TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẠI TP. HCM
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
TÊN ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀO ĐẠO ĐỨC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Lý luận nhà nước và pháp luật
Mã phách: ………………………………….
TP. Hồ Chí Minh - 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 2
5. Ý nghĩa việc nghiên cứu ........................................................................... 2
NỘI DUNG....................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP
LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC ................................................................................. 3
1.1. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong xã hội
................................................................................................................... 3
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật và vai trò của pháp luật trong xã
hội .............................................................................................................. 5
1.3. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ............................................. 7
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật và đạo đức... 10
1.5. Hình thức biểu hiện quan hệ giữa pháp luật và đạo đức .................. 12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ
ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 14
2.1. Về những mặt tích cực ..................................................................... 14
2.2. Về những mặt hạn chế...................................................................... 18
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP PHÁP LUẬT
VÀ ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................. 22
3.1. Quan điểm về kết hợp pháp luật và đạo đức .................................... 22
3.2. Giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm năng cao hiệu quả điều
chỉnh quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay ............................................. 23
KẾT LUẬN .................................................................................................... 29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 30
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội quan trọng trong
kiến trúc thượng tầng, có vai trị rất quan trọng đối với việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Trong xã hội Việt Nam từ xưa đến nay, vẫn luôn coi trọng đạo đức
là phương tiện dùng để điều chỉnh hành vi con người, nhằm đem lại sự ổn định
cho xã hội. Các quan hệ xã hội ngày nay biến đổi ngày càng phong phú và phức
tạp do vậy nếu chỉ dựa vào đạo đức, trật tự xã hội sẽ khơng được đảm bảo. Khi
đó, pháp luật xuất hiện với chức năng điều chỉnh hành vi con người mang tính
bắt buộc chung. Đạo đức và pháp luật ln có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết
với nhau.
Thực tiễn quản lý xã hội của các quốc gia cho thấy không thể tách rời
mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, ngay cả khi xây dựng nhà nước pháp
quyền một nhà nước thượng tơn pháp luật, thì những qui phạm pháp luật vẫn
phải ln có mối quan hệ với các qui phạm đạo đức.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, tất cả các hoạt động của nhà nước và công dân đều chịu sự điều tiết của
pháp luật. Tuy nhiên, Việt Nam trong một thời gian dài chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi Nho giáo, sự coi trọng đạo lý, ứng xử theo đạo lý đã trở thành truyền thống
của dân tộc. Vì vậy, đạo đức vẫn giữ vai trị quan trọng trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức ở Việt Nam hiện nay” là việc làm có ý nghĩa quan trọng và cần thiết, góp
phần xây dựng một nhà nước pháp quyền Việt Nam có một mơi trường pháp lý
thực sự tôn nghiêm, bên cạnh việc giữ gìn và phát huy được các giá trị đạo đức
tốt đẹp của dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở vấn đề lý luận chung về đạo đức, pháp
luật, tiểu luận đi vào làm rõ thực trạng sự mối quan hệ giữa đạo đức và pháp
luật ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp đạo đức
và pháp luật một cách hiệu quả hơn.
Tiểu luận thực hiện những nhiệm vụ sau: Nêu một số vấn đề lý luận
về đạo đức và pháp luật, mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật. Làm rõ thực trạng
của việc kết hợp đạo đức và pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Nêu lên một số
giải pháp phát huy hiệu quả việc kết hợp đạo đức và pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong thời kì hiện nay
ở Việt Nam.
Phạm vi: Tiểu luận nghiên cứu mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật
ở Việt Nam hiện nay, từ thời kỳ đổi mới đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp của phép biện chứng duy
vật như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống nhất logic –
lịch sử, khái quát hóa,…
5. Ý nghĩa việc nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm
sâu sắc những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Các
giải pháp mà tiểu luận đề xuất góp phần hồn thiện chính sách về kế thừa và
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong quản lý xã hội trong
điều kiện hiện nay.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP
LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong xã hội
1.1.1. Khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một khái niệm hết sức phức tạp, khái niệm này vừa hết sức
phổ biến trong dân gian, vừa đậm đặc chất học thuật, bởi vậy nó được hiểu theo
nhiều cách khác nhau trong những thời gian, không gian, đối tượng khác nhau.
Trong đời sống hàng ngày, đạo đức thường được quan niệm là đức hạnh, phẩm
hạnh của con người, đó là những nét đẹp, nết tốt, những “phẩm chất tốt đẹp của
con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức xã hội mà có”. Như vậy,
trong cuộc sống thường ngày, khái niệm đạo đức được đồng nhất với ý thức,
phẩm chất đạo đức cá nhân.
