Lời giới thiệu
Cuốn sách này nói về gì
1: Giới thiệu
Lịch sử của Perl
Mục đích của Perl
Những điều có sẵn
Hỗ trợ
Các khái niệm cơ bản
Dạo qua Perl
Bài tập
2:Dữ liệu vô hớng
Dữ liệu vô hớng là gì?
Số
Xâu
Toán tử
Biến vô hớng
Toán tử trên biến vô hớng
<STDIN> nh giá trị vô hớng
Đa ra với print()
Giá trị undef
Bài tập
3: Dữ liệu mảng và danh sách
Mảng là gì?
Biểu diễn hằng kí hiệu
Biến
Toán tử
Vô hớng và ngữ cảnh mảng
<STDIN> nh một mảng
Nội suy biến thiên của mảng
Bài tập
4: Cấu trúc điều khiển
Khối câu lệnh
Câu lệnh if/unless
Câu lệnh while/until
Câu lệnh for
Câu lệnh foreach
Bài tập
5: Mảng kết hợp
Mảng kết hợp là gì?
Biến mảng kết hợp
Biểu diễn hằng kí hiệu cho mảng kết hợp
Toán tử mảng kết hợp
Bài tập
6: Vào/ra cơ sở
Đa vào từ STDIN
Đa vào từ toán tử hình thoi
Đa ra STDOUT
Bài tập
7: Biểu thức chính qui
Khái niệm về biểu thức chính qui
Cách dùng đơn giản về biểu thức chính qui
Mẫu
Nói thêm về toán tử đối sánh
Phép thế
Các toán tử split(0 và join()
Bài tập
8: Hàm
Các hàm hệ thống và ngời dùng
Định nghĩa hàm ngời dùng
Gọi hàm ngời dùng
Cho lại giá trị
Đối
Biến cục bộ trong hàm
Bài tập
9: Các cấu trúc điều khiển
Toán tử last
Toán tử next
Toán tử redo
Khối có nhãn
Bộ sửa đổi biểu thức
&&, || và ?: xem nh các cấu trúc điều khiển
Bài tập
10: Giải quyết tệp và kiểm thử tệp
Tớc hiệu tệp là gì?
Mở và đóng một tớc hiệu tệp
Một chút tiêu khiển: die()
Dùng tớc hiệu tệp
Kiểm tra tệp -x
Toán tử stat() và lstat()
Dùng _Filehandle
Bài tập
11: Định dạng
Định dạng là gì?
Xác định một định dạng
Gọi một định dạng
Nói thêm về Fieldholder
Định dạng đỉnh trang
Đổi giá trị mặc định cho định dạng
Bài tập
12: Thâm nhập danh mục
Đi vòng quanh cây danh mục
Globbing
Giải quyết danh mục
Mở và đóng bộ giải quyết danh mục
Đọc bộ giải quyết danh mục
Bài tập
13: Thao tác tệp và danh mục
Loại bỏ tệp
Đổi tên tệp
Tạo ra tên thay phiên cho một tệp (liên kết)
Tạo ra và xoá danh mục
Sửa đổi phép dùng
Sửa đổi quyền dùng
Sửa đổi thời hạn
Bài tập
14: Quản lí tiến trình
Dùng system() và exec()
Dùng Backquotes
Dùng Proceses và Filehandles
Dùng folk
Tóm tắt về các phép toán tiến trình
Gửi và nhận tín hiệu
Bài tập
15: Biến đổi dữ liệu khác
Tìm xâu con
Trích và thay thế xâu con
Định dạng dữ liệu bằng sprintf()
Sắp xếp cao cấp
Chuyển tự
Bài tập
16: Thâm nhập cơ sở dữ liệu hệ thống
Lấy mật hiệu và thông tin nhóm
Đóng và mở gói dữ liệu nhị phân
Lấy thông tin mạng
Lấy thông tin khác
Bài tập
17: Thao tác cơ sở dữ liệu ngời dùng
Cơ sở dữ liệu DBM và mảng DBM
Mở và đóng mảng DBM
Dùng mảng DBM
Cơ sở dữ liệu thâm nhập ngẫu nhiên chiều dài cố định
Cơ sở dữ liệu chiều dài biến thiên (văn bản)
Bài tập
18: Chuyển các ngôn ngữ khác sang Perl
Chuyển Chơng trình awk sang Perl
Chuyển Chơng trình sed sang Perl
Bài tập
A: Trả lời bài tập
B: Cơ sở về nối mạng
Mô hình chỗ cắm
Khách mẫu
Bộ phục vụ mẫu
C: Những chủ đề cha đề cập tới
Bộ gỡ lỗi
Dòng lệnh
Các toán tử khác
Nhiều, nhiều hàm nữa
Nhiều, nhiều biến đặt sẵn nữa
Xâu ở đây
return (từ chơng trình con)
Toán tử eval (và s///e)
Thao tác bảng kí hiệu với *FRED
Toán tử goto
Toán tử require
Th viện
Perl bản 5.0 Goodies
Chỉ mục
1
Giới thiệu
Lịch sử Perl
Perl là cách viết tắt cho Practical Extraction and Report Language Ngôn ngữ
báo cáo và trích rút thực hành, mặc dầu nó cũng còn đợc gọi là Pathologically
Eclectic Rubbish Lister - Bộ làm danh sách chiết trung bậy bạ và bệnh hoạn.
Chẳng ích gì mà biện minh xem cách gọi nào đúng hơn, vì cả hai đều đợc Larry
Wall, ngời sáng tạo và kiến trúc s chính, ngời cài đặt và bảo trì của Perl chấp nhận.
Ông ấy đã tạo ra Perl khi cố gắng sản xuất ra một số báo cáo từ một cấp bậc các
tệp kiểu nh th ngời dùng mạng Usenet về hệ thống báo lỗi, và lệnh awk làm xì hết
hơi. Larry, một ngời lập trình lời biếng, quyết định thanh toán vấn đề này bằng
một công cụ vạn năng mà anh có thể dùng ít nhất cũng ở một nơi khác. Kết quả là
bản đầu tiên của Perl.
Say khi chơi với bản đầu này của Perl một chút, thêm chất liệu đây đó, Larry
đa nó cho cộng đồng độc giả Usenet, thờng vẫn đợc gọi là the Net. Ngời dùng
thuộc toán phù du nghèo khó về hệ thống trên toàn thế giới (quãng độ chục nghìn
ngời) đa lại cho anh phản hồi, hỏi cách làm thế này thế kia, việc này việc khác,
nhiều điểm mà Larry cha bao giờ mờng tợng ra về việc giải quyết cho Perl nhỏ bé
của mình cả.
Nhng kết quả là Perl trởng thành, trởng thành và trởng thành thêm nữa, và
cũng cùng tỉ lệ nh lõi của UNIX. (với bạn là ngời mới, toàn bộ lõi UNIX đợc dùng
chỉ khít vào trong 32K! Và bây giờ chúng ta may mắn nếu ta có thể có đợc nó dới
một vài mega.) Nó đã trởng thành trong các tính năng. Nó đã trởng thành trong
tính khả chuyển. Điều mà có thời là một ngôn ngữ tí tẹo bây giờ đã có tài liệu sử
dụng 80 trang, một cuốn sách của Nutshell 400 trang, một nhóm tin Usenet với 40
nghìn thuê bao, và bây giờ là đoạn giới thiệu nhẹ nhàng này.
Larry vẫn là ngời bảo trì duy nhất, làm việc trên Perl ngoài giờ khi kết thúc
công việc thờng ngày của mình. Và Perl thì vẫn phát triển.
Một cách đại thể thì lúc mà cuốn sách này đạt tới điểm dừng của nó, Larry sẽ
đa ra bản Perl mới nhất, bản 5.0, hứa hẹn có một số tính năng thờng hay đợc yêu
cầu, và đợc thiết kế lại từ bên trong trở ra. (Larry bảo tôi rằng không còn mấy
dòng lệnh từ lần đa ra trớc, và số ấy cứ ngày càng ít đi mỗi ngày.) Tuy nhiên, cuốn
sách này đã đợc thử với Perl bản 4.0 (lần đa ra gần đây nhất khi tôi viết điều này).
