DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TLV:
Tấm lịng Việt
ĐTHVN:
Đài Truyền hình Việt Nam
UBTƯMTTQVN: Ủy Ban Trung Ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
HDTV
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ bao đời, dân tộc Việt Nam ln có
ý thức hướng về cội nguồn, hướng về những người có hồn cảnh khó khăn
trong cuộc sống. Cùng với đó, dân gian lưu truyền nhiều lời răn dạy về tình
thương yêu giữa con người với con người như: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn; lá lành đùm lá rách, thương người
như thể thương thân…
Hiện nay, xố đói giảm nghèo đang là một chủ trương, chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu tăng trưởng bền
vững gắn với bảo đảm công bằng xã hội.
Theo thống kê, hiện nước ta còn gần 33 triệu người dân (chiếm gần 1/3
tổng dân số) vẫn sống với mức thu nhập thấp và thuộc diện nghèo. Cứ 10
người Việt Nam thì 4 người có nguy cơ bị tái nghèo sau một cú sốc về kinh tế
hay một trận thiên tai, hoả hoạn. Khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, vùng thường xuyên bị thiên tai, vùng nông thôn, thậm chí cả
những thành phố lớn vẫn cịn nhiều người gặp hồn cảnh khó khăn và là
những hộ nghèo.
Nhằm phát huy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong toàn cộng đồng,
Đảng và Nhà nước đã quyết định lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là “Ngày Vì
người nghèo”; từ ngày 17 tháng 10 đến 17 tháng 11 hàng năm là “Tháng
hành động cao điểm Vì Người nghèo”; lấy ngày 31 tháng 12 hàng năm là
“Ngày Tết Vì người nghèo”, nhằm huy động tối đa các nguồn lực của toàn xã
hội góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Kể từ khi phát động, ngày 17 tháng 10 năm 2000 đến nay cuộc vận
động “Ngày Vì người nghèo” đã có những hiệu quả rõ rệt khơng chỉ ở Trung
ương mà phong trào này đã lan rộng đến các địa phương trên cả nước. Nhìn
lại những năm qua, với vai trị chủ trì Cuộc vận động, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các cấp đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xố đói, giảm nghèo, đảm
bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Kết quả của cuộc vận động không
chỉ chăm lo đời sống của hàng triệu người nghèo mà còn bồi dưỡng, phát huy
truyền thống đoàn kết, nhân ái của các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố
và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới của đất nước.
Mặc dù năm 2009, thế giới và Việt Nam bị ảnh hưởng khơng nhỏ của
q trình khủng hoảng kinh tế, nhưng phong trào vận động vì người nghèo
của nước ta vẫn được duy trì, nở rộ và đạt kết quả cao. Theo số liệu của Ban
vận động “Ngày vì người nghèo” Trung ương, riêng trong năm 2009, Quỹ Vì
người nghèo đã tiếp nhận được 107.125.636.286 đồng. Như vậy, tính từ khi
phát động (17/10/2000) đến (15/12/2009), quỹ Trung ương đạt kết quả
252.9951.915.301 đồng. Quỹ “Vì người nghèo” của các địa phương đã vận
động được 315,7 tỷ đồng.
Từ nguồn quỹ vận động được, nguồn hỗ trợ của Chính phủ và nguồn
ủng hộ giúp đỡ của các Tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các địa phương
đã xây dựng được 115.972 căn nhà đại đoàn kết cho người nghèo; rất nhiều
hộ gia đình nghèo được giúp đỡ và có điều kiện thốt nghèo.
Cuộc vận động “Ngày Vì người nghèo” khơng chỉ nằm trong phạm vi
của Mặt trận mà còn tạo sức mạnh cho cả hệ thống chính trị và tồn xã hội.
Thơng qua đó thúc đẩy từng hộ gia đình vươn lên thốt khỏi đói nghèo. Thực
tiễn sinh động của cuộc vận động đã góp phần thực hiện hiệu quả các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người nghèo, được đông đảo
các tầng lớp nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Cuộc vận động góp phần đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Phong trào Vì người nghèo không chỉ
diễn ra trong một ngày, một tháng hay một năm mà đó là q trình lâu dài.
Nhiều năm qua, Quỹ Vì người nghèo đã đạt được kết quả như mong
muốn, có sức lan tỏa trên phạm vi tồn quốc. Ban thường trực UBTƯMTTQ
Việt Nam, Quỹ Vì người nghèo Trung ương sẽ tiếp tục phối hợp với Chính
phủ để tiếp tục thực hiện những chính sách an sinh xã hội, trong đó đặc biệt
chú trọng đến 62 huyện nghèo tồn quốc, khơng những giúp hộ nghèo xây
nhà Đại đồn kết mà cịn giúp các hộ nghèo giống, vốn, tư liệu sản xuất…
Theo tinh thần của Ban chỉ đạo Trung ương về cuộc vận động Ngày vì người
nghèo thì sắp tới cuộc vận động sẽ tiếp tục phát triển với quy mô ngày một
rộng lớn. Ban vận động dưới sự chủ trì của Ban thường trực UBTƯMTTQ
Việt Nam đã có nhiều cố gắng khi thực hiện cuộc vận động.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục phát huy những kết
quả đã đạt được tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân, phát huy truyền
thống đoàn kết, tương thân, tương ái chăm lo giúp đỡ cho bộ phận những
người dân, những hộ gia đình cịn nghèo. Làm tốt nội dung cuộc vận động
này sẽ góp phần vào việc xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong thời kỳ mới của đất nước. Cả nước đang hướng về người
nghèo với tấm lòng thương yêu nhất, trách nhiệm cao nhất.
Phát huy truyền thống “Lá lành đùm lá rách” của dân tộc, cùng với việc
phát động phong trào tương thân tương ái của UBTVMTTQVN các cơ quan
báo chí truyền thơng ở Việt Nam cũng vào cuộc để tuyên truyền nhằm giúp
nhân dân hiểu sâu, rộng hơn truyền thống cũng như chủ trương này từ đó biến
thành hành động thiết thức để giúp những người khó khăn, hoạn nạn trong cả
nước.
