tốn vụ việc có dấu hiệu tham nhũng khi có
căn cứ theo quy định của Luật Thanh tra, Luật Kiểm tốn nhà nước.”
• Thứ ba, thẩm quyền của Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước trong thanh
tra, kiểm tốn vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được thể hiện qua điều 61 của
bộ Luật Tham Nhũng
1. Cơ quan thanh tra, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thanh tra vụ
việc có dấu hiệu tham nhũng theo thẩm quyền như sau:
a) Thanh tra Chính phủ thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do người giữ
chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp cơng
lập, cơ quan, tổ chức do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, doanh
19



nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan ở trung ương thực
hiện; người công tác tại Thanh tra Chính phủ thực hiện;
b) Thanh tra Bộ thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do người cơng tác tại
cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ
thực hiện, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này;
c) Thanh tra tỉnh thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do người công tác
tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý
của chính quyền địa phương thực hiện, trừ trường hợp quy định tại điểm a
khoản này.
2. Các đơn vị trực thuộc Kiểm tốn nhà nước kiểm tốn vụ việc có dấu hiệu tham
nhũng tại các cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng tài chính cơng, tài sản cơng
theo phân cơng của Tổng Kiểm tốn nhà nước.
3. Trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra, kiểm tốn vụ việc có dấu hiệu tham nhũng
được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra, pháp luật về kiểm toán
nhà nước.
4. Tổng Thanh tra Chính phủ, Tổng Kiểm tốn nhà nước có trách nhiệm phối hợp
xử lý trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm tốn vụ việc có dấu hiệu tham
nhũng.
Thứ tư, trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện vụ việc nào mà có dấu hiệu
tham nhũng thì người ra quyết định thanh tra phải chỉ đạo xác minh, làm rõ vụ
việc tham nhũng và xử lý theo điều 62 của bộ luật này.
• Thứ năm, trong quá trình bên phía cơng khai kết luận thanh tra, Báo cáo kiểm
tốn vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thì được xử lý như sau:


Căn cứ vào điều 63 của bộ luật Tham Nhũng đã quy định:
1. Người ra quyết định thanh tra, người ra quyết định kiểm tốn có trách nhiệm
công khai Kết luận thanh tra, Báo cáo kiểm tốn vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
2. Việc cơng khai Kết luận thanh tra, Báo cáo kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham

nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra, pháp luật về kiểm
toán nhà nước.
+ Khi các cơ quan, tổ chức bị phát hiện tham nhũng thông qua các căn cứ
pháp lý trong các điều khoản của bộ Luật Tham Nhũng 2018 thì các tổ chức ấy
sẽ bị xử lí các hành vi tham nhũng này thông các các điều khoản dưới đây của bộ
luật này.
Căn cứ vào điều 92 về xử lí các hành vi tham nhũng như sau: “Người có hành vi
tham nhũng giữ bất kì chức vụ, vị trí công tác nào đều phải bị xử lý nghiêm minh theo
quy định của pháp luật, kể cả người đã nghỉ hưu, thơi việc, chuyển cơng tác. Người có
20


hành vi tham nhũng quy định tại điều 2 của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm, phải bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật. Trường hợp người có hành vi tham nhũng là
người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem
xét tăng hình thức kỷ luật. Người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước
khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt
hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì
được xem xét giảm hình thức kỷ luật, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Người bị kết án về tội
phạm tham nhũng là cán bộ, công chức, viên chức mà bản án, quyết định của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên bị buộc thơi việc đối với đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân.”
Các trường hợp xử lí tham nhũng về tài sản được pháp luật Việt Nam căn cứ vào
điều 93 bộ luật tham nhũng 2018 như sau: Tài sản tham nhũng cần phải “thu hồi, trả
lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc tịch thu theo quy định của pháp
luật”. Các thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra cần được “khắc phục; người có
hành vi tham nhũng gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ THAM NHŨNG VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Thực trạng về tham nhũng Việt Nam hiện nay
Cho đến hiện nay, năm 2021, Việt Nam ta đã có được sự phát triển nhất
định về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, … mà chúng ta đã tích lũy và
xây dựng trong một khoảng thời gian dài đấu tranh, sửa đổi, hoàn thiện về mọi mặt.
Cùng với sự phát triển đó, điều khơng thể tránh khỏi trong mọi vấn đề và lĩnh vực
được ví như “2 mặt của đồng xu”, chúng ta có sự tiến liên, nhưng đồng thời chúng
ta cũng phải thừa nhận rằng mình đang phải đối diện với những tiêu cực và thực
trạng cần phải sửa đổi vì tính khẩn cấp và thiết yếu của nó. Và với bộ máy nhà
nước Việt Nam như hiện nay hay bất kì bộ máy nhà nước nào khác, sai phạm là
điều không thể tránh khỏi. Tham Nhũng tại nước ta đã và đang tồn tại ở đâu đó
trong bộ máy nhà nước Việt Nam.
-