Mọi thứ ở đây đều sẽ làm việc với bản 5.0 và các bản sau của Perl. Trong thực tế,
chơng trình Perl 1.0 vẫn làm việc tốt với những bản gần đây, ngoại trừ một vài
Trong chơng này:
Lịch sử Perl
Mục đích của Perl
Có sẵn
Hỗ trợ
Các khái niệm cơ bản
Dạo qua về Perl
thay đổi lạ cần cho sự tiến bộ.
Mục đích của Perl
Perl đợc thiết kế để trợ giúp cho ngời dùng UNIX với những nhiệm vụ thông
dụng mà có thể rất nặng nề hay quá nhậy cảm với tính khả chuyển đối với trình
vỏ, và cũng quá kì lạ hay ngắn ngủi hay phức tạp để lập trình trong C hay một
ngôn ngữ công cụ UNIX nào khác.
Một khi bạn trở nên quen thuộc với Perl, bạn có thể thấy mình mất ít thời gian
để lấy đợc trích dẫn trình vỏ (hay khai báo C) đúng, và nhiều thời gian hơn để đọc
tin trên Usenet và đi trợt tuyết trên đồi; vì Perl là một công cụ lớn tựa nh chiếc đòn
bẩy. Các cấu trúc chặt chẽ của Perl cho phép bạn tạo ra (với tối thiểu sự om sòm
nhặng sị) một số giải pháp có u thế rất trần lặng hay những công cụ tổng quát.
Cũng vậy, bạn có thể lôi những công cụ này sang công việc tiếp, vì Perl là khả
chuyển cao độ và lại có sẵn, cho nên bạn sẽ có nhiều thời gian hơn để đọc tin
Usenet và trợt tuyết.
Giống nh mọi ngôn ngữ, Perl có thể chỉ viết - tức là có thể viết ra chơng
trình mà không thể nào đọc đợc. Nhng với sự chú ý đúng đắn, bạn có thể tránh đợc
sự kết tội thông thờng này. Quả thế, đôi khi Perl trông nh nổi tiếng với những cái
không quen thuộc, nhng với ngời lập trình đã thạo Perl, nó tựa nh những dòng có
tổng kiểm tra với một sứ mệnh trong cuộc đời. Nếu bạn tuân theo những hớng dẫn
của cuốn sách này thì chơng trình của bạn sẽ dễ đọc và dễ bảo trì, và chúng có lẽ
sẽ không thắng trong bất kì cuộc tranh luận Perl khó hiểu nào.
Tính sẵn có
Nếu bạn nhận đợc
Perl: not found
khi bạn thử gọi Perl từ lớp vỏ thì ngời quản trị hệ thống của bạn cũng chẳng lên
cơn sốt. Nhng thậm chí nếu nó không có trên hệ thống của bạn, thì bạn vẫn có thể
lấy đợc nó không mất tiền (theo nghĩa ăn tra không mất tiền).
Perl đợc phân phối theo phép công cộng GNU, nghĩa là thế này, bạn có thể
phân phát chơng trình nhị phân Perl chỉ nếu bạn làm ra chơng trình gốc có sẵn cho
mọi ngời dùng không phải trả tiền gì cả, và nếu bạn sửa đổi Perl, bạn phải phân
phát chơng trình gốc của bạn cho nơi sửa đổi của bạn nữa. Và đó là bản chất của
cho không. Bạn có thể lấy chơng trình gốc của Perl với giá của một băng trắng hay
vài mêga byte qua đờng dây. Và không ai có thể khoá Perl và bán cho bạn chỉ mã
nhị phân với ý tởng đặc biệt về cấu hình phần cứng đợc hỗ trợ.
Trong thực tế, nó không chỉ là cho không, nhng nó chạy còn gọn hơn trên gần
nh mọi thứ mà có thể gọi là UNIX hay tựa UNIX và có trình biên dịch C. Đấy là vì
bộ trình này tới với bản viết cấu hình bí quyết đợc gọi là Cấu hình, cái sẽ móc và
chọc vào các danh mục hệ thống để tìm những thứ nó cần, và điều chỉnh việc đa
vào các tệp và các kí hiệu đợc xác định tơng ứng, chuyển cho bạn việc kiểm
chứng phát hiện của nó.
Bên cạnh các hệ thống UNIX hay tựa UNIX, ngời đã bị nghiện Perl đem nó
sang Amiga, Atari ST, họ Macintosh, VMS, OS/2, thậm chí MS/DOS - và có lẽ
còn nhiều hơn nữa vào lúc bạn đọc cuốn sách này. Vị trí chính xác và sự có sẵn
của những bản Perl này thì biến động, cho nên bạn phải hỏi quanh (trên nhóm tin
Usenet chẳng hạn) để có đợc thông tin mới nhất. Nếu bạn hoàn toàn không biết gì,
thì một bản cũ của Perl đã có trên đĩa phần mềm CD-ROM UNIX Power Tools,
của Jerry Peek, Tim OReilly và Mike Loukides (OReilly & Associates/ Random
House Co., 1993).
Hỗ trợ
Perl là con đẻ của Larry Wall, và vẫn đang đợc anh ấy nâng niu. Báo cáo lỗi và
yêu cầu nâng cao nói chung đều đợc sửa chữa trong các lần đa ra sau, nhng anh ấy
cũng chẳng có nghĩa vụ nào để làm bất kì cái gì với chúng cả. Tuy thế Larry thực
sự thích thú nghe từ tất cả chúng ta, và cũng làm việc thực sự để thấy Perl đợc
dùng trên qui mô thế giới. E-mail trực tiếp cho anh ấy nói chung đều nhận đợc trả
lời (cho dù đấy chỉ đơn thuần là máy trả lời email của anh ấy), và đôi khi là sự đáp
ứng con ngời.
ích lợi hơn việc viết th trực tiếp cho Larry là nhóm hỗ trợ Perl trực tuyến toàn
thế giới, liên lạc thông qua nhóm tin Usenet comp.lang.perl. Nếu bạn có thể gửi
email trên Internet, nhng cha vào Usenet, thì bạn có thể tham gia nhóm này bằng
cách gửi một yêu cầu tới , yêu cầu sẽ tới một ngời
có thể nối bạn với cửa khẩu email hai chiều trong nhóm, và cho bạn những hứong
dẫn về cách làm việc.
Khi bạn tham gia một nhóm tin, bạn sẽ thấy đại loại có khoảng 30 đến 60 th
mỗi ngày (vào lúc bản viết này đợc soạn thảo) trên đủ mọi chủ đề từ câu hỏi của
ngời mới bắt đầu cho tới vấn đề chuyển chơng trình phức tạp và vấn đề giao diện,
và thậm chí cả một hay hai chơng trình khá lớn.
Nhóm tin gần nh đợc những chuyên gia Perl điều phối. Phần lớn thời gian, câu
hỏi của bạn đều có sự trả lời trong vòng vài phút khi bài tin bạn tới tủ nối Usenet
chính. Bạn hãy thử mức độ hỗ trợ từ nhà sản xuất phần mềm mình a chuộng về
việc cho không này! Bản thân Larry cũng đọc về nhóm khi thời gian cho phép, và
đôi khi đã xen các bài viết có thẩm quyền vào để chấm dứt việc cãi nhau hay làm
sáng tỏ một vấn đề. Sau rốt, không có Usenet, có lẽ không thể có chỗ để dễ dàng
công bố Perl cho cả thế giới.
Bên cạnh nhóm tin, bạn cũng nên đọc tạp chí Perl, đi cùng việc phân phối Perl.
Một nguồn có thẩm quyền khác là cuốn sách Programming Perl của Larry Wall
và Randal L. Schwatrz (OReilly & Associaté, 1990). Programming Perl đợc xem
nh Sách con lừa vì bìa của nó vẽ con vật này (hệt nh cuốn sách này có lẽ sẽ đợc
biết tới với tên sách lạc đà không bớu). Sách con lừa chứa thông tin tham khảo đầy
đủ về Perl dới dạng đóng gọn gàng. Sách con lừa cũng bao gồm một bảng tra tham
khảo bật ra tài tình mà chính là nguồn a chuộng của cá nhân tôi về thông tin Perl.