Đạo đức Mác - lênin khẳng định đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những hành vi đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và thông qua dư luận xã hội. Tóm lại, một cách chung nhất, đạo đức là
những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi con người và là cơ sở để
đánh giá xử sự của mỗi con người. Như vậy, đạo đức được xem là một phương
thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương
thức điều chỉnh hành vi con người: phong tục, tập quán, tơn giáo, pháp luật,
đạo đức…
Đạo đức nói chung, là kết quả phát triển tác động qua lại lẫn nhau của
nhiều yếu tố, như: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật… mà trước
hết là do trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác, đạo đức là sự phản ánh của đời sống kinh tế của mỗi thời đại. Tức là các
yêu cầu về đạo đức bắt nguồn từ điều kiện kinh tế, đời sống xã hội ở các giai
3
đoạn lịch sử khác nhau thì phải có nội dung khác nhau. Do đó, khi các quan hệ
kinh tế xã hội đã thay đổi thì các quy tắc đạo đức cũng có sự vận động, biến
đổi. Đồng thời đạo đức cũng có tính độc lập tương đối của nó so với tồn tại xã hội.
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong xã hội
Trong đời sống xã hội hiện nay, cùng với pháp luật, đạo đức là một trong
những công cụ quan trọng nhất để điều chỉnh hành vi con người. Trước hết, cần
phải khẳng định rằng đạo đức là một trong những công cụ điều chỉnh xuất hiện
sớm nhất trong lịch sử lồi người, nó xuất hiện ngay từ khi bắt đầu hình thành
xã hội lồi người. Đạo đức ra đời bắt nguồn từ nhu cầu tất yếu của đời sống xã
hội. Ở đâu có đời sống xã hội thì ở đó cần có đạo đức. Những chuẩn mực đạo
đức không chỉ giúp giữ trật tự xã hội, giải quyết các tranh chấp… mà nó cịn là
cơng cụ hướng thiện, hướng cho xã hội đến những mục tiêu cao cả như lương
thiện, nhân đạo, nhân văn; đạo đức giúp cho từng cá nhân hoàn thiện nhân cách,
lối sống từ trong gia đình đến các quan hệ xã hội. Sự tu dưỡng đạo đức giúp
cho mỗi người hình thành lên lẽ sống đúng đắn, có những xử sự tốt được mọi
người tơn trọng. Đạo đức có ảnh hưởng lớn đến các loại công cụ điều chỉnh
khác đối với hành vi con người. Bởi lẽ đạo đức được xác định là cơ sở của tất
cả các phương tiện điều chỉnh khác, nói cách khác, các loại quy tắc ứng xử khác
bao gồm cả pháp luật, đều được hình thành trên nền tảng đạo đức xã hội. Điều
đó có nghĩa là điều chỉnh quan hệ xã hội bằng các công cụ khác phải thuận
chiều với sự điều chỉnh bằng đạo đức. Nói cách khác, các quy phạm xã hội khác
phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Bởi nếu trái đạo đức tức là trái
lẽ phải, trái nguyên lí tự nhiên, trái yêu cầu, nguyên tắc của cuộc sống do vậy
chúng không thể tồn tại được. Một quy tắc xử sự nào đó khơng phù hợp với
những chuẩn mực đạo đức xã hội sẽ khó có thể đi vào đời sống. Là hệ thống
chuẩn mực chung, đạo đức góp phần quan trọng trong việc củng cố, gìn giữ và
phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đồng
thời đạo đức góp phần đảm bảo cho xã hội phát triển lành mạnh, ổn định, bền
4
vững, đảm bảo văn minh và tiến bộ xã hội. Như vậy, đạo đức đã trở thành mục
tiêu đồng thời là động lực để xã hội phát triển.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật và vai trò của pháp luật trong xã hội
1.2.1. Khái niệm về pháp luật
Khái niệm pháp luật được hiểu một cách phổ biến nhất "là hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội". Pháp
luật về bản chất nguyên gốc là mối tương quan giữa con người với con người,
giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự mỗi người phải tuân
thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội, sau này trở thành một
định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân theo được bảo đảm thực hiện
và có chế tài khi có sự vi phạm. Với tư cách là hệ thống các quy tắc xử sự, pháp
luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện
ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước.
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong xã hội
Một là, pháp luật là công cụ để thiết lập và tăng cường quyền lực nhà
nước, cơng cụ tổ chức và kiểm sốt quyền lực nhà nước.
Pháp luật là nền tảng pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của nhà nước. Sự
tồn tại và hoạt động của nhà nước đầu tiên phải trên cơ sở của Hiến pháp. Có
nhiều cơng cụ, phương tiện để thực hiện việc kiểm soát và hạn chế quyền lực
nhà nước, trong đó pháp luật là một trong những công cụ, phương tiện quan
trọng hàng đầu. Pháp luật qui định sự phân công, phân cấp giữa các cơ quan
trong bộ máy nhà nước. Pháp luật tạo nên khung pháp lý cho tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Mặt khác, pháp luật là công cụ quan trọng để giới
hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước.
5
Hai là, pháp luật là cơ sở để xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước, để
nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Để bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu
quả thì nó cần phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của pháp luật và trong
khuôn khổ của pháp luật. Có thể nói, pháp luật là công cụ quan trọng nhất để
tổ chức bộ máy nhà nước, qui định con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước, xác lập mối
quan hệ công tác giữa các cơ quan, nhân viên nhà nước với nhau, giữa cơ quan,
nhân viên nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong xã hội…
Nhờ có pháp luật, việc tổ chức bộ máy nhà nước trở nên khoa học, bộ
máy nhà nước trở nên nhịp nhàng, đồng bộ, tránh được sự chồng chéo, trùng
lặp hoặc bỏ trống trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Ba là, pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người, bảo
đảm dân chủ, cơng bằng, bình đẳng trong xã hội.