Thực tế các cơ quan báo chí, các nhà báo đã thể hiện rõ được trách
nhiệm của mình trong tham gia tuyên truyền, hợp tác cùng phát triển rộng hơn
phong trào. Mỗi loại hình báo chí (báo viết, báo phát thanh, báo điện tử, báo
hình…) đã có những cách tun truyền phù hợp và thể hiện được tính hiệu
quả. Đặc biệt, Đài truyền hình Việt Nam - Đài Quốc gia đã thể hiện được rõ
ràng trọng trách của mình trong việc tuyên truyền chủ đề nhân đạo – tương
thân, tương ái. Việc tuyên truyền này được phản ánh nhiều ở các kênh VTV1,
VTV2, VTV3, VTV4 trong đó nội dung này nhiều và rõ nét nhất được phản
ánh ở kênh VTV1 – kênh truyền hình quảng bá với nội dung tổng hợp về mọi
lĩnh vực về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.
Các chương trình truyền hình về nội dung nhân đạo, tuyên truyền tinh
thần sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau của người dân được thực hiện trên kênh VTV1
của Đài khơng ngừng tìm tịi nhằm nâng cao số lượng cũng như chất lượng.
Theo tổng kết của Đài THVN các chương trình đã bước đầu đem lại những
hiệu quả tích cực. Hiệu quả thể hiện ở việc: Số lượng người quan tâm đến nội
dung chương trình truyền hình nhân đạo, tương thân tương ái ln ổn định
thậm chí gia tăng và quan trọng hơn không chỉ dừng lại ở đó họ cịn thay đổi
nhận thức, cùng chung tay góp sức đóng góp bằng vật chất và tinh thần thơng
qua cầu nối là các chương trình truyền hình nhân đạo của Đài nhằm gửi tới bà
con có hồn cảnh khó khăn ở mọi miền Tổ quốc. Cùng với nhiều người trong
nước, chương trình cũng đã huy động được nhiều sự đóng góp của các nhà
hảo tâm ngồi nước. Ví dụ như các chương trình: Trái tim cho em, Về quê,
Biển đảo quê hương, Cùng em đến trường. Đây là những chương trình tuy
thời lượng phát sóng ngắn nhưng cũng đã để lại hiệu quả thiết thực cho các
đối tượng là những người nghèo, học sinh, trẻ em khuyết tật, trẻ mồ côi người
già cô đơn…
Tuy nhiên, với ưu thế hình ảnh âm thanh sinh động và sức lan tỏa rộng
lớn của mình, theo đánh giá thì các chương trình truyền hình nhân đạo trên
kênh VTV1 của Đài truyền hình Việt Nam chưa phát huy tối đa được thế
mạnh của mình – kênh truyền hình quảng bá được đơng đảo người dân lựa
chọn để đón xem chương trình. Trong khi tiềm năng tuyên truyền về lĩnh vực
này của nhà Đài rất lớn nhưng chưa khai thác hết, số lượng người biết tới các
chương trình vẫn cịn ít, mới khai thác được thường xuyên những nhà hảo tâm
lớn việc mở rộng những nguồn hỗ trợ, tài trợ cịn chậm và ít; số lượng những
cá nhân đóng góp còn nhỏ lẻ; … nhận thức về vấn đề tương thân tương ái, sự
nhân văn trong cuộc sống của công chúng đặc biệt là giới trẻ còn chưa
nhiều….
Vậy nên, việc cần có những tổng kết, đánh giá một cách đúng đắn hiệu
quả của những chương trình truyền hình nhân đạo trên Đài truyền hình Việt
Nam nhằm chỉ ra hiệu quả đích thực về nhận thức, hành động của khán giả của cộng đồng với xã hội và chỉ ra những mặt hạn chế của chương trình trong
việc mở rộng, nâng cao hơn nữa hiệu quả chương trình trong thời gian tới là
vơ cùng cần thiết. Chính vì vậy, tơi đã lựa chọn đề tài: “Hiệu quả các chương
trình truyền hình nhân đạo trên kênh VTV1 – Đài truyền hình Việt Nam
hiện nay” để nghiên cứu làm đề tài tốt nghiệp bậc Thạc sỹ báo chí của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Xung quanh đề tài truyền hình, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu. Một
số cơng trình nghiên hẳn về đặc trưng cơng chúng truyền hình như cơng trình:
“Đặc điểm cơng chúng truyền hình hiện nay” của tác giả Trần Bảo Khánh,
hoặc về quảng cáo truyền hình: Truyền hình- những lát cắt ra tiền (Ngọc
Lan), hay về xu thế phát triển truyền hình: Truyền hình và câu chuyện xã hội
hóa (Nguyễn Kim Trạch), Tìm hiểu kinh tế truyền hình (Bùi Chí Trung).
Về chương trình truyền hình, một số cơng trình bước đầu nghiên cứu,
tìm hiểu nhưng thường nghiêng về các chương trình game show mang tính
giải trí, truyền hình thực tế như Chương trình truyền hình thực tế ở Việt Nam
hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Hằng.
Vấn đề truyền hình nhân đạo vẫn còn là địa hạt nghiên cứu trống. Một
vài cơng trình: Tun truyền An ninh xã hội trên kênh truyền hình Cơng An
nhân dân (tác giả Nguyễn Thị Lệ Hồng), Vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em
trên truyền hình BiBi (tác giả Lê Thị Minh Huyền),… các chương trình truyền
hình nhân đạo chỉ được nghiên cứu khái lược. Duy nhất cơng trình nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Thị Khánh Ngọc: Nâng cao hiệu quả của truyền hình xã
hội của Đài Phát thanh- Truyền hình Tiền Giang bắt đầu coi các chương trình
truyền hình vì cộng đồng là trọng tâm nghiên cứu, tuy nhiên cơng trình lại
mang nặng về xây dựng, kiến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng chương
trình truyền hình ở địa phương mà chưa khẳng định được hiệu quả to lớn của
các chương trình này.