Các khái niệm cơ bản
Một bản viết vỏ không gì khác hơn là một dãy các lệnh vỏ nhồi vào trong một
tệp văn bản. Tệp này đợc làm cho chạy bằng cách bật một bit thực hiện (qua
chmod +x filename) và rồi gõ tên của tệp đó vào lời nhắc của vỏ. Bingo, một ch-
ơng trình vỏ lớn. Chẳng hạn, một bản viết để chạy chỉ lệnh date theo sau bởi chỉ
lệnh who có thể đợc tạo ra và thực hiện nh thế này:
$ echo date > somecript
$ echo who > somecript
$ cat somescript
date
who
$ chmod _x somescript
$ somescript
[output of date followed by who]
$
Tơng tự nh thế, một chơng trình Perl là một bó các câu lệnh và định nghĩa Perl
đợc ném vào trong một tệp. Rồi bạn bật bit thực hiện và gõ tên của tệp này tại lời
nhắc của vỏ. Tuy nhiên, tệp này phải chỉ ra rằng đây là một chơng trình Perl và
không phải là chơng trình vỏ, nên chúng ta cần một bớc phụ.
#! /usr/bin/perl
làm dòng đầu tiên của tệp này. Nhng nếu Perl của bạn bị kẹt vào một nơi
không chuẩn, hay hệ điều hành tựa UNIX của bạn không hiểu dòng #!, thì bạn có
thêm việc phải làm. Hãy hỏi ngời cài đặt Perl về điều này. Các thí dụ trong sách
này giả sử rằng bạn dùng cơ chế thông thờng này.
Perl là một ngôn ngữ phi định dạng kiểu nh C - khoảng trắng giữa các hiệu bài
(những phần tử của chơng trình, nh print hay +) là tuỳ chọn, trừ phi hai hiệu bài đi
với nhau có thể bị lầm lẫn thành một hiệu bài khác, trong trờng hợp đó thì khoảng
trắng thuộc loại nào đó là bắt buộc. (Khoảng trắng bao gồm dấu cách, dấu tab,
dòng mới, về đầu dòng hay kéo giấy.) Có một vài cấu trúc đòi hỏi một loại khoảng
trắng nào đó ở chỗ nào đó, nhng chúng sẽ đợc trỏ ra khi ta nói tới chúng. Bạn có
thể giả thiết rằng loại và khối lợng khoảng trắng giữa các hiệu bài là tuỳ ý trong
các trờng hợp khác.
Mặc dầu gần nh tất cả các chơng trình Perl đều có thể đợc viết tất cả trên một
dòng, một cách điển hình chơng trình Perl cũng hay đợc viết tụt lề nh chơng trình
C, với những phần câu lệnh lồng nhau đợc viết tụt vào hơn so với phần bao quanh.
Bạn sẽ thấy đầy những thí dụ chỉ ra phong cách viết tụt lề điển hình trong toàn bộ
cuốn sách này.
Cũng giống nh bản viết về vỏ, chơng trình Perl bao gồm tất cả các câu lệnh
perl về tệp đợc lấy tổ hợp chung nh mọt trình lớn cần thực hiện. Không có khái
niệm về trình chính main nh trong C.
Chú thích của Perl giống nh chú thích của lớp vỏ (hiện đại). Bất kì cái gì nằm
giữa một dấu thăng (#) tới cuối dòng đều là một chú thích. Không có khái niệm về
chú thích trên nhiều dòng nh C.
Không giống hầu hết các lớp vỏ (nhng giống nh awk và sed), bộ thông dịch
Perl phân tích và biên dịch hoàn toàn chơng trình trớc khi thực hiện nó. Điều này
có nghĩa là bạn không bao giờ nhận đợc lỗi cú pháp từ chơng trình một khi chơng
trình đã bắt đầu chạy, và cũng có nghĩa là khoảng trắng và chú thích biến mất và
sẽ không làm chậm chơng trình. Trong thực tế, giai đoạn biên dịch này bảo đảm
việc thực hiện nhanh chóng của các thao tác Perl một khi nó đợc bắt đầu, và nó
cung cấp động cơ phụ để loại bỏ C nh một ngôn ngữ tiện ích hệ thống đơn thuần
dựa trên nền tảng là C đợc biên dịch.
Việc biên dịch này không mất thời gian - sẽ là phi hiệu quả nếu một chơng
trình Perl cực lớn lại chỉ thực hiện một nhiệm vụ nhỏ bé chóng vánh (trong số
nhiều nhiệm vụ tiềm năng) và rồi ra, vì thời gian chạy cho chơng trình sẽ nhỏ xíu
nếu so với thời gian dịch.
Cho nên Perl giống nh một bộ biên dịch và thông dịch. Nó là biên dịch vì ch-
ơng trình đợc đọc và phân tích hoàn toàn trớc khi câu lệnh đầu tiên đợc thực hiện.
Nó là bộ thông dịch vì không có mã đích ngồi đâu đó trút đầy không gian đĩa.
Theo một cách nào đó, nó là tốt nhất cho cả hai loại này. Phải thú thực, việc ẩn đi
mã đích đã dịch giữa những lời gọi thì hay, và đó là trong danh sách mong ớc cho
Perl tơng lai của Larry.
Dạo qua Perl
Chúng ta bắt đầu cuộc hành trình của mình qua Perl bằng việc đi dạo một
chút. Việc đi dạo này sẽ giới thiệu một số các tính năng khác nhau bằng cách bổ
sung vào một ứng dụng nhỏ. Giải thích ở đây là cực kì ngắn gọn - mỗi vùng chủ
đề đều đợc thảo luận chi tiết hơn rất nhiều về sau trong cuốn sách này. Nhng cuộc
đi dạo nhỏ này sẽ cho bạn kinh nghiệm nhanh chóng về ngôn ngữ, và bạn có thể
quyết định liệu bạn có thực sự muốn kết thúc cuốn sách này hay đọc thêm các tin
Usenet hay chạy đi chơi trợt tuyết.
Chơng trình Xin chào mọi ngời
Ta hãy nhìn vào một chơng trình nhỏ mà thực tế có làm điều gì đó. Đây là ch-
ơng trình Xin chào mọi ngời:
#!/usr/bin/perl
print Xin chào mọi ngời\n;
Dòng đầu tiên là câu thần chú nói rằng đây là chơng trình Perl. Nó cũng là lời
chú thích cho Perl - hãy nhớ rằng lời chú thích là bất kì cái gì nằm sau dấu thăng
cho tới cuối dòng, giống nh hầu hết các lớp vỏ hiện đại hay awk.
Dòng thứ hai là toàn bộ phần thực hiện đợc của chơng trình này. Tại đây
chúng ta thấy câu lệnh print. Từ khoá print bắt đầu chơng trình, và nó có một đối,
một xâu văn bản kiểu C. Bên trong xâu này, tổ hợp kí tự \n biểu thị cho kí tự dòng
mới; hệt nh trong C. Câu lệnh print đợc kết thúc bởi dấu chấm phẩy (;). Giống nh
C, tất cả các câu lệnh đơn giản đều kết thúc bằng chấm phẩy
*
.
Khi bạn gọi chơng trình này, phần lõi sẽ gọi bộ thông dịch Perl, phân tích câu
toàn bộ chơng trình (hai dòng, kể cả dòng chú thích đầu tiên) và rồi thực hiện
dạng đã dịch. Thao tác đầu tiên và duy nhất là thực hiện toán tử print, điều này gửi
*
Dấu chấm phẩy có thể bỏ đi khi câu lệnh này là câu lệnh cuối của một khối hay tệp hay eval.
đối của nó ra lối ra. Sau khi chơng trình đã hoàn tất, thì tiến trình Perl ra, cho lại
một mã ra thành công cho lớp vỏ.
Hỏi câu hỏi và nhớ kết quả
Ta hãy thêm một chút phức tạp hơn. Từ Xin chào mọi ngời là một sự đụng
chạm lạnh nhạt và cứng rắn. Ta hãy làm cho chơng trình gọi bạn theo tên bạn. Để
làm việc này, ta cần một chỗ giữ tên, một cách hỏi tên, và một cách nhận câu trả
lời.
Một loại đặt chỗ giữ giá trị (tựa nh một tên) là biến vô hớng. Với chơng trình
này, ta sẽ dùng biến vô hớng $name để giữ tên bạn. Chúng ta sẽ đi chi tiết hơn
trong Chơng 2, Dữ liệu vô hớng, về những gì mà biến này có thể giữ, và những gì
bạn có thể làm với chúng. Hiện tại, giả sử rằng bạn có thể giữ một số hay xâu (dãy
các kí tự) trong biến vô hớng.