Quyền con người đã trở thành một giá trị chung được cả thế giới công
nhận. Và trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta,
pháp luật thực sự đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ các quyền ấy. Vai
trò quan trọng này của pháp luật thể hiện trước hết ở việc pháp luật ghi nhận
các quyền tự do, dân chủ của con người. Đồng thời pháp luật qui định các biện
pháp nhằm bảo vệ quyền con người khỏi bị xâm hại từ phía các chủ thể khác,
kể cả nhà nước.
Bốn là, pháp luật chính là khn mẫu xử sự cho mọi cá nhân, tổ chức
trong xã hội.
Để xã hội tồn tại trong trạng thái ổn định, trật tự các quyền, lợi ích của
các thành viên trong cộng đồng được bảo đảm và bảo vệ đòi hỏi xử sự của mỗi
người phải dựa trên những chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất
6
định. Có nhiều loại chuẩn mực cho hành vi con người, trong đó pháp luật là
một loại chuẩn mực quan trọng hành đầu.
Nói một cách tổng thể nhất, pháp luật là công cụ để thiết lập và tăng
cường quyền lực nhà nước, cơng cụ để tổ chức và kiểm sốt quyền lực nhà
nước; là khuôn mẫu ứng xử của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội; là công cụ
quan trọng nhất để điều tiết các quan hệ xã hội, định hướng cho sự phát triển
của các quan hệ xã hội; là cơ sở để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội; bảo
đảm và bảo vệ quyền con người, bảo đảm dân chủ, cơng bằng và bình đẳng
trong xã hội; cùng với các công cụ quản lý xã hội khác, pháp luật giữ vai trò
quan trọng đảm bảo sự phát triển ôn định, bền vững của xã hội.
1.3. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Mối quan hệ chỉ sự gắn bó qua lại giữa hai đối tượng, “quan hệ” là khái
niệm dùng để chỉ “sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai hay nhiều sự vật khác
nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động đến sự vật kia”.
Pháp luật và đạo đức không tồn tại biệt lập, tách rời mà giữa chúng ln có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Mặc dù đều là sản phẩm của tư duy con người, do
con người sáng tạo ra, được sử dụng làm công cụ điều chỉnh hành vi con người
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, quản lý xã hội. Tuy nhiên, sự ra đời tồn tại
và phát triển của pháp luật cũng như đạo đức là hoàn tồn khách quan. Thơng
qua sự tác động của nhà nước và xã hội, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
được thể hiện. Sự tác động của nhà nước và xã hội đối với pháp luật và đạo đức
xuất phát từ yêu cầu, đỏi hỏi khách quan của cuộc sống. Nói cách khác, chính
đời sống xã hội làm cho pháp luật và đạo đức có mối quan hệ với nhau, chính
đời sống xã hội qui định mối quan hệ giữa chúng. Trong ngơn ngữ hàng ngày,
nhiều khi cịn dùng thuật ngữ “mối quan hệ”, “mối liên hệ”, trong đó “mối” là
“từ chỉ từng hiện tượng, trạng thái riêng lẻ thuộc phạm vi tình cảm, quan hệ xã
hội của con người, ví dụ mối sầu, mối lo âu, mối quan hệ...” quản lý nhà nước
7
và hoạt động quản lý xã hội cũng như nhiều yếu tố khác của đời sống kinh tế xã hội.
1.3.1. Tác động của đạo đức đến pháp luật
Đạo đức tác động đến việc hình thành các qui định cụ thể trong hệ thống
pháp luật. Đạo đức có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành các qui định trong
pháp luật. Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội, vì vậy nó được xem như là
mơi trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là chất liệu làm
nên các qui định của pháp luật.
Đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong đời
sống. Cùng với việc ảnh hưởng đến sự hình thành ra các qui phạm pháp luật,
đạo đức cịn ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc thực hiện pháp luật của
các chủ thể. Sự tác động này phụ thuộc vào hai yếu tố: sự phù hợp của pháp
luật với đạo đức xã hội và ý thức đạo đức của các chủ thể.
Vai trò của đạo đức sẽ trở nên đặc biệt quan trọng trong trường hợp phải
áp dụng tương tự pháp luật. Trong thực tế, hoạt động xây dựng pháp luật mặc
dù được tiến hành thường xuyên, liên tục với sự nỗ lực cao độ cũng khó có thể
bao quát được hết mọi diễn biến của đời sống, khó có thể dự liệu được mọi tình
huống sẽ xảy ra trong tương lai để dự liệu sẵn những qui định pháp luật dành
cho nó. Khi đó, nhà chức trách khơng có các qui phạm pháp luật để làm căn cứ,
họ phải dựa vào ý thức pháp luật của chính mình dựa vào các quan niệm, chuẩn
mực đạo đức trong xã hội, dựa vào những lẽ phải ở đời mà ai cũng công nhận.