Các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên dù chưa nghiên cứu đầy đủ về
chương trình truyền hình nhân đạo, cũng như chưa khẳng định, phân tích làm
rõ được hiệu quả to lớn của các chương trình truyền hình này, chưa có sự
khảo sát sâu rộng ở kênh truyền hình Trung ương nhưng là những tài liệu quý
báu, bổ ích, định hướng gợi mở để tôi mở rộng phạm vi nghiên cứu đề tài
luận văn của mình. Kế thừa và phát triển những giá trị của thế hệ đi trước,
chúng tôi lựa chọn vấn đề: Hiệu quả của chương trình truyền hình nhân
đạo trên kênh VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam hiện nay (Khảo sát từ
tháng 5/2014 đến tháng 5/2015) làm đề tài luận văn, hi vọng với cơng trình
nghiên cứu này sẽ góp thêm một cách nhìn, một cách hiểu về chương trình
truyền hình nhân đạo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và khảo sát về nội dung, hình thức, phương thức
sản xuất các chương trình truyền hình truyền hình về nội dung nhân đạo phát
sóng trên kênh VTV1, luận văn sẽ chỉ rõ những hiệu quả của các chương trình
(hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế); những hạn chế cịn tồn tại, ngun nhân
của những thành cơng, hạn chế; từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả các chương trình nhân đạo trên sóng truyền
hình, đáp ứng nhiệm vụ tun truyền mà Đảng và Nhà nước giao phó, đồng
thời đáp ứng nhu cầu thưởng thức thông tin, nhu cầu giúp đỡ, chia sẻ vật chất
và tinh thần với những người nghèo khó của đơng đảo khán giả trên cả nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
Một là: Làm rõ những vấn đề công tác nhân đạo của Đảng và Nhà nước
ta trước hết phải hiểu: khái niệm, vai trò, thế mạnh và hạn chế của truyền hình
trong cơng tác truyền thơng vấn đề nhân đạo trên sóng Đài THVN.
Hai là: Tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích làm rõ thực trạng, thành
công, hạn chế và hiệu quả của các chương trình nhân đạo trên kênh VTV1
trong việc thực hiện vai trị truyền thơng để đạt được hiệu quả huy động được
sự đồng lịng giúp đỡ của tồn xã hội.
Ba là: Đề xuất hệ thống những giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả và phát huy vai trị truyền thơng các chương trình nhân đạo,
xã hội trên sóng VTV trong thời gian tới.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả (hiệu quả xã hội và hiệu
quả kinh tế) của các chương trình truyền hình nhân đạo trên kênh VTV1 – Đài
truyền hình Việt Nam.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Các chương trình tuyên truyền nội dung nhân đạo trên kênh
VTV1
Chúng tôi chỉ chọn kênh VTV1 để khảo sát bởi hiện nay kênh này đang
là kênh có số lượng chương trình chun sâu về chủ đề này nhiều nhất. Các
chương trình khơng chỉ được phát ở kênh VTV1 mà cịn được phát lại ở
kênhVTV2, VTV3 và VTV4.
Chúng tơi chọn 4 chương trình để khảo sát đó là các chương trình: “Về
quê”, “Trái tim cho em”, “Cùng em đến trường” và “Biển đảo quê hương”
+“Về quê” - Chương trình hướng tới đa dạng đối tượng.
+ “Trái tim cho em”, “Cùng em đến trường” - Nhóm chương trình
chun về đối tượng trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, thầy và trò nghèo nhưng
nỗ lực vượt khó…
+ “Biển đảo quê hương” - Đại diện cho nhóm chương trình nhân đạo
theo dịng sự kiện chính trị, được tuyên truyền theo nhân vật, sự kiện.
Đây là 4 chương trình thể hiện rõ nét nhất vai trị của truyền hình trong
việc tun truyền về chủ đề nhân đạo, tương trợ, tương thân tương ái giúp đỡ
nhau vượt lên sự khó khăn của cuộc sống và đây cũng là những chương trình
được đánh giá là có hiệu quả truyền thông lớn về vấn đề này trên Đài Truyền
hình Việt Nam thời gian gần đây. Đồng thời là 4 chương trình nằm trong
“top” có “raiting” và sự quan tâm cao của khán giả đối với các chương trình
của VTV.
- Các nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý, các phóng viên của Đài
THVN
Chúng tơi tập trung vào những người trực tiếp sản xuất và quản lý các
chương trình truyền hình về nội dung nhân đạo.
- Khán giả truyền hình
Đặc biệt chúng tơi sẽ khảo sát các đối tượng là học sinh, sinh viên,
người già cô đơn, khuyết tật, mồ côi, các ngư dân, chiến sỹ bảo vệ chủ quyền
biển đảo thiêng liêng của tổ quốc….
4.3. Phạm vi khảo sát
Luận văn tập trung vào khảo sát các chương trình: “Về quê”, “Trái tim cho
em”, “Cùng em đến trường” và “Biển đảo quê hương” phát sóng trên kênh
VTV1 từ tháng 5/2014 - 5/2015.
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu ở một số trường với các cấp bậc và hệ học vấn khác nhau trên địa
bàn Hà Nội. Dự kiến khảo sát ở Trường tiểu học Đoàn Thị Điểm (Quận Cầu
Giấy, Học Viên Báo chí và Tuyên Truyền (Quận Cầu Giấy); Trung ương Hội
chữ Thập đỏ Việt Nam (Quận Hai Bà Trưng) Hội Bảo trợ người Tàn tật và trẻ
mồ côi Việt Nam (Quận Hai Bà Trưng); những người được hỗ trợ từ nguồn
tiền thu được từ chương trình và khán giả…. Đây là những đối tượng nghiên
cứu chủ yếu của đề tài đó là nhóm học sinh, sinh viên, người già, cán bộ
chuyên môn về nhân đạo, khán giả - những người đã từng có những nghiên
cứu, đóng góp, tham gia phong trào về từ thiện, nhân đạo và được hưởng lợi
ích từ chương trình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là các quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
Nhà nước và các chủ trương, định hướng của ngành giáo dục về cơng tác báo
chí; một số lý thuyết về báo chí nói chung và báo chí truyền hình nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi sử dụng kết hợp một số phương
pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phương pháp này được sử dụng nhằm khái quát, hệ thống hóa, bổ sung
mặt lý thuyết về truyền hình nói chung, giáo dục nhân cách sống, đạo đức, tấm
lòng nhân đạo trong con người….Đây chính là những lý thuyết cơ sở đánh giá
các kết quả khảo sát thực tế và đưa ra những giải pháp khoa học cho vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê:
Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định tần số xuất hiện, mức
độ phát triển, chất lượng, hiệu quả những chương trình có nội dung phát sóng
của chương trình nhân đạo trên VTV. Phương pháp này được dựa chủ yếu vào
việc tác giả phải lưu giữ, xem lại các chương trình liên quan đến vấn đề khảo
sát từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015 trên kênh VTV1.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, khảo sát việc đáp ứng
nhu cầu thơng tin giáo dục lòng nhân đạo, thiện nguyện của con người thơng
qua các chương trình nhân đạo trên kênh sóng của VTV như thế nào với khán
giả.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Phương pháp này nhằm khảo sát thực trạng tiếp nhận thơng tin chương
trình nhân đạo của mọi đối tượng của các chuyên mục nhân đạo phát sóng
trên Đài THVN.