Thực tế, tham nhũng cùng với thiệt hại lớn về tài sản của Nhà Nước làm

suy đồi đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xâm hại trực tiếp tới lịng tin
của nhân dân và sự uy tín của đảng và nhà nước ta.
-

Sau đây, là những hành vi tham nhũng tại một số lĩnh vực cụ thể để cho bạn đọc có
thể hình dung rõ ràng hơn về thực trạng tham nhũng tại nước ta:
21


+

Tham nhũng trong hoạt động tư pháp và thanh tra kiểm tra: Báo cáo công tác năm
2021 của Viện trưởng VKSND tối cao gửi Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 hồi tháng 10
vừa qua cho biết, cơ quan điều tra VKSND Tối cao đã thụ lý điều tra 46 vụ/61 bị

can, trong đó có 24 vụ/30 bị can về tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp
(chiếm hơn 52%); đã xử lý, giải quyết 33 vụ/40 bị can, đạt tỷ lệ gần 72%.

+

Tham nhũng trong quản lý và q trình cổ phần hóa doanh nghiệp: Lũy kế giai
đoạn 2016 đến tháng 6/2021, đã có 183 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê
duyệt phương án cổ phần hóa. Tuy nhiên, trong 183 doanh nghiệp đã cổ phần hóa
chỉ có 39 doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc danh mục 128 doanh nghiệp được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạt 30% kế hoạch cổ phần hóa. Số doanh nghiệp
phải thực hiện cổ phần hóa theo kế hoạch những tháng còn lại năm 2021 là 89
doanh nghiệp.

+

Tham nhũng trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và các tổ chức tín dụng: ví dụ như
việc tổ chức giám định cho vay của Ngân hàng TMCP bưu điện Liên Việt liên quan
đến vụ án cán bộ giao dịch viên Bưu điện huyện Cao Phong có hành vi xâm tiêu
tiền thu nợ, vay ké vốn với khách hàng, lập khống hồ sơ để vay tiền Ngân hàng
TMCP bưu điện Liên Việt (2016-2021).

+

Tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai: Tính đến T7/2021, hơn 30 tướng lĩnh
công an, quân đội, hàng chục quan chức, lãnh đạo các địa phương như: TP.HCM,
Đà Nẵng, Phú n, Khánh Hịa…và mới đây là tỉnh Bình Dương bị kỷ luật, hoặc
trở thành bị can, bị cáo do sai phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực quản lý đất đai.

+


Tham nhũng trong việc thực hiện chủ trương, các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội: Như việc trì trệ các cơng trình cơng cộng, hay tham nhũng vốn đầu tư vào cơng
trình cơng cộng.

+

Tham nhũng trong lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo: Trong bối cảnh dịch bệnh diễn
biến phức tạp đáng chú ý là vụ án tham nhũng vật tư y tế tại Trung tâm Kiểm soát
bệnh tật thành phố Hà Nội (CDC Hà Nội). Với thủ đoạn thông đồng, "thổi giá," hệ
thống xét nghiệm tự động Realtime PCR đã bị đội giá gấp nhiều lần. Những cán bộ
vốn mang trọng trách trong công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân, đã trở thành
những đối tượng phạm tội, vi phạm pháp luật.