Trong trường hợp này, đạo đức đã thay thế cho pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Đây là sự hỗ trợ, bổ sung to lớn của đạo đức đối với pháp luật.
1.3.2. Tác động của pháp luật đến đạo đức
Pháp luật là công cụ để truyền bá những quan điểm, quan niệm, tư tưởng,
chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị. Nhờ có pháp luật các quan điểm, tư
tưởng đạo đức của giai cấp thống trị được truyền bá rộng khắp trong đời sống
8
dần dần trở thành những quan điểm, chuẩn mực đạo đức chung của tồn xã hội.
Tất nhiên, cũng phải nói rằng các quan điểm đạo đức của giai cấp thống trị cũng
phải phù hợp với suy nghĩ, lối sống, tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân
thì nó mới dễ có thể được quần chúng nhân dân chấp nhận. Một khi những quan
điểm đạo đức nào đó quá khác xa so với điều kiện hoàn cảnh, tập quán, truyền
thống... của một cộng đồng thì việc được cộng đồng chấp nhận là một điều hết
sức khó khăn.
Pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc, ngăn
chặn sự suy thoái, xuống cấp của đạo đức. Là hệ thống qui tắc xử sự do nhà
nước ban hành và được bảo đảm thực hiện bởi bộ máy quyền lực chuyên nghiệp
nên pháp luật có tác động mạnh mẽ tới đạo đức. Nó khơng chỉ làm cho các quan
niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức trở nên phổ biến trong tồn xã hội mà
quan trọng hơn nó đảm bảo cho đạo đức được thực hiện một cách nghiêm chỉnh
hơn, đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy
giá trị của chúng.
Pháp luật loại trừ những quan niệm, chuẩn mực đạo đức khơng chính
thống, lạc hậu. Bên cạnh việc truyền bá, giữ gìn, bảo vệ những quan điểm đạo
đức chính thống trong xã hội, pháp luật còn giữ vai trò quan trọng trong việc
loại trừ những quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức khơng chính thống ra
khỏi đời sống xã hội. Đạo đức khơng chính thống trước tiên là những quan
niệm, quan điểm đạo đức của các lực lượng đối lập, khơng cầm quyền, bên
cạnh đó là những tàn dư đạo đức của xã hội cũ, những quan niệm đạo đức đang
manh nha hình thành nhưng trái với tiến bộ xã hội, vì thế khơng được cộng
đồng thừa nhận.
Pháp luật góp phần làm hình thành những quan niệm đạo đức mới. Khi
pháp luật phù hợp với đời sống hiện thực, phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng
cộng đồng, nó sẽ được cộng đồng thừa nhận và thực hiện một cách nghiêm
chỉnh, tự nguyện, tự giác.
9
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Yếu tố nhận thức của con người. Đây là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Trên thực tế, mối quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức ở nơi này hay nơi khác, trong thời đại này hay thời đại
khác có biểu hiện khác nhau trước hết là do nhận thức về vị trí, vai trị của pháp
luật, đạo đức và mối quan hệ giữa chúng. Nhận thức của con người là một q
trình, nó bị chi phối bởi các điều kiện chủ quan và khách quan Bởi vậy, không
phải ở đâu, bao giờ, trong điều kiện nào con người cũng có thể nhận thức đúng
đắn và đầy đủ về đối tượng.
Điều kiện, hoàn cảnh kinh tế. Là một trong những nhân tố ảnh hưởng
mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Trước hết, điều kiện
kinh tế là những yếu tố có ảnh hưởng to lớn đến bản thân pháp luật cũng như
đạo đức. Các quan hệ kinh tế xã hội là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của
pháp luật và đạo đức. Trong các điều kiện kinh tế khác nhau, có các hệ thống
pháp luật khác nhau, các chuẩn mực đạo đức khác nhau. Khi quan hệ kinh tế
thay đổi, pháp luật và đạo đức sẽ có sự thay đổi theo. Tuy nhiên, pháp luật
thường có sự thay đổi khá nhanh nên sẽ nhanh chóng phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội mới. Trái lại, đạo đức thường có tính bảo thủ, trì trệ, cho nên
trong điều kiện xã hội mới, có khá nhiều quan niệm, chuẩn mực đạo đức tàn dư
của xã hội cũ còn tồn tại, trong khi những quan niệm, chuẩn mực đạo đức mới
chưa kịp hình thành.
Yếu tố chính trị. Pháp luật và đạo đức của giai cấp thống trị ln có sự
thống nhất với nhau, cả pháp luật và đạo đức đều dựa trên quan điểm, chủ
trương, đường lối của giai cấp thống trị. Khi đó, pháp luật và đạo đức của giai
cấp thống trị có sự kết hợp chặt chẽ với nhau cùng thực hiện những mục đích,
bảo vệ những lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Trái lại, quan điểm,
quan niệm đạo đức của lực lượng bị áp bức thì thường có sự mâu thuẫn với
pháp luật. Quan điểm đường lối chính sách của lực lựng cầm quyền thay đổi
10
dẫn đến luật pháp và đạo đức thay đổi theo, quan hệ giữa chúng vì vậy mà cũng
trở nên thay đổi.