+ Tác giả phát phiếu trưng cầu ý kiến ngẫu nhiên cho 500 người tại Hà
Nội. Cụ thể: Trường tiểu học Đoàn Thị Điểm (Quận Cầu Giấy, Học viện Báo
chí và Tuyên Truyền (Quận Cầu Giấy); Trung ương Hội chữ Thập đỏ Việt
Nam (Quận Hai Bà Trưng); Hội Bảo trợ người Tàn tật Việt Nam (Quận Hai
Bà Trưng); những người được hỗ trợ từ chương trình và khán giả truyền
hình…
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được thực hiện với 03 Lãnh đạo kênh, 02 lãnh đạo
phòng, 05 phóng viên, 03 chuyên gia, 05 khách mời của kênh VTV1 - người đã
từng tham gia chương trình nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân xung
quanh vấn đề nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đặt ra một số giả thuyết sau:
- Giả thuyết thứ nhất: Tuyên truyền các vấn đề nhân đạo trên sóng
VTV qua một số chương trình nhằm huy động sự vào cuộc của mọi tầng lớp
trong xã hội. Việc truyền thông các chương trình sẽ khó khai thác, khó có
được hiệu quả rộng lớn nếu không khai thác thêm các cách thức khác trong đó
có các phương tiện truyền thơng, đặc biệt là truyền hình. Vì vậy, sẽ khơng
thấy hết được vai trị của hoạt động truyền thơng về những nhân vật khó khăn
trong xã hội cho các đối tượng,cũng như trách nhiệm, thế mạnh, hạn chế của
truyền hình trong vấn đề này nếu không nghiên cứu một cách khách quan và
cụ thể những vấn đề liên quan. Cụ thể từ khái niệm, nội dung, vai trị của hoạt
động truyền thơng, giáo dục đạo đức ý thức trách nhiệm của mọi tầng lớp
nhân dân trong chia sẽ khó khăn trong cuộc sống, đến vai trị, thế mạnh, hạn
chế của loại hình truyền hình trong hoạt động này cùng với đó là chỉ ra những
tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động truyền thông về vấn đề nhân đạo,
thiện nguyện trên truyền hình.
- Giả thuyết thứ hai: Các chương trình nhân đạo trên Đài truyền hình
Việt Nam đã bước đầu được quan tâm, đặc biệt là trên kênh VTV1. Hoạt động
này đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn
nhiều những hạn chế, hiệu quả chưa cao. Nếu khơng có những khảo sát, phân
tích một cách khách quan, khoa học thực trạng đang diễn ra từ đó chỉ ra
những thành cơng, hạn chế, những giải pháp hợp lý thì hoạt động tuyên truyền
về vấn đề này cho mọi tầng lớp trong xã hội trên kênh VTV1 sẽ khó phát huy
hết hiệu quả.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận - nhận thức:
Luận văn hệ thống hố và phân tích cụ thể về vai trị của các chương
trình nhân đạo trên Đài Truyền hình Việt Nam, các chương trình đó đã là
những cầu nối thơng tin, gắn kết mọi người trong xã hội chung tay ủng hộ
giúp đỡ những đối tượng khó khăn, khơng may mắn trong xã hội.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt động xã hội từ thiện
nhân đạo của các tổ chức thiện nguyện, các công ty truyền thơng, các tập
đồn nhân đạo trong nước. Đặc biệt đề tài là tài liệu hữu ích cho những học
sinh, sinh viên, các bạn trẻ có tinh thần thiện nguyện vì cộng đồng nghiên
cứu và cơ sở đào tạo về báo chí, thơng qua việc đưa ra những phân tích cụ
thể về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thơng về các
chương trình nhân đạo trên báo chí nói chung và ở truyền hình, nói riêng.
- Về mặt thực tiễn:
Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cho thấy một cách nhìn cụ thể, bản chất
hơn, chỉ ra sự cần thiết của các chương trình mang tính nhân đạo, thiện
nguyện trong xã hội giáo dục lòng yêu nước, thương dân, tinh thần sẻ chia
tương thân tương ái… của mọi tầng lớp trong xã hội, giáo dục đạo đưc, lối
sống cho mọi tầng lớp trong xã hội. Từ đó gợi ý giúp các nhà quản lý đưa ra
được những tiêu chí để có thể sản xuất được những chương trình truyền hình
có nội dung hấp dẫn hơn, phù hợp hơn với khán giả từ đó đạt tới mục tiêu đạt
được hiệu quả cao hơn. Đồng thời, đặt ra những yêu cầu với các nhà báo rèn
luyện kỹ năng và kiến thức nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền về vấn đề
nhân đạo trên truyền hình từ đó tạo uy tín của cơ quan báo chí nói chung và
Đài Truyền hình Việt Nam nói riêng.
Bên cạnh đó, tác giả hi vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích
cho những người quan tâm.
8. Kết cấu luận văn
- Luận văn được chia thành 3 phần chính: Phần mở đầu; Phần nội dung
và Phần kết luận. Cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trị, hiệu quả của
các chương trình nhân đạo trên sóng truyền hình.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh tế và xã hội của chương trình nhân
đạo trên kênh VTV1 hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của
chương trình truyền hình nhân đạo trên kênh VTV1 thời gian tới.