+

Tham nhũng trong công tác tổ chức cán bộ: Sự thiếu trong sạch vẫn cịn tồn tại
trong một bộ phận viên chức, cơng chức, đảng viên nhằm trục lợi bất chính. Nếu
như tham nhũng trong các lĩnh vực khác thường là những hành vi vụ lợi vật chất,
tiền bạc, được luật pháp quy định rõ thành những hành vi cấu thành tội phạm, thì
tham nhũng trong công tác cán bộ nhiều khi thuộc loại “tham nhũng quyền lực”,
“tham nhũng quan hệ”, vụ lợi tinh thần, rất khó kết luận là tham nhũng, lại càng
khó khởi tố, xét xử, như những chuyện “cả họ làm quan”, “cả nhà làm quan”, “nâng
đỡ không trong sáng”...
22


3.2 Thực trạng về phòng chống tham nhũng Việt Nam hiện nay
-

-


-

Năm 2020, các bộ, ngành, địa phương đã tăng cường thực hiện các quy định về
công khai, minh bạch trong hoạt động về tài chính - ngân sách, tổ chức cán bộ, quy
hoạch, xây dựng, chính sách xã hội, đất đai, thanh tra… bảo đảm kịp thời, chính
xác, rõ ràng, đầy đủ; hình thức cơng khai theo đúng quy định. Kịp thời chủ động
công bố thông tin, cung cấp thơng tin cho báo chí những vụ việc dư luận xã hội
quan tâm. Kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm tốn, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
PCTN được cơng bố, công khai theo đúng quy định của pháp luật. Các bộ, ngành,
địa phương cũng tăng cường kiểm tra việc thực hiện công khai, minh bạch; đã kiểm
tra tại 6.800 cơ quan, tổ chức, đơn vị về công khai, minh bạch; phát hiện 91 đơn vị
vi phạm (tăng 43,9 % so với năm 2019).
Cũng trong năm 2020, việc xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn
được thực hiện nghiêm túc theo quy định. Các bộ, ngành, địa phương đã ban hành
5.201 văn bản; hủy bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung 1.415 văn bản về chế độ, định mức,
tiêu chuẩn. Tiến hành 3.941 cuộc kiểm tra việc thực hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn, phát hiện 394 vụ việc và 521 người vi phạm (tăng 38,5% số vụ và 80,1% số
người so với năm 2019). Đã xử lý kỷ luật 65 người, xử lý hình sự 64 người; kiến
nghị thu hồi và bồi thường trên 44,2 tỷ đồng, đã được thu hồi và bồi thường trên 24
tỷ đồng.
Những kết quả nêu trên thể hiện quyết tâm chính trị cùng với những hành động
quyết liệt, thực hiện những giải pháp hiệu quả của Đảng và Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị từ Trung ương tới địa phương trong công tác PCTN. Cụ thể, Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập với mong muốn
đẩy mạnh cơng tác phịng, chống tham nhũng thêm một bước. Trong nhiệm kỳ Đại
hội ĐBTQ lần thứ XI, có 56.572 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 16.259 cấp
ủy viên các cấp. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức
đảng và 33 đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có
khuyết điểm, vi phạm, trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách

3 tổ chức đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên . Ủy ban kiểm tra các địa phương,
đơn vị đã kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó số tổ chức
đảng có vi phạm là 10.478, phải thi hành kỷ luật 791 tổ chức đảng; số đảng viên có
vi phạm là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ luật 20.344 trường hợp. Từ đầu nhiệm
kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đến cuối năm 2018, Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45 nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết
luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng; Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua, ban hành 45 luật, pháp lệnh, 46
nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 511 nghị định, 413 nghị quyết, 160 quyết định
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội, góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng
23


viên với hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16 Ủy viên
Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, trong đó có cả Ủy viên Bộ
Chính trị.
-

Có thể khẳng định rằng, cơng tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được nâng lên. Có thể khái qt
một số đặc điểm của cơng tác PCTN ở Việt Nam như sau:
+ Khơng có vùng cấm, khơng có đặc quyền, khơng có ngoại lệ, khơng chịu sự
tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào;
+ Làm từng bước, rõ đến đâu xử lý đến đó;
+ Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc;
+ Nhân văn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội;
+ Lấy phịng ngừa là chính, cơ bản; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách.