Chơng trình này cần hỏi về tên. Để làm điều đó, ta cần một cách nhắc và một
cách nhận cái vào. Chơng trình trớc đã chỉ ra cho ta cách nhắc - dùng toán tử print.
Và cách để nhận một dòng từ thiết bị cuối là với toán tử <STDIN>, mà (nh ta sẽ
dùng nó ở đây) lấy một dòng cái vào. Ta gán cái vào này cho biến $name. Điều
này cho ta chơng trình:
print Tên bạn là gì? : ;
$name = <STDIN> ;
Giá trị của $name tại điểm này có một dấu dòng mới kết thúc (Randal có trong
Randal\n). Để vứt bỏ điều đó, chúng ta dùng toán tử chop(), toán tử lấy một biến vô
hớng làm đối duy nhất và bỏ đi kí tự cuối từ giá trị xâu của biến:
chop($name);
Bây giờ tất cả những gì ta cần làm là nói Xin chào, tiếp đó là giá trị của biến
$name, mà ta có thể thực hiện theo kiểu vỏ bằng cách nhúng biến này vào bên
trong xâu có ngoặc kép:
print Xin chào, $name!\n;
Giống nh lớp vỏ, nếu ta muốn một dấu đô la thay vì tham khảo biến vô hớng,
thì ta có thể đặt trớc dấu đô la với một dấu sổ chéo ngợc.
Gắn tất cả lại, ta đợc:
#!/usr/bin/perl
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
print Xin chào, $name!\n;
Bổ sung chọn lựa
Bây giờ ta muốn có một lời chào đặc biệt cho Randal, nhng muốn lời chào
thông thờng cho mọi ngời khác. Để làm điều này, ta cần so sánh tên đã đợc đa vào
với xâu Randal, và nếu hai xâu là một, thì làm điều gì đó đặc biệt. Ta hãy bổ sung
thêm lệnh rẽ nhánh if-then-else và phép so sánh vào chơng trình:
#!/usr/bin/perl
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
if ($name eq Randal) {
print Xin chào Randal! Tốt quá anh lại ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $name!\n; # chào mừng thông thờng
}
Toán tử eq so sánh hai xâu. Nếu chúng bằng nhau (từng kí tự một, và có cùng
chiều dài), thì kết quả là đúng. (Không có toán tử này trong C, và awk phải dùng
cùng toán tử cho xâu và số và tạo ra việc đoán có rèn luyện.)
Câu lệnh if chọn xem khối câu lệnh nào (giữa các dấu ngoặc nhọn sánh đúng)
là đợc thực hiện - nếu biểu thức là đúng, đó là khối thứ nhất, nếu không thì đó là
khối thứ hai.
Đoán từ bí mật
Nào, vì chúng ta đã có một tên nên ta hãy để cho một ngời chạy chơng trình
đoán một từ bí mật. Với mọi ngời ngoại trừ Randal, chúng ta sẽ để cho chơng trình
cứ hỏi lặp lại để đoán cho đến khi nào ngời này đoán đợc đúng. Trớc hết ta hãy
xem chơng trình này và rồi xem giải thích:
#! /usr/bin/perl
$secretword = llama; # từ bí mật
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
if ($name eq Randal) {
print Xin chào, Randal! May quá anh ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $name!\n ; # chào thông th ờng
print Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
while ($guess ne $secrectword) {
print Sai rồi, thử lại đi. Từ bí mật là gì?;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
}
}
Trớc hết, ta định nghĩa từ bí mật bằng việc đặt nó vào trong biến vô hớng khác,
$secretword. Sau khi đón chào, một ngời (không phải Randal) sẽ đợc yêu cầu (với
một câu lệnh print khác) đoán chữ. Lời đoán rồi đợc đem ra so sánh với từ bí mật
bằng việc dùng toán tử ne, mà sẽ cho lại đúng nếu các xâu này không bằng nhau
(đây là toán tử logic ngợc với toán tử eq). Kết quả của việc so sánh sẽ kiểm soát
cho trình while, chu trình này thực hiện khối thân cho tới khi việc so sánh vẫn còn
đúng.
Tất nhiên, chơng trình này không phải là an toàn lắm, vì bất kì ai mệt với việc
đoán cũng đều có thể đơn thuần ngắt chơng trình và quay trở về lời nhắc, hay thậm
chí còn nhìn qua chơng trình gốc để xác định ra từ. Nhng, chúng ta hiện tại cha
định viết một hệ thống an toàn, chỉ xem nh một thí dụ cho trang hiện tại của cuốn
sách này.
Nhiều từ bí mật
Ta hãy xem cách thức mình có thể sửa đổi đoạn chơng trình này để cho phép
có nhiều từ bí mật. Bằng việc dùng điều ta đã thấy, chúng ta có thể so sánh lời
đoán lặp đi lặp lại theo một chuỗi câu trả lời rõ đợc cất giữ trong các biến vô hớng
tách biệt. Tuy nhiên, một danh sách nh vậy sẽ khó mà thay đổi hay đọc vào từ một
tệp hay máy tính trên cơ sở ngày làm việc thờng lệ.
Một giải pháp tốt hơn là cất giữ tất cả các câu trả lời có thể vào trong một cấu
trúc dữ liệu gọi là danh sách hay mảng. Mỗi phần tử của mảng đều là một biến vô
hớng tách biệt mà có thể đợc đặt giá trị hay thâm nhập độc lập. Toàn bộ mảng
cũng có thể đợc trao cho một giá trị trong một cú đột nhập. Ta có thể gán một giá
trị cho toàn bộ mảng có tên @words sao cho nó chứa ba mật hiệu tốt có thể có:
@words = (camel, llama, oyster);
Tên biến mảng bắt đầu với @, cho nên chúng là khác biệt với các tên biến vô
hớng.
Một khi mảng đã đợc gán thì ta có thể thâm nhập vào từng phần tử bằng việc
dùng một tham khảo chỉ số. Cho nên $words[0] là camel, $words[1] là llama,
$words[2] là oyster. Chỉ cố cũng có thể là một biểu thức, cho nên nếu ta đặt $i là 2
thì $words[$i] là oyster. (Tham khảo chỉ số bắt đầu với $ thay vì @ vì chúng tham
khảo tới một phần tử riêng của mảng thay vì toàn bộ mảng.) Quay trở lại với thí dụ
trớc đây của ta:
#! /usr/bin/perl
$words = (camel, llama, oyster); # từ bí mật
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
if ($name eq Randal) {
print Xin chào, Randal! May quá anh ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $name!\n; # chào thông thờng
print Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
$i = 0; # thử từ này trớc hết
$correct = có thể; # từ đoán có đúng hay không?
while ($correct eq $guess) { # cứ kiểm tra đến khi biết
if ($words[$i] eq $guess) { # đúng không
$correct = có; # có
} elsif ($i < 2) { # cần phải xét thêm từ nữa?
$i = $i + 1; # nhìn vào từ tiếp lần sau
} else # hết rồi, thế là hỏng
print Sai rồi, thử lại đi. Từ bí mật là gì?;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
$i = 0; # bắt đầu kiểm tra từ đầu lần nữa
}
} # kết thúc của while not correct
} # kết thúc của not Randal
Bạn sẽ để ý rằng chúng ta đang dùng biến vô hớng $correct để chỉ ra rằng
chúng ta vẫn đang tìm ra mật hiệu đúng, hay rằng chúng ta không tìm thấy.
Chơng trình này cũng chỉ ra khối elsif của câu lệnh if-then-else. Không có lệnh
nào tơng đơng nh thế trong C hay awk - đó là việc viết tắt của khối else cùng với
một điều kiện if mới, nhng không lồng bên trong cặp dấu ngoặc nhọn khác. Đây
chính là cái rất giống Perl để so sánh một tập các điều kiện trong một dây chuyền
phân tầng if-elsif-elsif-elsif-else.
Cho mỗi ngời một từ bí mật khác nhau
Trong chơng trình trớc, bất kì ngời nào tới cũng đều có thể đoán bất kì từ nào
trong ba từ này và có thể thành công. Nếu ta muốn từ bí mật là khác nhau cho mỗi
ngời, thì ta cần một bảng sánh giữa ngời và từ:
Ngời Từ bí mật
Fred
Barney
Betty
Wilma
Camel
Llama
Oyster
Oyster
Chú ý rằng cả Betty và Wilma đều có cùng từ bí mật. Điều này là đợc.