Yếu tố lịch sử, truyền thống, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo. Đây cũng là
yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. Ở các
nước phương Tây, truyền thống pháp lý đã hình thành từ rất sớm. Người
phương Tây nhìn chung trong xử sự của mình đều đặt pháp luật lên hàng đầu,
mọi vấn đề đều được giải quyết bằng pháp luật. Thậm chí, trong quan hệ gia
đình, pháp luật vẫn là yếu tố chi phối mạnh mẽ nhất. Tất nhiên, pháp luật cũng
chịu ảnh hưởng của đạo đức, đặc biệt những quan niệm đạo đức Thiên chúa
giáo. Chính những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Thiên chúa giáo đã chi
phối tư tưởng và hành động của các nhà chức trách trong quá trình lập pháp,
hành pháp, tư pháp cũng như hành xử của người dân. Khác với xã hội phương
Tây, ở các nước Á đơng, trong đó có Việt Nam, đạo đức rất được coi trọng, nó
có ảnh hưởng rất mạnh mẽ cả trong việc hình thành các qui định trong hệ thống
pháp luật, cả trong việc thực hiện pháp luật.
Yếu tố quốc tế, thời đại. Hội nhập quốc tế cũng ảnh hưởng đến quan hệ
giữa pháp luật với đạo đức. Như đã đề cập, người phương Tây có thói quen xử
sự theo pháp luật, thói quen này có ý nghĩa rất tích cực trong điều kiện các quan
hệ xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp. Trong điều kiện hợp tác, hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng giữa các nước, thói quen tích cực này của người phương
Tây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến người phương Đông trong đó có Việt Nam.
Một khi đã tham gia vào sân chơi chung, tất cả phải theo một qui tắc, một chuẩn
mực chung. Từ việc xử sự một cách tùy tiện, không theo một chuẩn mực nào,
hoặc từ lối ứng xử theo đạo đức, tập quán... dần dần ở đâu, làm gì, trước tiên
người ta nghĩ đến pháp luật, dựa trên chuẩn mực pháp luật, sống và làm việc
theo pháp luật, cứ như thế dần dần hình thành thói quen xử sự theo pháp luật.
Pháp luật vì thế được đề cao một cách tự nhiên, vị trí của đạo lý vì thế dần dần
sẽ bị thay đổi.
11
1.5. Hình thức biểu hiện quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Hình thức của một sự vật, hiện tượng là dáng vẻ bề ngồi của nó là
phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, là phương thức tồn tại,
dạng tồn tại thực tế của chúng. Do vậy có thể hiểu, hình thức thể hiện mối quan
hệ giữa pháp luật và đạo đức là là phương thức thơng qua đó pháp luật và đạo
đức có sự tác động đối với nhau, là dạng tồn tại thực tế của sự tác động qua lại
giữa chúng.
Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức tồn tại thông qua hoạt động của con
người trong quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật; trong quá trình
hình thành những quan niệm, chuẩn mực đạo đức, trong quá trình hiện thực hóa
các quan niệm, chuẩn mực đạo đức bằng hành vi của con người, thông qua tác
động của dư luận xã hội nhằm bảo đảm cho các chuẩn mực đạo đức được tôn
trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Xây dựng pháp luật là hình thức trước tiên thể hiện mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức. Xây dựng pháp luật là một khái niệm có nội hàm tương
đối rộng, tựu trung lại có thể hiểu đó là hoạt động tạo nên các qui định cụ thể
của pháp luật. Hoạt động này bao gồm việc thừa nhận các tập quán để biến
thành tập quán pháp; thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể để biến thành
tiền lệ pháp và hoạt động ban hành ra những qui phạm pháp luật mới, đó có thể
là việc ban hành một văn bản qui phạm pháp luật mới, hay sửa đổi, bổ sung,
qui định chi tiết, hướng dẫn, giải thích một văn bản qui phạm pháp luật hiện
hành. Bằng hoạt động xây dựng pháp luật, những quan niệm, quan điểm, qui
tắc đạo đức phù hợp với ý chí lực lượng cầm quyền, phản ánh ý chí chung của
cộng đồng dân tộc, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như đạo đức
tiến bộ được luật hóa, được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp
nhà nước trong đó có biện pháp cưỡng chế, nhờ đó chúng được giữ gìn, củng
cố và phát huy trong đời sống xã hội.
12
Giáo dục pháp luật, đạo đức là hình thức khác thể hiện sự tương tác giữa
pháp luật và đạo đức. Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống,
có mục đích đến nhận thức của con người nhằm trạng bị cho mỗi người một
trình độ kiến thức pháp luật nhất định, để họ có ý thức đúng đắn về pháp luật,
xây dựng lối sống và thói quen xử sự theo pháp luật. Giáo dục pháp luật nhằm
mục đích nâng cao hiểu biết pháp luật, làm hình thành tình cảm và lịng tin đối
với pháp luật, thói quen xử sự theo pháp luật. Người có tri thức và tình cảm
pháp luật, có lối sống theo pháp luật luôn biết lựa chọn cách xử sự theo pháp
luật khi đứng trước một tình huống cụ thể.