- Ngoài ra, luận văn cịn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục...
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRỊ
VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH NHÂN ĐẠO
TRÊN SĨNG TRUYỀN HÌNH
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Nhân đạo
Nhân đạo có gốc Latinh (Humannus) có nghĩa là về con người, về tính
người, có học thức (Những ngun lý của chủ nghĩa Mác- Lê-nin). Theo
nghĩa hẹp, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu tư tưởng thế tục của thời đại
Phục Hưng, gắn với việc nghiên cứu các di sản cổ đại trong triết học, luân lý
học, nghệ thuật và mơ tả đặc điểm của nền văn hóa của thời đại Phục Hưng.
Theo nghĩa rộng, nhân đạo là một trào lưu tiến bộ, là tổng hợp các quan
điểm bảo vệ phẩm giá và quyền con người, là sự chăm lo đến hạnh phúc và sự
phát triển toàn diện của con người.
Hay nói cách khác, nhân đạo là đạo đức thể hiện ở sự yêu thương, quý
trọng và bảo vệ con người, tôn trọng giá trị, phẩm chất của con người
[17;216]. Nó bao gồm những ngun tắc đạo lí làm người, thái độ đối xử tốt
lành trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, những khát vọng sống,
khát vọng về hạnh phúc. Đó cịn là tấm lịng cảm thương cho mọi kiếp người
đau khổ, đặc biệt là với trẻ em, phụ nữ và những người lương thiện gặp hoạn
nạn, khó khăn …
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cùng với truyền thống
yêu nước, truyền thống nhân đạo luôn được giữ vững và nâng cao trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc, trở thành một tình cảm sâu sắc, một lẽ sống cao đẹp,
là phong tục tập quán được các thế hệ nối tiếp nhau nâng niu, giữ gìn và trân
trọng bồi đắp.
1.1.2. Chương trình truyền hình
Truyền hình là loại hình phương tiện thơng tin đại chúng mới xuất hiện
từ khoảng giữa thế kỷ XX, nhưng nhanh chóng phát triển và được phổ biến
hết sức rộng rãi trong vài ba thập niên trở lại đây. Thế mạnh đặc trưng của
truyền hình là cung cấp thơng tin dưới dạng hình ảnh (kết hợp âm thanh và ở
mức độ nhất định cả với chữ viết) mang tính hấp dẫn sinh động, trực tiếp và
tổng hợp. Chính thế mạnh này đã quy định nên quy trình sản xuất, sáng tạo
tác phẩm của truyền hình đồng thời xuất hiện một thuật ngữ mới: chương
trình truyền hình.
Theo tác giả Trần Bảo Khánh thì chương trình là kết quả cuối cùng của
quá trình giao tiếp với cơng chúng [37;10]. Với khái niệm này, người ta có
thể thấy rằng: từ phương tiện kỹ thuật truyền bá thơng tin, nhiệm vụ của
chương trình là làm sao để có thể đưa ra được lời giải đáp, lời hướng dẫn cho
thực tế khi xây dựng chương trình truyền hình, quy định được nguyên tắc
phối hợp tin bài. Đây là một khuynh hướng tiếp cận hoàn toàn mang tính chất
nghề nghiệp nội tại, là hệ quả của việc nghiên cứu, tiếp xúc với xã hội, là kết
quả của mối quan hệ giữa truyền hình và cơng chúng sau khi chịu tác động
của thơng tin truyền hình.
Mặt khác, cũng có thể thấy rằng, chương trình- đó là hình thức thực tế
hóa, hình thức vật chất hóa sự tồn tại của truyền hình trong đời sống xã hội
để truyền tải thơng tin đối với cơng chúng [37;13]. Nói cách khác, cũng như
sản phẩm khác, truyền hình có người sản xuất và người tiêu dùng. Chính điều
này thành chu kỳ khép kín những mắt xích trong chuỗi giao tiếp.
Như vậy chương trình truyền hình là sản phẩm truyền hình, là kết quả
hoạt động của truyền hình, trong đó bao hàm cả q trình sáng tạo ra nó từ
nhiều công đoạn khác nhau, tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau, quá trình tạo
dựng và sắp đặt tác phẩm, chun mục, mục. Chương trình truyền hình cịn là
sản phẩm của tập thể bao gồm các bộ phận nội dung- kỹ thuật. Mục tiêu tư
tưởng của chương trình truyền hình, dù thế nào đi chăng nữa cũng chứa đựng
việc hình thành thế giới quan của xã hội, tính tư tưởng trong chương trình
truyền hình được thực hiện một cách trực tiếp trong ý thức và trong sự cụ thể
của những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của xã hội trong từng giai đoạn cụ
thể.
Cùng với sự sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, truyền hình ngày càng
phát triển kể cả về chất và lượng. Sự phát triển của các dịch vụ truyền hình
cáp, truyền hình vệ tinh, đặc biệt truyền hình độ phân giải cao HDTV đã để
lại dấu ấn trong lịch sử phát triển của lĩnh vực truyền hình.
Trong những năm gần đây, tiến trình số hóa đang là xu hướng tất yếu
của các đài phát thanh truyền hình trên thế giới hướng tới, nhằm nâng cao
hiệu quả thông tin truyền thông, đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng, nhiều
chiều của khán thính giả. Hiện nay, khán giả không nhất thiết phải ngồi tại
nhà, trước màn hình ti vi để xem truyền hình. Khán giả có thể xem truyền
hình ở bất kỳ đâu và bất kỳ khi nào thơng qua các thiết bị có kết nối internet
như máy tính hay điện thoại di động. Thực tế này đã tạo ra một lượng khán
giả khổng lồ cho ngành truyền hình.
Tuy nhiên, đây cũng là thách thức khơng nhỏ đối với những nhà sản
xuất chương trình truyền hình hiện nay. Trong đó thách thức lớn nhất nằm ở
tính trung thực và chất lượng của chương trình. Bởi chỉ có những chương
trình gần gũi với đời sống và thực sự hấp dẫn mới thu hút được sự quan tâm
của khán giả. Nếu không, họ rất dễ dang chuyển sang những chương trình,
những nguồn thơng tin phù hợp hơn trên mạng internet.