Cách dễ nhất để cất giữ một bảng nh thế trong Perl là bằng một mảng kết hợp.
Mỗi phần tử của mảng này giữ một giá trị vô hớng tách biệt (hệt nh kiểu mảng
khác), nhng các mảng lại đợc tham khảo tới theo khoá, mà có thể là bất kì giá trị
vô hớng nào (bất kì xâu hay số, kể cả số không nguyên và giá trị âm). Để tạo ra
một mảng kết hợp đợc gọi là %words (chú ý % chứ không phải là @) với khoá và
giá trị đợc cho trong bảng trên, ta gán một giá trị cho %words (nh ta đã làm nhiều
trớc đây với mảng khác):
%words = (fred, camel, barney, llama,
betty, oyster, wilma, oyster) ;
Mỗi cặp giá trị trong danh sách đều biểu thị cho một khoá và giá trị tơng ứng
của nó trong mảng kết hợp. Chú ý rằng ta đã bẻ phép gán này ra hai dòng mà
không có bất kì loại kí tự nối dòng nào, vì khoảng trắng nói chung là vô nghĩa
trong chơng trình Perl.
Để tìm ra từ bí mật cho Betty, ta cần dùng Betty nh khoá trong một tham khảo
vào mảng kết hợp %words, qua một biểu thức nào đó nh %words{betty}. Giá trị của
tham khảo này là oyster, tơng tự nh điều ta đã làm trớc đây với mảng khác. Cũng
nh trớc đây, khoá có thể là bất kì biểu thức nào, cho nên đặt $person với betty và
tính $words{$person} cũng cho oyster.
Gắn tất cả những điều này lại ta đợc chơng trình nh thế này:
#! /usr/bin/perl
%words = (fred, camel, barney, llama,
betty, oyster, wilma, oyster) ;
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
if ($name eq Randal) {
print Xin chào, Randal! May quá anh ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $name!\n; # chào thông thờng
$secretword = $words{$name}; # lấy từ bí mật
print Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
while ($correct ne $secretwords) {
print Sai rồi, thử lại đi. Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
} # kết thúc của while
} # kết thúc của not Randal
Bạn hãy chú ý nhìn vào từ bí mật. Nếu không tìm thấy từ này thì giá trị của
$secretword sẽ là một xâu rỗng
*
, mà ta có thể kiểm tra liệu ta có muốn xác định
một từ bí mật mặc định cho ai đó khác không. Đây là cách xem nó:
[... phần còn lại của chơng trình đã bị xoá...]
$secretword = $words{$name}; # lấy từ bí mật
if ($secretword eq ) { # ấy, không thấy
*
Đợc, đấy chính là giá trị undef, nhng nó trông nh một xâu rỗng cho toán tử eq
$secretword = đồ cáu kỉnh; # chắc chắn, sao không là vịt?
}
print Từ bí mật là gì? ;
[... phần còn lại của chơng trình đã bị xoá...]
Giải quyết định dạng cái vào thay đổi
Nếu tôi đa vào Randal L. Schwartz hay randal thay vì Randal thì tôi sẽ bị đóng
cục lại với phần ngời dùng còn lại, vì việc so sánh eq thì lại so sánh đúng sự bằng
nhau. Ta hãy xem một cách giải quyết cho điều đó.
Giả sử tôi muốn tìm bất kì xâu nào bắt đầu với Randal, thay vì chỉ là một xâu
bằng Randal. Tôi có thể làm điều này trong sed hay awk hoặc grep với một biểu
thức chính qui: một tiêu bản sẽ xác định ra một tập hợp các xâu sánh đúng. Giống
nh trong sed hay grep, biểu thức chính qui trong Perl để sánh bất kì xâu nào bắt
đầu với Randal là ^Randal. Để sánh xâu này với xâu trong $name, chúng ta dùng
toán tử sánh nh sau:
if ($name =~ /^Randal/) {
## có, sánh đúng
} else {
## không, sánh sai
}
Chú ý rằng biểu thức chính qui đợc định biên bởi dấu sổ chéo. Bên trong các
dấu sổ chéo, dấu cách và khoảng trắng là có nghĩa, hệt nh chúng ở bên trong xâu.
Điều này gần nh thế, nhng nó lại không giải quyết việc lựa ra randal hay loại
bỏ Randall. Để chấp nhận randal, chúng ta thêm tuỳ chọn bỏ qua hoa thờng, một
chữ i nhỏ đợc thêm vào sau dấu sổ chéo đóng. Để loại bỏ Randall, ta thêm một
đánh dấu đặc biệt định biên từ (tơng tự với vi và một số bản của grep) dới dạng
của \b trong biểu thức chính qui. Điều này đảm bảo rằng kí tự đi sau l đầu tiên
trong biểu thức chính qui không phải là một kí tự khác. Điều này làm thay đổi
biểu thức chính qui thành /^randal\b/i, mà có nghĩa là randal tại đầu xâu, không có
kí tự hay chữ số nào theo sau, và chấp nhận cả hai kiểu chữ hoa thờng.
Khi gắn tất cả lại với phần còn lại của chơng trình thì nó sẽ giống nh thế này:
#! /usr/bin/perl
%words = (fred, camel, barney, llama,
betty, oyster, wilma, oyster) ;
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
if ($name =~ /^randal\b/i ) {
print Xin chào, Randal! May quá anh ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $name!\n; # chào thông thờng
$secretword = $words{$name}; # lấy từ bí mật
if ($secretword eq ) { # ấy, không thấy
$secretword = đồ cáu kỉnh; # chắc chắn, sao không là vịt?
}
print Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
while ($correct ne $secretwords) {
print Sai rồi, thử lại đi. Từ bí mật là gì?;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
} # kết thúc của while
} # kết thúc của not Randal
Nh bạn có thể thấy, chơng trình này khác xa với chơng trình đơn giản Xin
chào, mọi ngời, nhng nó vẫn còn rất nhỏ bé và làm việc đợc, và nó quả làm đợc tí
chút với cái ngắn xíu vậy. đây chính là cách thức của Perl.
Perl đa ra tính năng về các biểu thức chính qui có trong mọi trình tiện ích
UNIX chuẩn (và thậm chí trong một số không chuẩn). Không chỉ có thế, nhng
cách thức Perl giải quyết cho việc đối sánh xâu là cách nhanh nhất trên hành tin
này, cho nên bạn không bị mất hiệu năng. (Một chơng trình giống nh grep đợc
viết trong Perl thờng đánh bại chơng trình grep đợc các nhà cung cấp viết trong C
với hầu hết các cái vào. Điều này có nghĩa là thậm chí grep không thực hiện một
việc của nó thật tốt.)
Làm cho công bằng với mọi ngời
Vậy bây giờ tôi có thể đa vào Randal hay randal hay Randal L. Schwartz, nhng
với những ngời khác thì sao? Barney vẫn phải nói đúng barney (thậm chí không đ-
ợc có barney với một dấu cách theo sau).
Để công bằng cho Barey, chúng ta cần nắm đợc từ đầu của bất kì cái gì đợc đa
vào, và rồi chuyển nó thành chữ thờng trớc khi ta tra tên trong bảng. Ta làm điều
này bằng hai toán tử: toán tử substitute, tìm ra một biểu thức chính qui và thay thế
nó bằng một xâu, và toán tử translate, để đặt xâu này thành chữ thờng.
Trớc hết, toán tử thay thế: chúng ta muốn lấy nội dung của $name, tìm kí tự
đầu tiên không là từ, và loại đi mọi thứ từ đây cho đến cuối xâu. /\W.*/ là một biểu
thức chính qui mà ta đang tìm kiếm - \W viết tắt cho kí tự không phải là từ (một
cái gì đó không phải là chữ, chữ số hay gạch thấp) và .* có nghĩa là bất kì kí tự
nào từ đấy tới cuối dòng. Bây giờ, để loại những kí tự này đi, ta cần lấy bất kì bộ
phận nào của xâu sánh đúng với biểu thức chính qui này và thay nó với cái không
có gì:
$name =~ s/\W.*//;
Chúng ta đang dùng cùng toán tử =~ mà ta đã dùng trớc đó, nhng bây giờ bên
vế phải ta có toán tử thay thế: chữ s đợc theo sau bởi một biểu thức chính qui và
xâu đợc định biên bởi dấu sổ chéo. (Xâu trong thí dụ này là xâu rỗng giữa dấu sổ
chéo thứ hai và thứ ba.) Toán tử này trông giống và hành động rất giống nh phép
thay thế của các trình soạn thảo khác nhau.