Việc hình thành các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức cũng là
một hình thức thể hiện sự tương tác giữa pháp luật và đạo đức, cho dù đó là q
trình tự phát hay tự giác. Hoạt động này tạo nên nền tảng đạo đức cho pháp
luật, tạo ra nguồn hỗ trợ, bổ sung thậm chí thay thế cho pháp luật trong những
trường hợp cần thiết.
Dư luận xã hội cũng là một hình thức cơ bản thể hiện mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức. Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến những người
chấp pháp, nâng cao tinh thần tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh
của họ, tránh được hiện tượng tùy tiện, lơ là, tắc trách, thiếu tinh thần trách
nhiệm, lạm quyền, tham nhũng... của nhà chức trách. Dư luận xã hội ln có
tính hai mặt. Vì vậy, việc thực hiện pháp luật của nhà chức trách không thể bỏ
qua dư luận, không thể đạp lên dư luận mà hành xử, tuy nhiên cũng không thể
“chiều theo dư luận” mà làm trái pháp luật.
13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP
LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức càng trở nên gắn bó mật thiết, hỗ
trợ, bổ sung cho nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người, bảo đảm, bảo
vệ các quyền con người, quyền cơng dân, duy trì, bảo vệ trật tự xã hội. Có thể
nói, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, về cơ
bản, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức đã được nhận thức và xử lý đúng
đắn. Đạo đức có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành các qui định cụ thể
trong hệ thống pháp luật, đồng thời nó cũng phát huy mạnh mẽ vai trị thúc đẩy
việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, trong mối
quan hệ này ở nước ta hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định, vẫn cịn có
các qui định của pháp luật chưa phù hợp, cần phải được xem xét ở khía cạnh
đạo đức; tình hình vi phạm pháp luật vẫn hết sức phức tạp, nhiều hành vi phi
nhân tính xuất hiện; sự thối hóa, xuống cấp của đạo đức chưa được ngăn chặn,
hiện tượng vơ cảm xuất hiện ngày càng nhiều… Tình hình đó đặt ra vấn đề phải
đánh giá một cách toàn diện, tổng thể mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
ở nước ta hiện nay, chỉ rõ những điểm tích cực, hạn chế trong mối quan hệ này,
xác định rõ nguyên nhân đưa đến thực trạng đó, để từ đó có cơ sở đề xuất những
giải pháp nhằm xử lý một cách có hiệu quả mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
2.1. Về những mặt tích cực
Thứ nhất, được xây dựng trên nền tảng đạo đức xã hội chủ nghĩa, hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện hành bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền cơng dân.
Nhìn chung các quy định trong hệ thống của pháp luật Việt Nam hiện
nay đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân nhằm bảo
đảm, bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
hành được xây dựng trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ phẩm giá con
14
người, coi việc phục vụ con người là mục đích cao nhất của nó. Có thể nói hiện
nay hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân ngày càng được
hoàn thiện theo hướng đầy đủ hơn. Nhà nước và xã hội tơn trọng, bảo đảm và
có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Các
biện pháp để bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi ích của cơng dân được pháp luật
qui định khá cụ thể.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành phản ánh khá rõ nét tư
tưởng nhân đạo, một tư tưởng đạo đức cơ bản của nhân dân ta.
Tư tưởng nhân đạo là truyền thống đạo đức tốt đẹp vơ cùng q giá của
dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay. Hệ thống pháp luật nước ta hiện nay cũng
được kế thừa tư tưởng nhân đạo, hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống pháp
luật dân chủ, nó thể hiện ý chí của nhân dân lao động, nhằm phục vụ lợi ích về
mọi mặt cho nhân dân, đảm bảo cho mọi người đều được chăm sóc, bảo vệ. Có
thể nói các quy định trong Hiến pháp 2013 cũng như cả hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện hành thể hiện rất rõ ràng, nhất quán quan điểm vì con người, phục
vụ con người, chăm lo và bảo vệ con người.
Tư tưởng nhân đạo còn thể hiện ở quan niệm về vai trò, bổn phận, trách
nhiệm đối với những người gặp hồn cảnh khó khăn, hoạn nạn, những người
yếu thế cần sự chở che, sự san sẻ giúp đỡ của mọi người, của cả cộng đồng.
Đặc biệt, bằng pháp luật, nhà nước qui định trách nhiệm của các cá nhân, tổ
chức trong xã hội trong việc giúp đỡ đối với người khó khăn, hoạn nạn. Nhà
nước ta hiện nay đã ban hành tưởng đối đầy đủ các văn bản pháp luật có liên
quan về các chính sách xã hội. Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt
Nam còn thể hiện ngay cả trong các qui định về xử lý người có hành vi vi phạm
pháp luật. Đề ra các qui định để xử lý các hành vi phạm pháp, pháp luật không
chỉ nhằm trừng trị kẻ vi phạm mà còn nhằm giáo dục, cải tạo họ cũng như giáo
dục, răn đe, phịng ngừa chung. Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm
tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
15
pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm
tội mới. Hình phạt cịn nhằm giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm. Chẳng hạn, các qui định của Bộ luật hình sự về
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án; các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; quyết định hình phạt nhẹ hơn qui định của Bộ
luật, miễn hình phạt; miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên;
chế định án treo; các qui định về tạm hỗn chấp hành hình phạt tù đối với phụ
nữ có thai hoặc mới sinh đẻ, người mắc bệnh hiểm nghèo, người bị kết án là
người lao động duy nhất trong gia đình nếu ở tù sẽ làm cho gia đình đặc biệt
khó khăn...