1.1.3. Chương trình truyền hình nhân đạo
Chương trình truyền hình tùy theo nội dung, mục đích cũng như
phương tiện, cách thức thực hiện mà phân chia thành các dạng thức khác
nhau. Dựa vào cách thức sản xuất có thể phân chia chương trình truyền hình
thành 2 dạng trực tiếp và qua băng từ [37;10]. Dựa vào nội dung truyền tải,
chương trình truyền hình phân chia thành chương trình chính luận, giải trí và
nhân đạo,…
Chương trình truyền hình nhân đạo là chương trình truyền hình lấy nội
dung nhân đạo làm cốt yếu nhằm chia sẻ những thông điệp yêu thương, sẻ
chia đồng thời làm cầu nối giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, khơng may
mắn. Chương trình truyền hình nhân đạo mang tính nhân văn sâu sắc, người
thực việc thực, không chấp nhận yếu tố dàn dựng, hư cấu. Chính vì vậy,
chương trình nhân đạo dễ được cơng chúng đón nhận, tin tưởng. Tuy nhiên do
mang tính phi lợi nhuận nên khơng phải lúc nào chương trình nhân đạo cũng
thu hút nhà sản xuất truyền hình. Đặc biệt, do mục đích chương trình là xoay
quanh việc tun truyền, kêu gọi giúp đỡ những số phận, hoàn cảnh đặc biệt
nên để sản xuất ra một chương trình truyền hình vừa nhân đạo vừa mang bản
sắc riêng, hấp dẫn được công chúng không phải là điều dễ.
Sau thời gian bùng phát chương trình truyền hình thực tế thuần giải trí,
khán giả khơng mặn mà với các chiêu trị câu khách kiểu bi kịch hóa số phận
nhân vật hay quá dàn dựng. Nên giờ đây, mỗi khi có sự cố xảy ra trên các sân
chơi này, khán giả ln nghi vấn có dàn dựng. Người bị nạn không những
không nhận được sự sẻ chia của cơng chúng mà cịn bị lên án khi trở thành
nhân tố “tiếp tay” cho nhà tổ chức trong mục đích tăng lượt khán giả xem
chương trình. Khi làn sóng chương trình truyền hình giải trí ngày càng chìm
lắng, nhất là mới đây với quyết định dừng phát sóng một số chương trình, các
chương trình truyền hình nhân đạo trở nên được “quan tâm”, từ cả khán giả
đến những đơn vị tổ chức, sản xuất và tài trợ. Một số chương trình truyền
hình nhân đạo ra đời, bên cạnh đó các chương trình truyền hình nhân đạo như:
Trái tim cho em, Về quê, Biển đảo quê hương, Cùng em đến trường,…giữ lượt
người xem ổn định và cải tiến qua từng giai đoạn phát sóng để thu hút hơn.
Chương trình truyền hình nhân đạo đang từng bước lấn sóng mang đến những
tác động tích cực thay đổi suy nghĩ, hành động của công chúng cũng như nhà
sản xuất truyền hình.
1.1.4. Hiệu quả
Hiệu quả là sự tác động có ảnh hưởng gây ấn tượng, là kết quả đích
thực [11; 175] của một q trình hay một hoạt động. Hiệu quả được nhìn nhận
dưới hai dạng. Một là hiệu quả kinh tế, đây là kết quả dễ nhận biết nhất,
thường được đong đếm ngay tại thời điểm hoạt động diễn ra hoặc mới kết
thúc. Hai là hiệu quả xã hội. Hiệu quả này có được từ việc hoạt động, q
trình tác động đến nhóm đối tượng và thay đổi suy nghĩ, hành động của nhóm
đối tượng theo mục đích, phương châm của hoạt động. Hiệu quả này thường
mang tính q trình, nó khơng dễ được nhận biết ngay khi hoạt động, quá
trình kết thúc. Tuy nhiên nếu quá trình, hoạt động tạo được hiệu quả xã hội
thay đổi được nhận thức, hành động một cách tích cực thì sẽ cho ra một bội số
hiệu quả kinh tế.
1.1.5. Hiệu quả chương trình truyền hình nhân đạo
Đài truyền hình Việt Nam được thành lập năm 1965 và từ đó đến nay
ln là cơ quan báo chí trọng điểm quốc gia, đóng vai trị quan trọng trong
việc định hướng tư tưởng chính trị, đường lối, chủ trương chính sách lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước đối với mọi người dân. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, việc phát triển thương hiệu Đài truyền hình Việt Nam không chỉ gắn
với gia tăng các kênh truyền hình; nâng cao chất lượng phóng viên, người sản
xuất chương trình truyền hình; số hóa truyền hình mà quan trọng cần phải có
đầu tư phát triển các chương trình truyền hình nhân đạo, vì cộng đồng.
Các chương trình truyền hình về nội dung nhân đạo, tuyên truyền tinh
thần sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau của người dân nói chung và những chương
trình truyền hình nhân đạo được thực hiện trên kênh VTV1 của Đài truyền
hình Việt Nam khơng ngừng tìm tòi nhằm nâng cao số lượng cũng như chất
lượng và tạo được những hiệu quả nhất định.
Trước hết về hiệu quả kinh tế, theo tổng kết của nhà đài các chương
trình đã bước đầu đem lại những hiệu quả tích cực. Các chương trình truyền
hình nhân đạo đã đóng góp vào quỹ phúc lợi mỗi năm hàng tram tỷ đồng, xây
hàng nghìn ngơi nhà, trường học, bệnh viện, giúp đỡ hàng nghìn mảnh đời có
hồn cảnh khó khăn, số phận không may mắn,…
Về hiệu quả xã hội, số lượng người quan tâm đến nội dung chương
trình truyền hình nhân đạo, tương thân tương ái ln ổn định thậm chí gia
tăng và quan trọng hơn khơng chỉ dừng lại ở đó họ cịn thay đổi nhận thức,
cùng chung tay góp sức đóng góp bằng vật chất và tinh thần thơng qua cầu
nối là các chương trình truyền hình nhân đạo nhằm gửi tới bà con có hồn
cảnh khó khăn ở mọi miền Tổ quốc.