Bây giờ để có đợc bất kì cái gì còn lại trở thành chữ thờng thì ta phải dịch xâu
này dùng toán tử tr. Nó trông rất giống chỉ lệnh tr của UNIX, nhận một danh sách
các kí tự để tìm và một danh sách các kí tự để thay thế chúng. Với thí dụ của ta, để
đặt nội dung của $name thành chữ thờng, ta dùng:
$name =~ tr/A-Z/a-z/;
Các dấu sổ chéo phân tách các danh sách kí tự cần tìm và cần thay thế. Dấu
gạch ngang giữa A và Z thay thế cho tất cả các kí tự nằm giữa, cho nên chúng ta
có hai danh sách, mỗi danh sách có 26 kí tự. Khi toán tử tr tìm thấy một kí tự từ
một xâu trong danh sách thứ nhất thì kí tự đó sẽ đợc thay thế bằng kí tự tơng ứng
trong danh sách thứ hai. Cho nên tất cả các chữ hoa A trở thành chữ thờng a, và cứ
nh thế
*
.
Gắn tất cả lại với mọi thứ khác sẽ cho kết quả trong:
#! /usr/bin/perl
%words = (fred, camel, barney, llama,
betty, oyster, wilma, oyster) ;
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
$original_name = $name; # cất giữ để chào mừng
$name =~ s/\W.*//; # bỏ mọi thứ sau từ đầu
$name =~ tr/A-Z/a-z/; # mọi thứ thành chữ thờng
if ($name eq randal ) {
print Xin chào, Randal! May quá anh ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $original_name!\n; # chào thông thờng
$secretword = $words{$name}; # lấy từ bí mật
if ($secretword eq ) { # ấy, không thấy
$secretword = đồ cáu kỉnh; # chắc chắn, sao không là vịt?
}
print Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
while ($correct ne $secretwords) {
print Sai rồi, thử lại đi. Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
} # kết thúc của while
} # kết thúc của not Randal
*
Các chuyên gia sẽ lu ý rằng tôi cũng đã xây dựng một cái gì đó tựa nh s/(\S*).*/\L$1/ để làm tất cả điều này
trong một cú đột kích, nhng các chuyên gia có lẽ sẽ không đọc mục này.
Bạn hãy để ý đến cách thức biểu thức chính qui sánh đúng với tên tôi Randal
đã lại trở thành việc so sánh đơn giản. Sau rốt, cả Randal L. Schwartz và Randal đều
trở thành randal sau khi việc thay thế và dịch. Và mọi ngời khác cũng có đợc sự
công bằng, vì Fred và Fred Flinstone cả hai đều trở thành fred, Barney Rubble và
Barney, the little guy sẽ trở thành barney, vân vân.
Với chỉ vài câu lệnh, chúng ta đã tạo ra một chơng trình thân thiện ngời dùng
hơn nhiều. Bạn sẽ thấy rằng việc diễn tả thao tác xâu phức tạp với vài nét là một
trong nhiều điểm mạnh của Perl.
Tuy nhiên, chém vào tên để cho ta có thể so sánh nó và tra cứu nó trong bảng
thì sẽ phá huỷ mất tên ta vừa đa vào. Cho nên, trớc khi chém vào tên, cần phải cất
giữ nó vào trong @original_name. (Giống nh các kí hiệu C, biến Perl bao gồm các
chữ, chữ số và dấu gạch thấp và có thể có chiều dài gần nh không giới hạn.) Vậy ta
có thể làm tham khảo tới $original_name về sau.
Perl có nhiều cách để giám sát và chặt cắt xâu. bạn sẽ thấy phần lớn chúng
trong Chơng 7, Biểu thức chính qui và Chơng 15, Việc chuyển đổi dữ liệu khác.
Làm cho nó mô đun hơn một chút
Bởi vì chúng ta đã thêm quá nhiều mã nên ta phải duyệt qua nhiều dòng chi
tiết trớc khi ta có thể thu đợc toàn bộ luồng chơng trình. Điều ta cần là tách bạch
logic mức cao (hỏi tên, chu trình dựa trên từ bí mật đa vào) với các chi tiết (so
sánh một từ bí mật với từ đã biết). Chúng ta có thể làm điều này cho rõ ràng, hoặc
có thể bởi vì một ngời đang viết phần cao cấp còn ngời khác thì viết (hay đã viết)
phần chi tiết.
Perl cung cấp các chơng trình con có tham biến và giá trị cho lại. Một chơng
trình con đợc xác định một khi nào đó trong chơng trình, và rồi có thể đợc dùng
lặp đi lặp lại bằng việc gọi từ bên trong bất kì biểu thức nào.
Với chơng trình nhỏ nhng tăng trởng nhanh của chúng ta, ta hãy tạo ra một ch-
ơng trình con tên là &good_word (tất cả các tên chơng trình con đều bắt đầu với
một dấu và &) mà nhận một tên đã sạch và một từ đoán, rồi cho lại true nếu từ đó
là đúng, và cho lại false nếu không đúng. Việc xác định chơng trình con đó tựa
nh thế này:
sub good_word {
local($somename, $someguess) = @_; # tên tham biến
$somename =~ s/\W.*//; # bỏ mọi thứ sau từ đầu
$somename =~ tr/A-Z/a-z/; # mọi thứ thành chữ thờng
if ($somename eq randal) { # không nên đoán
1; #giá trị cho lại là true
} elsif (($words{$somename} || đồ cáu kỉnh) eq $someguess) {
1; # giá trị cho lại là true
} else {
0; # cho lại giá trị false
}
}
Trớc hết, việc định nghĩa ra một chơng trình con bao gồm một từ dành riêng
sub đi theo sau là tên chơng trình con (không có dấu và &) tiếp nữa là một khối
mã lệnh (đợc định biên bởi dấu ngoặc nhọn). Định nghĩa này có thể để vào bất kì
đâu trong tệp chơng trình, nhng phần lớn mọi ngời thích để chúng vào cuối.
Dòng đầu tiên trong định nghĩa đặc biệt này là một phép gán làm việc sao các
giá trị của hai tham biến của chơng trình này vào hai biến cục bộ có tên
$somename và $someguess. (local() xác định hai biến là cục bộ cho chơng trình
con này, và các tham biến ban đầu trong một mảng cục bộ đặc biệt gọi là @_.)
Hai dòng tiếp làm sạch tên, cũng giống nh bản trớc của chơng trình.
Câu lệnh if-elsif-else quyết định xem từ đợc đoán ($someguess) là có đúng cho
tên ($somename) hay không. Randal không nên làm nó thành chơng trình con này,
nhng ngay cả nếu nó có, thì dù từ nào đợc đoán cũng đều OK cả.
Biểu thức cuối cùng đợc tính trong chơng trình con là cho lại giá trị. Chúng ta
sẽ thấy cách cho lại giá trị đợc dùng sau khi tôi kết thúc việc mô tả định nghĩa về
chơng trình con.
Phép kiểm tra cho phần elsif trông có phức tạp hơn một chút - ta hãy chia nó
ra:
($words{$somename} || đồ cáu kỉnh) eq $someguess
Vật thứ nhất bên trong dấu ngoặc là mảng kết hợp quen thuộc của ta, cho một
giá trị nào đó từ %words dựa trên khoá $somename. Toán tử đứng giữa giá trị đó và
xâu đồ cáu kỉnh là toán tử || (phép hoặc logic) nh đợc dùng trong C và awk và các
vỏ khác. Nếu việc tra cứu từ mảng kết hợp có một giá trị (nghĩa là khoá
$somename là trong mảng), thì giá trị của biểu thức là giá trị đó. Nếu khoá không
tìm đợc, thì xâu đồ cáu kỉnh sẽ đợc dùng thay. Đây chính là một vật kiểu Perl th-
ờng làm - xác định một biểu thức nào đó, và rồi đa ra một giá trị mặc định bằng
cách dùng || nếu biểu thức này có thể trở thành sai.
Trong mọi trờng hợp, dù đó là một giá trị từ mảng kết hợp, hay giá trị mặc
định đồ cáu kỉnh, chúng ta đều so sánh nó với bất kì cái gì đợc đoán. Nếu việc so
sánh là đúng thì ta cho lại 1, nếu không ta cho lại 0.