Thứ ba, pháp luật góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy
các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Để củng cố, giữ gìn và phát huy những quan niệm quan điểm đạo đức
tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hố, xuống cấp của đạo đức, ngăn chặn sự hình
thành những quan niệm đạo đức mới lệch lạc, phản tiến bộ, nhà nước thể chế
hoá các quan điểm, quan niệm đạo đức, thừa nhận các qui tắc đạo đức thành
pháp luật, xác định rõ các hành vi được phép thực hiện, các hành vi bắt buộc
phải thực hiện, các hành vi bị ngăn cấm, đồng thời qui định các biện pháp xử
lý nghiêm minh đối với chủ thể vi phạm các qui định đó. Nhờ đó, đạo đức
khơng chỉ được thực hiện tùy thuộc vào lương tâm và tình cảm của chủ thể, nó
đã được pháp luật hố, đã trở thành những qui tắc xử sự có ý nghĩa bắt buộc
đối với mọi chủ thể trong xã hội. Qua đó, chúng được đảm bảo bằng các biện
pháp nhà nước, trong đó, quan trọng nhất là biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Nhiều quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức được thể hiện trong các
phong tục, tập quán của một cộng đồng dân cư cũng được phản ánh trong pháp
luật thông qua việc nhà nước thừa nhận các phong tục tập quán và biến chúng
thành các tập quán pháp. Điều 5 Bộ luật dân sự năm 2015 qui định: “Trong
trường hợp các bên khơng có thỏa thuận và pháp luật khơng quy định thì có thể
16
áp dụng tập quán” với điều kiện tập quán “không được trái với những nguyên
tắc quy định trong Bộ luật này”.
Điều 9 Hiến pháp năm 2013 cũng qui định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
có trách nhiệm "phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân
chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc ".
Pháp luật qui định nghĩa vụ của nhà nước và xã hội trong việc giữ gìn và
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mĩ tục của dân tộc. Hiến
pháp năm 2013 qui định: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn
hoá tốt đẹp của dân tộc mình” (Điều 5). “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại…” (Điều 60). Pháp luật có các qui định nghiêm cấm
các hành vi trái với đạo đức xã hội. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 qui định:
“Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”.
Có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam hiện hành đã được xây dựng trên
nền tảng đạo đức, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, thể chế hóa khá đầy đủ
các quan niệm đạo đức tốt đẹp của nhân dân, nhằm giữ gìn và phát huy giá trị
của nó trong đời sống.
Thứ tư, đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật,
tạo điều kiện để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống.
Cùng với pháp luật và những công cụ quản lý khác, đạo đức góp phần
điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
giáo dục con người mới. Đạo đức, phong tục tập quán, qui định của các tổ chức
xã hội, các cộng đồng dân cư..., mỗi yếu tố giữ vai trò nhất định trong đời sống
xã hội, tuy nhiên chúng góp phần hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật, tạo ra sự trật
tự xã hội trên tất các các lĩnh vực của cuộc sống nhất là đối với các quan hệ xã
17
hội mà pháp luật không điều chỉnh. Khi pháp luật phù hợp với những chuẩn
mực đạo đức xã hội, người dân thực hiện những qui định đó như một bổn phận
đạo đức của mình, họ thực hiện nó một cách có ý thức, có trách nhiệm. Đạo
đức đã góp phần tích cực, hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội.
Thứ năm, pháp luật góp phần loại trừ những quan niệm, quan điểm, qui
tắc đạo đức cũ lạc hậu, phản tiến bộ.
Việc ghi nhận những chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ được tiến hành
song song với việc loại bỏ quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu. Bằng việc ban hành
hàng loạt văn bản qui phạm pháp luật mới, nhất là các văn bản về tổ chức bộ
máy nhà nước, quyền, nghĩa vụ của cán bộ, cơng chức, hơn nhân và gia đình,…
pháp luật một mặt ghi nhận những chuẩn mực đạo đức mới, mặt khác xóa bỏ
những quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu, khơng cịn phù hợp với điều kiện mới
như: trọng nam khinh nữ, đa thê, gia trưởng, coi thường lớp trẻ, cá nhân chủ nghĩa.
2.2. Về những mặt hạn chế
Một là, trong một số trường hợp, việc phân định ranh giới điều chỉnh
giữa pháp luật và đạo đức chưa rõ ràng gây khó khăn, lúng túng trong q
trình thực hiện.