Như vậy chương trình truyền hình nhân đạo có hiệu quả to lớn, gắn kết
người với người bằng tình u thương, sự sẻ chia và cảm thơng sâu sắc. Nó tạo
ra hiệu ứng xã hội mang tính nhân văn cao cả, khơi gợi tình yêu thương con
người và truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc, xoa dịu những nỗi đau
mất mát cùa những mảnh đời khơng may mắn đồng thời góp phần tạo động lực
cho các cá nhân phát triển kinh tế, thu hẹp hố sâu ngăn cách giàu- nghèo.
1.2. Những nội dung cơ bản về hoạt động nhân đạo
Trong Hiến chương nhân đạo và các tiêu chuẩn tối thiểu trong cứu trợ nhân
đạo khẳng định nguyên tắc lấy con người là trung tâm là cơ sở của mọi hoạt động
nhân đạo. Trong đó con người được hưởng đầy đủ các quyền: Quyền được sống có
nhân phẩm, Quyền được tiếp nhận sự trợ giúp nhân đạo; Quyền được bảo vệ và
đảm bảo an ninh. [45; 23]
Quyền được sống có nhân phẩm được thể hiện qua các điều khoản của
luật pháp quốc tế và, đặc biệt, các quyền con người liên quan đến quyền được
sống, được hưởng một mức sống hợp lý và quyền không bị tra tấn hay bị đối
xử vô đạo đức, vô nhân đạo và tàn bạo, hay bị trừng trị. Quyền được sống bao
hàm nghĩa vụ bảo tồn sự sống khi sự sống bị đe dọa. Hàm chứa trong điều
này là nghĩa vụ không từ chối hay ngăn trở việc cung cấp trợ giúp nhằm cứu
sinh mạng. Nhân phẩm có ý nghĩa nhiều hơn là sự đầy đủ về vật chất; nó địi
hỏi sự tơn trọng con người, trong đó có các giá trị và tín ngưỡng của các cá
nhân và cộng đồng bị ảnh hưởng, và tơn trọng các quyền con người của họ,
trong đó có quyền tự do, quyền tự do lương tâm và quyền tuân thủ lễ tiết tôn
giáo.
Quyền tiếp nhận trợ giúp nhân đạo là một yếu tố cần thiết của quyền
được sống có nhân phẩm. Nó bao hàm quyền được hưởng một mức sống hợp
lý, trong đó có thức ăn, nước uống, quần áo, chỗ ở phù hợp và các nhu cầu về
sức khỏe tốt được bảo đảm rõ ràng trong luật pháp quốc tế. Bất kỳ một sự trợ
giúp nào như vậy đều phải được cung cấp trên nguyên tắc vô tư, tức là được
cung cấp thuần túy trên cơ sở nhu cầu và tỷ lệ thuận với nhu cầu. Điều này
phản ánh nguyên tắc bao quát hơn về không phân biệt đối xử: rằng không
được phân biệt đối xử với bất kỳ người nào trên cơ sở địa vị, kể cả tuổi tác,
giới, chủng tộc, màu da, dân tộc, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, khuyết tật, sức
khỏe, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hay xã hội.
Quyền được bảo vệ và bảo đảm an ninh bắt nguồn từ các điều khoản
của luật pháp quốc tế, các nghị quyết của LHQ và của các tổ chức liên chính
phủ khác, và từ trách nhiệm chủ quyền Nhà nước trong việc bảo vệ tất cả
những người trong pháp quyền của họ. An toàn và an ninh của những người
gặp thiên tai hay xung đột là mối quan tâm nhân đạo đặc biệt, trong đó có việc
bảo vệ người tị nạn và người di tản nội địa, bảo vệ an ninh và toàn vẹn lãnh
thổ.
Những quyền trên đã quy định nội dung cơ bản của hoạt động nhân đạo
sau:
Thứ nhất hỗ trợ về vật chất, tinh thần cho các cá nhân, tổ chức có hồn
cảnh khó khăn hoặc cần giúp đỡ do những biến động chiến tranh, thiên tai,
thảm họa. Bao gồm các hoạt động như cứu trợ lương thực, thực phẩm, cơ sở
hạ tầng, vật chất; chăm sóc sức khỏe,...
Thứ hai tuyên truyền giá trị nhân đạo từ đó phát động phong trào, kêu
gọi sự hưởng ứng, chung tay. Các hoạt động vì giá trị nhân đạo đều thường
hoạt động mang tính vơ tư, khơng tư lợi, tự nguyện nhằm mục đích giúp đỡ
hoặc kêu gọi sự giúp đỡ đối với các hoàn cảnh đặc biệt.
Các chương trình truyền hình nhân đạo thường khơng phân tách các nội
dung ấy mà gộp lại để tạo được những hiệu quả tối ưu. Chẳng hạn như các
chương trình Về quê, Biển đảo quê hương, Trái tim cho em, Cùng em đến
trường bên cạnh nội dung hỗ trợ về vật chất, tinh thần cho các hoàn cảnh đặc
biệt mà thơng qua đó kêu gọi, phát động sự giúp đỡ, đóng góp của cơng
chúng, tạo nên hiệu ứng xã hội gắn kết con người. Đặc biệt tính chất nhân
văn, nhân đạo của các chương trình truyền hình này giúp con người có niềm
tin vào xã hội, tin vào chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước từ đó tạo
nên một mối đồn kết, thống nhất tồn dân.
1.3. Vai trị của các chương trình truyền hình nhân đạo trong xã hội
1.3.1. Truyền hình góp phần giúp đỡ các mảnh đời khó khăn trong
xã hội
Trong những năm qua, báo chí nói chung và truyền hình nói riêng đã
tích cực tổ chức sản xuất, sáng tạo các tác phẩm, chương trình vì cộng đồng
giúp đỡ những mảnh đời khó khăn trong xã hội, góp phần xóa đói giảm
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Hàng loạt các chương trình truyền hình nhân đạo ra đời như: Trái
tim cho em, Biển đảo quê hương, Cùng em đến trường, Về quê, Nối vòng tay
nhân ái, Trao học bổng niềm hy vọng, Đỡ đầu cho các cháu mồ cơi,... đã tích
cực vận động, kêu gọi những nhà hảo tâm, các cơ quan chức năng cùng các
đơn vị chung tay góp sức cho những mảnh đời bất hạnh. Có thể nói, truyền
hình đã góp phần giúp biết bao con người có thêm hy vọng vào cuộc sống.