Bây giờ ta hãy tích hợp tất cả những điều này với phần còn lại của chơng trình:
#! /usr/bin/perl
%words = (fred, camel, barney, llama,
betty, oyster, wilma, oyster) ;
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
if ($name =~ /^randal\b/i ) { # trở lại cách khác
print Xin chào, Randal! May quá anh ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $original_name!\n; # chào thông thờng
print Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
while ( ! &good_word($name, $guess)) {
print Sai rồi, thử lại đi. Từ bí mật là gì?;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
}
}
[ ... thêm vào định nghĩa của &good_word ở đây ...]
Chú ý rằng chúng ta đã quay trở lại với biểu thức chính qui để kiểm tra Randal,
vì bây giờ không cần kéo một phần tên thứ nhất và chuyển nó thành chữ thờng,
chừng nào còn liên quan tới chơng trình chính.
Sự khác biệt lớn là chu trình while có chứa &good_word. Tại đây, chúng ta thấy
một lời gọi tới chơng trình con, truyền cho nó hai đối, $name và $guess. Bên trong
chơng trình con này, giá trị của $somename đợc đặt từ tham biến thứ nhất, trong tr-
ờng hợp này là $name. Giống thế, $someguess đợc đặt từ tham biến thứ hai,
$guess.
Giá trị do chơng trình con cho lại (hoặc 1 hoặc 0, nhớ lại định nghĩa đã nêu tr-
ớc đây) là âm với toán tử tiền tố ! (phép phủ định logic). Nh trong C, toán tử này
cho lại đúng nếu biểu thức đi sau là sai, và ngợc lại. Kết quả của phép phủ định
này sẽ kiểm soát chu trình while. Bạn có thể đọc điều này là trong khi không phải
là từ đúng.... Nhiều chơng trình Perl viết tốt đọc rất giống tiếng Anh, đa lại cho
bạn một chút tự do với Perl hay tiếng Anh. (Nhng bạn chắc chắn không đoạt giải
Pulitzer theo cách đó.)
Chú ý rằng chơng trình con này giả thiết rằng giá trị của mảng %words đợc ch-
ơng trình chính đặt. Điều này không đặc biệt là hay, nhng chẳng có gì so sánh đợc
với static của C đối với chơng trình con - nói chung, tất cả các biến nếu không nói
khác đi mà đợc tạo ra với toán tử local() thì đều là toàn cục đối với toàn bộ chơng
trình. Trong thực tế, đây chỉ là vấn đề nhỏ, và ngời ta thì có đợc tính sáng tạo về
cách đặt tên biến dài hạn.
Chuyển danh sách từ bí mật vào tệp riêng biệt
Giả sử ta muốn dùng chung danh sách từ bí mật cho ba chơng trình. Nếu ta cất
giữ danh sách từ nh ta đã làm thì ta sẽ cần phải thay đổi tất cả ba chơng trình này
khi Betty quyết định rằng từ bí mật của cô sẽ là swine thay vì oyster. Điều này có
thể thành phiền phức, đặc biệt khi xem xét tới việc Betty lại thờng xuyên thích
thay đổi ý định.
Cho nên, ta hãy đặt danh sách từ vào một tệp, và rồi đọc tệp này để thu đợc
danh sách từ vào trong chơng trình. Để làm điều này, ta cần tạo ra một kênh vào/ra
đợc gọi là tớc hiệu tệp. Chơng trình Perl của bạn sẽ tự động lấy ba tớc hiệu tệp gọi
là STDIN, STDOUT và STDERR, tơng ứng với ba kênh vào ra chuẩn cho chơng
trình UNIX. Chúng ta cũng đã dùng tớc hiệu STDIN để đọc dữ liệu từ ngời chạy
chơng trình. Bây giờ, đấy chỉ là việc lấy một tớc hiệu khác để gắn với một tệp do
ta tạo ra.
Sau đây là một đoạn mã nhỏ để làm điều đó:
sub init_words {
open (WORDSLIST, wordslist);
while ($name = <WORDSLIST>) {
chop ($name);
$word = <WORDSLIST>;
chop($word);
$words{$name} = $word;
}
close (WORDSLIST);
}
Tôi đặt nó vào một chơng trình con để cho tôi có thể giữ phần chính của chơng
trình không bị lộn xộn. Điều này cũng có nghĩa là vào thời điểm sau (hớng dẫn:
một vài lần ôn lại cuộc đi dạo này), tôi có thể thay đổi nơi cất giữ danh sách từ,
hay thậm chí định dạng của danh sách.
Định dạng đợc chọn bất kì cho danh sách từ là một khoản mục trên một dòng,
với tên và từ, luân phiên. Cho nên, với cơ sở dữ liệu hiện tại của chúng ta, chúng ta
có cái tựa nh thế này:
fred
camel
barney
llama
betty
oyster
wilma
oyster
Toán tử open() tạo ra một tớc hiệu tệp có tên WORDSLIST bằng cách liên kết
nó với một tệp mang tên wordslist trong danh mục hiện tại. Lu ý rằng tớc hiệu tệp
không có kí tự là lạ phía trớc nó nh ba kiểu biến vẫn có. Cũng vậy, tớc hiệu tệp nói
chung là chữ hoa - mặc dầu chúng không nhất thiết phải là nh thế - bởi những lí do
sẽ nêu chi tiết về sau.
Chu trình while đọc các dòng từ tệp wordslist (qua tớc hiệu tệp WORDSLIST)
mỗi lần một dòng. Mỗi dòng đều đợc cất giữ trong biến $name. Khi đạt đến cuối
tệp thì giá trị cho lại bởi toán tử <WORDSLIST> là xâu rỗng
*
, mà sẽ sai cho cho
trình while, và kết thúc nó. Đó là cách chúng ta đi ra ở cuối.
Mặt khác, trờng hợp thông thờng là ở chỗ chúng ta đã đọc một dòng (kể cả
dấu dòng mới) vào trong $name. Trớc hết, ta bỏ dấu dòng mới bằng việc dùng toán
tử chop(). Rồi, ta phải đọc dòng tiếp để lấy từ bí mật, giữ nó trong biến $word. Nó
*
Về mặt kĩ thuật thì đấy lại là undef, nhng cũng đủ gần cho thảo luận này
nữa cũng phải bỏ dấu dòng mới đi.
Dòng cuối cùng của chu trình while đặt $word vào trong %words với khoá
$name, cho nên phần còn lại của chơng trình có thể thâm nhập vào nó về sau.
Một khi tệp đã đợc đọc xong thì có thể bỏ tớc hiệu tệp bằng toán tử close(). (T-
ớc hiệu tệp dẫu sao cũng đợc tự động đóng lại khi chơng trình thoát ra, nhng tôi
đang định làm cho gọn.)
Định nghĩa chơng trình con này có thể đi sau hay trớc chơng trình con khác.
Và chúng ta gọi tới chơng trình con thay vì đặt %words vào chỗ bắt đầu của chơng
trình, cho nên một cách để bao bọc tất cả những điều này có thể giống thế này:
#! /usr/bin/perl
&init_words;
print Tên bạn là gì? ;
$name = <STDIN> ;
chop($name);
if ($name =~ /^randal\b/i ) { # trở lại cách khác
print Xin chào, Randal! May quá anh ở đây!\n;
} else {
print Xin chào, $original_name!\n; # chào thông thờng
print Từ bí mật là gì? ;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
while ( ! &good_word($name, $guess)) {
print Sai rồi, thử lại đi. Từ bí mật là gì?;
$guess = <STDIN>;
chop($guess);
}
}
## chơng trình con từ đây xuống
sub init_words {
open (WORDSLIST, wordslist);
while ($name = <WORDSLIST>) {
chop ($name);
$word = <WORDSLIST>;
chop($word);
$words{$name} = $word;
}
close (WORDSLIST);
}
sub good_word {
local($somename, $someguess) = @_; # tên tham biến
$somename =~ s/\W.*//; # bỏ mọi thứ sau từ đầu
$somename =~ tr/A-Z/a-z/; # mọi thứ thành chữ thờng
if ($somename eq randal) { # không nên đoán
1; #giá trị cho lại là true
} elsif (($words{$somename} || đồ cáu kỉnh) eq $someguess) {
1; # giá trị cho lại là true
} else {
0; # cho lại giá trị false
}
}
Bây giờ nó bắt đầu trông giống một chơng trình trởng thành hoàn toàn. Chú ý
đến dòng thực hiện đợc đầu tiên là lời gọi tới &init_words. Không có tham biến nào
đợc truyền cả, cho nên chúng ta đợc tự do bỏ đi dấu ngoặc tròn. Cũng vậy, giá trị
cho lại không đợc dùng trong tính toán thêm, thì cũng là tốt vì ta đã không cho lại
điều gì đáng để ý. (Giá trị của close() thông thờng là đúng.)