-

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác PCTN ở Việt Nam vẫn cịn một số hạn chế
như: cơng tác tun truyền, giáo dục về PCTN hiệu quả chưa cao, hiện tượng phải
hối lộ, bơi trơn hoặc tác động bằng hình thức khác để được thuận lợi hơn trong giải
quyết công việc cịn phổ biến; một số cơ chế, chính sách cịn thiếu chặt chẽ, chưa
phù hợp với thực tiễn; thực thi pháp luật có lúc, có nơi chưa nghiêm. Cơng tác tổ
chức, cán bộ, kiểm sốt tài sản, thu nhập cịn nhiều hạn chế, vướng mắc; vấn đề
phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tự phát hiện, xử lý tham
nhũng trong nội bộ...
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ PHỊNG CHỐNG THAM NHŨNG
4.1 Hồn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về phịng, chống tham nhũng
Các chính sách và các quy định liên quan đến phòng chống tham nhũng của
nước ta hiện nay đã khắc phục được nhiều hạn chế. Tham nhũng từng bước được
kiềm chế, ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm. Tuy nhiên, vẫn cần hoàn
thiện ở những vấn đề sau:
- Thứ nhất, sửa đổi và bổ sung một số quy định về hình phạt đối với các tội
phạm tham những, nâng cao mức hình phạt.
- Thứ hai, cần hình sự hố hành vi tham nhũng.
- Thứ ba, ngành thanh tra đóng vai trị quan trọng trong cơng tác phịng chống
tham nhũng, vậy nên cần nâng cao, có những quy định rõ ràng cụ thể về nhiệm vụ
quản lí và tổ chức của các cơ quan thanh tra. Bên cạnh đó, nâng cao mức hình phạt
vi phạm trong cơng tác quản lí thanh tra. Khi vi phạm trong công tác thanh tra, cần
24


áp dụng mức hình phạt khơng chỉ đối với người vi phạm mà còn với người đứng
đầu cơ quan thanh tra, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
- Thứ tư, cần mở rộng chủ thể đối với loại tội phạm tham nhũng đối với khu

vực tư.
- Thứ năm, thực hiện hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về tham
nhũng. Đơn giản quy trình thực hiện khiếu nại tố cáo và quy trình từ tiếp nhận đơn
khiếu nại tố cáo đến cơng tác điều tra.
- Thứ sáu, có những quy định rõ ràng hơn quản lý, sử dụng tài sản cơng, tài
chính cơng.
4.2 Nâng cao trách nhiệm và đạo đức thực thi công vụ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong cơng tác phịng, chống tham nhũng
- Tăng cường năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho các Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Phải tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với
các ngành Công an, VKS và các cơ quan chức năng khác để khẩn trương phát hiện,
điều tra, kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các tội phạm về
tham nhũng; cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu,
người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn
tài sản của Nhà nước. Việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo chỉ áp dụng đối với
những bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng đặc biệt, đúng với
quy định của pháp luật và hướng dẫn của liên ngành tư pháp trung ương và
TANDTC. Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số
01/2013/NQ-HĐTP ngày 6/11/2013, hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo,
theo hướng quy định chặt chẽ, cụ thể hơn các điều kiện cho hưởng án treo, đặc biệt
là đối với các bị cáo phạm tội về tham nhũng, chức vụ.
- Chú trọng vào thực tiễn. Cần có những đánh giá khách quan tồn diện về thực
trạng tham nhũng. Qua đó, kịp thời phát hiện được những hành vi, thủ đoạn tham
nhũng mới và xu hướng phát triển của những hành vi đó trong tương lai. Bên cạnh
đó, chú trọng, quan sát thực tiễn để kịp thời khắc phục sơ hở, hạn chế bất cập trong
cơ chế, chính sách pháp luật trong q trình thực thi.
- Đảm bảo tốt hơn tính cơng khai, minh bạch và dân chủ trong hoạt động thi
hành công vụ, cũng như mở rộng quyền và khả năng tiếp cận thông tin, giám sát
của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước và
các tổ chức Đảng. Hoàn thiện hơn nữa các quy định của Luật Báo chí, để phát huy

tối đa vai trị to lớn của các cơ quan báo chí trong việc giám sát, phản biện xã hội,
đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, cũng như tuyên truyền, phổ biến, đưa các
25


×