Người làm truyền hình đã nối được những vịng tay chia sẻ để thắp sáng lên
ngọn lửa ước mơ, tạo sự phấn đấu cho người nghèo, người đang trong cảnh
khổ...
Chưa có một con số chính xác cho biết truyền hình đã tham gia góp
sức đồng cảm và chia sẻ cùng với các hoạt động từ thiện của cộng đồng là bao
nhiêu, song chỉ biết rằng hàng năm có hàng nghìn lượt người được hỗ trợ. Từ
việc hỗ trợ cho trẻ em mồ côi nhiễm HIV/AIDS, người khuyết tật, nạn nhân
chất độc da cam,... đến việc kêu gọi xây dựng nhà cho người nghèo, nhà tình
nghĩa cho các gia đình chính sách và người có cơng, trường dạy nghề miễn
phí cho con em nhà nghèo, tặng xe lăn cho những người tàn tật, tặng quà cho
trẻ em mồ cơi, tàn tật, cung cấp chi phí để phẫu thuật tim cho trẻ em nghèo...
đều có sự tham gia tích cực của truyền hình.
1.3.2. Truyền hình góp phần nâng cao ý thức, lịng cảm thơng của
mọi tầng lớp nhân dân với những hồn cảnh khó khăn trong cuộc sống
Thơng qua việc nêu lên những hồn cảnh khó khăn cần sự giúp đỡ,
truyền hình kêu gọi sự chung tay giúp sức của cộng đồng. Chính truyền hình
là cầu nối tin cậy để các nhà hảo tâm chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh và
cũng chính truyền hình giúp những người khó khăn cảm nhận tình u
thương, đùm bọc, sẻ chia của cộng đồng từ đó có thêm niềm tin, nỗ lực vượt
lên hoàn cảnh.
1.4. Thế mạnh và hạn chế của truyền hình trong tuyên truyền nội dung
nhân đạo
1.4.1. Thế mạnh
Truyền hình với ưu thế phản ánh hiện thực bằng âm thanh và hình
ảnh tạo nên những thước phim chân thực, sống động khắc họa những mảnh
đời, số phận khốn khổ, bất hạnh. Những cảnh quay, những góc máy cùng cách
kể chuyện đã khiến người xem dễ tiếp cận, đồng cảm hơn với số phận của
nhân vật để từ đó thức tỉnh tình u thương, sự sẻ chia đồng loại qun góp
giúp đỡ phần nào những hồn cảnh khó khăn.
Truyền hình bằng hình ảnh chân thực cũng khiến công chúng tin
tưởng vào sự thật phản ánh trong tác phẩm. Khơng ai biết ẩn sau mặt báo, số
phận, hồn cảnh của nhân vật có đúng như nhà báo kể khơng cịn với truyền
hình, cơng chúng có thể tận mắt thấy, tận tai nghe vì vậy yếu tố khách quan,
tin tưởng dễ đạt được hơn các thể loại báo chí khác.
1.4.2. Hạn chế
Ưu thế âm thành và hình ảnh đơi khi cũng là hạn chế của truyền
hình. Điều này thể hiện ở quá trình sản xuất tác phẩm. Trong khi các thể loại
báo chí khác chỉ cần những thiết bị tác nghiệp đơn giản: bút, giấy, máy ghi
âm, điện thoại,... thì truyền hình cần một ekip hùng hậu với các thiết bị hiện
đại máy quay, mic, đèn,...Các loại hình báo chí khác có thể thơng qua đội ngũ
cộng tác viên biết về hồn cảnh nhân vật từ đó sáng tạo ra tác phẩm cịn
truyền hình, bắt buộc phải xuống tận hiện trường khảo sát và ghi hình. Điều
này gây cản trở lớn trong việc di chuyển tác nghiệp ở vùng sâu, vùng xa, địa
hình hiểm trở, giao thơng khó khăn.
Truyền hình nhân đạo mang tính tuyên truyền ít mang tính giải trí
nên khó thu hút người xem. Từ đấy khó nhận được tài trợ khơng giống như
các show game giải trí. Ngồi ra việc sản xuất các chương trình truyền hình
nhân đạo gặp nhiều khó khăn nhất là trong khâu tìm kiếm nhân vật, đánh giá
hồn cảnh. Do nước ta vẫn cịn rất nhiều hồn cảnh khó khăn đặc biệt là
những nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đạo nên phạm vi đối tượng cần hỗ
trợ rộng lớn dẫn đến việc sản xuất tại các địa phương gặp khó khăn. Nội dung
tuyên truyền, giáo dục thể hiện tác phẩm phải khéo léo, khơng phơ trương vì
vậy địi hỏi đội ngũ phóng viên, biên tập viên phải khơng ngừng sâng tạo, tìm
ra các cách thể hiện mới.
1.5. Những tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả các chương trình
truyền hình nhân đạo trên truyền hình
1.5.1. Tiêu chí về nội dung
PGS.TS. Nguyễn Văn Dững đã nhận xét: “Có ba tiêu chí của một tác
phẩm báo chí hay, hấp dẫn cơng chúng: thứ nhất, tác phẩm đề cập được sự
kiện, vấn đề bức xúc, nóng hổi, nổi cộm trong dư luận xã hội, đang được
cơng chúng đón đợi, muốn biết và cần được giải thích, giải đáp; thứ hai, tác
phẩm được cấu thành, được xây dựng từ những chi tiết sống động, những số
liệu xác thực, tin cậy; thứ ba là cách thức diễn đạt, tính hấp dẫn cũng như cơ
chế tiểp nhận của tác phẩm báo in, phát thanh, truyền hình và báo mạng