Toán tử open() cũng đợc dùng để mở các tệp đa ra, hay mở chơng trình nh tệp
(đã đợc biểu diễn ngắn gọn). Tuy thế, việc vét hết về open() sẽ đợc nêu về sau
trong cuốn sách này, trong Chơng 10, Tớc hiệu tệp và kiểm tra tệp.
Đảm bảo một lợng an toàn giản dị
Danh sách các từ bí mật phải thay đổi ít nhất một lần mỗi tuần! ông Trởng
ban danh sách từ bí mật kêu lên. Thôi đợc, chúng ta không thể buộc danh sách này
khác đi, nhng chúng ta có thể ít nhất cũng đa ra một cảnh báo nếu danh sách từ bí
mật còn cha đợc thay đổi trong hơn một tuần.
Cách tốt nhất để làm điều này là trong chơng trình con &init_words - chúng ta
đã nhìn vào tệp ở đó. Toán tử Perl -M cho lại tuổi tính theo ngày từ một tệp hay t-
ớc hiệu tệp đã đợc thay đổi từ lần trớc, cho nên ta chỉ cần xem liệu giá trị này có
lớn hơn bẩy hay không đối với tớc hiệu tệp WORDSLIST:
sub init_words {
open (WORDSLIST, wordslist);
if (-M WORDSLIST > 7) { # tuân thủ theo đờng lối quan liêu
die Rất tiếc, danh sách từ cũ hơn bẩy ngày rồi.;
}
while ($name = <WORDSLIST>) {
chop ($name);
$word = <WORDSLIST>;
chop($word);
$words{$name} = $word;
}
close (WORDSLIST);
}
Giá trị của -M WORDSLIST đợc so sánh với bẩy, và nếu lớn hơn, thế thì ta vi
phạm vào đờng lối rồi. Tại đây, ta thấy một toán tử mới, toán tử die, mà cho in ra
một thông báo trên thiết bị cuối
*
, và bỏ chơng trình trong một cú bổ nhào rơi
xuống.
Phần còn lại của chơng trình vẫn không đổi, cho nên trong mối quan tâm tới
việc tiết kiệm cây cối, tôi sẽ không lặp lại nó ở đây.
Bên cạnh việc lấy tuổi của tệp, ta cũng có thể tìm ra ngời chủ của nó, kích cỡ,
thời gian thâm nhập, và mọi thứ khác mà UNIX duy trì về tệp. Nhiều điều hơn đợc
trình bầy trong Chơng 10.
Cảnh báo ai đó khi mọi việc đi sai
Ta hãy xem ta có thể làm cho hệ thống bị sa lầy thế nào khi ta gửi một mẩu th
điện tử mỗi lần cho một ai đó đoán từ bí mật của họ không đúng. Ta cần sửa đổi
mỗi chơng trình con &good_word (nhờ có tính mô đun) vì ta có tất cả thông tin
ngay đây.
Th sẽ đợc gửi cho bạn nếu bạn gõ địa chỉ th của riêng mình vào chỗ mà chơng
trình nói Địa chỉ bạn ở đây. Đây là điều ta phải làm - ngay trớc khi trả 0 về từ
chơng trình con, ta tạo ra một tớc hiệu tệp mà thực tại là một tiến trình (mail),
giống nh:
sub good_word {
local($somename, $someguess) = @_; # tên tham biến
$somename =~ s/\W.*//; # bỏ mọi thứ sau từ đầu
$somename =~ tr/A-Z/a-z/; # mọi thứ thành chữ thờng
if ($somename eq randal) { # không nên đoán
1; #giá trị cho lại là true
} elsif (($words{$somename} || đồ cáu kỉnh) eq $someguess) {
1; # giá trị cho lại là true
} else {
open(MAIL, |mail Địa_chỉ_bạn_ở_đây);
print MAIL tin xấu: $somename đã đoán $someguess\n;
0; # cho lại giá trị false
}
}
Câu lệnh mới thứ nhất ở đây là open(), mà có một kí hiệu đờng ống (|) trong
tên tệp. Đây là một chỉ dẫn đặc biệt rằng ta đang mở một chỉ lệnh thay vì một tệp.
Vì đờng ống là tại chỗ bắt đầu của chỉ lệnh nên ta đang mở một chỉ lệnh để ta có
thể ghi lên nó. (nếu bạn đặt đờng ống tại cuối thay vì đầu thì bạn có thể đọc cái ra
của chỉ lệnh.)
Câu lệnh tiếp, print, chỉ ra rằng một tớc hiệu tệp giữa từ khoá print và giá trị đợc
in ra chọn tớc hiệu tệp đó làm cái ra, thay vì STDOUT
*
. Điều này có nghĩa là
thông báo sẽ kết thúc nh cái vào cho chỉ lệnh mail.
Cuối cùng, ta đóng tớc hiệu tệp, mà sẽ bắt đầu để mail gửi dữ liệu của nó theo
*
Thực tại là STDERR, nhng đấy thông thờng là màn hình
*
Về mặt kĩ thuật thì tớc hiệu tệp này hiện đợc chọn. Điều đó sẽ đợc nói nhiều tới về sau.
cách của nó.
Để cho đúng, chúng ta có thể gửi câu trả lời đúng cũng nh câu trả lời sai, nhng
rồi ai đó đọc qua vai tôi (hay núp trong hệ thống th) trong khi tôi đang đọc th mà
có thể lấy quá nhiều thông tin có ích.
Perl có thể cũng gọi cả các lệnh với việc kiểm soát chính xác trên danh sách
đối, mở các tớc hiệu tệp, hay thậm chí lôi ra cả bản sao của chơng trình hiện tại, và
thực hiện hai (hay nhiều) bản sao song song. Backquotes (giống nh backquotes
của vỏ) cho một cách dễ dàng nắm đợc cái ra của một chỉ lệnh nh dữ liệu. Tất cả
những điều này sẽ đợc mô tả trong Chơng 14, Quản lí tiến trình, cho nên bạn nhớ
đọc.
Nhiều tệp từ bí mật trong danh mục hiện tại
Ta hãy thay đổi định nghĩa của tên tệp từ bí mật một chút. Thay vì tệp đợc đặt
tên là wordslist, thì ta hãy tìm bất kì cái gì trong danh mục hiện tại mà có tận cùng
là .secret. Với lớp vỏ, ta nói:
echo *.secret
để thu đợc một liệt kê ngắn gọn cho tất cả các tên này. Nh lát nữa bạn sẽ thấy, Perl
dùng một cú pháp tên chùm tơng tự.
Ta lấy lại định nghĩa &init_words :
sub init_words {
while ($filename = <*.secret>) {
open (WORDSLIST, $filename);
if (-M WORDSLIST > 7) {
while ($name = <WORDSLIST>) {
chop ($name);
$word = <WORDSLIST>;
chop($word);
$words{$name} = $word;
}
}
close (WORDSLIST);
}
}
Trớc hết, tôi đã bao một chu trình while mới quanh phần lớn chơng trình con
của bản cũ. Điều mới ở đây là toán tử <*.secret>. Điều này đợc gọi là núm tên tệp,
bởi lí do lịch sử. Nó làm việc rất giống <STDIN>, ở chỗ mỗi lần đợc thâm nhập
tới, nó đều cho lại giá trị tiếp: tên tệp kế tiếp sánh với mẫu của vỏ, trong trờng hợp
này là *.secret. Khi không có tên tệp thêm nữa đợc cho lại thì núm tên tệp cho xâu
rỗng
*
.
Cho nên nếu danh mục hiện tại có chứa fred.secret và barney.secret, thì
$filename là barney.secret ở bớc đầu qua chu trình while (tên tới theo trật tự sắp của
*
Lại undef lần nữa