Đạo đức và pháp luật đều có chung một mục đích điều chỉnh. Song chúng
có sự khác nhau trong cách thức và phạm vi điều chỉnh. Về cách thức, pháp
luật thông qua các qui phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng
cách qui định cho chủ thể những hành vi nào được phép, những hành vi nào bắt
buộc và những hành vi nào bị ngăn cấm. Đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã
hội bằng cách xác định cho chủ thể những hành vi nào nên làm, khơng nên làm,
cần phải làm, hơng được làm. Nói cách khác, pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội bằng cách xác định các quyền, nghĩa vụ cho chủ thể còn đạo đức điều
chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng cách xác định những nghĩa vụ, bổn phận
cho chủ thể.
18
Cách thức và phạm vi điều chỉnh của đạo đức và pháp luật khơng hồn
tồn giống nhau. Pháp luật điều chỉnh hành vi con người bằng cách tác động
vào ý chí và lý trí của chủ thể, trong những trường hợp nhất định và đảm bảo
thực hiện bằng sức mạnh nhà nước. Trong khi đó, đạo đức lại có khả năng thâm
nhập điều chỉnh tất cả mọi mối quan hệ, đặc biệt là những quan hệ tình cảm hay
góc độ tình cảm - yếu tố nằm sâu bên trong con người - nơi mà pháp luật hông
phát huy được tác dụng của nó.
Hai là, trong một số trường hợp việc luật hóa các quan niệm, quan điểm,
tư tưởng đạo đức cịn chưa cụ thể khó thực hiện trên thực tế.
Đạo đức là những quan niệm, những giá trị chung, phổ biến được thừa
nhận; song tính xác định về hình thức lại là một trong những đặc điểm quan
trọng của pháp luật. Thông qua các qui phạm pháp luật, các chủ thể biết được
trong điều kiện nào, họ được làm gì, phải làm gì hay khơng được làm gì…, hậu
quả sẽ phải gánh chịu như thế nào nếu làm trái điều đó. Nói cách khác, trong
pháp luật, sự cho phép, bắt buộc hay cấm đốn ln được xác định rất rõ ràng,
và để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với chủ thể. Tuy nhiên, trong pháp
luật Việt Nam hiện hành vẫn tồn tại một số qui định khó xác định về tính hình
thức, khi thể chế hố các quan niệm đạo đức thành pháp luật đòi hỏi phải rất cụ
thể, đảm bảo để các chủ thể xác định được một cách rõ ràng họ được làm gì,
phải làm gì, làm như thế nào hay khơng được làm gì... khi ở trong điều kiện
hồn cảnh xác định nào. Có như vậy mới có được sự thống nhất trong thực hiện.
Bởi vì như đã nói ở phần trên, một trong những thuộc tính của pháp luật là minh
bạch, cụ thể, xác định.
Ba là, nhiều quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu chưa được xóa bỏ một
cách triệt để.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nhiều quan niệm, tư tưởng đạo đức
cũ, khơng phù hợp vẫn cịn tồn tại. Chẳng hạn, tư tưởng gia trưởng, tính cục
bộ, thói cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp, tư tưởng coi thường lớp
19
trẻ... Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật ở nhiều nơi, nhiều chỗ chưa thật
tốt. Dân chủ ở cơ sở chưa được phát huy đúng mức. Công tác quản lý, kiểm tra,
giáo dục, rèn luyện cán bộ còn yếu. Chưa có cơ chế đảm bảo sự giám sát, thực
hiện quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm của nhân dân đối với các chức vụ dân bầu.
Công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức trong xã hội nhiều hi chưa được coi
trọng hoặc thực hiện chưa hiệu quả.
Cũng cần lưu ý rằng, pháp luật không phải là công cụ vạn năng, pháp
luật không thể loại bỏ được tất cả các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức
lạc hậu, khơng cịn phù hợp. Pháp luật cũng hông phải là công cụ duy nhất để
giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo đức. Để làm được việc này đòi hỏi phải
nghiên cứu và sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau.
Bốn là, hiện tượng suy thoái về đạo đức chưa được pháp luật ngăn chặn
hiệu quả trên thực tế.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối
sống ngày càng diễn ra phổ biến với những biểu hiện rõ nét, có thể coi đây là
một hiện tượng đáng báo động. Đồng thời cũng nảy sinh nhiều tư tưởng, ý thức
và những tiêu chí đạo đức đi ngược lại với những giá trị truyền thống của dân
tộc và nó đã ảnh hưởng đến nhiều bộ phận, tầng lớp trong nhân dân, trở thành
một “vấn nạn” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở khía cạnh cá
nhân, sự thối hóa của đạo đức biểu hiện ở sự suy thoái của phẩm chất đạo đức,
ý thức coi thường các giá trị đạo đức truyền thống, không chú trọng việc rèn
luyện tu dưỡng đạo đức, mất lòng tin vào các giá trị đạo đức xã hội, khơng cịn
tình cảm đạo đức, sự xấu hổ và lòng tự trọng khơng cịn, danh dự cá nhân hơng
được coi trọng... Do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, con người ngày càng
có biểu hiện coi nhẹ, xa rời những giá trị truyền thống. Đạo đức, nhân phẩm
con người dường như không phải là thứ đáng được đề cao. Ngược lại, lối sống
thực dụng ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội.
20
Vai trò của pháp luật chưa được phát huy hết trong việc ngăn chặn có
hiệu quả sự thối hóa, xuống cấp của đạo đức. Nguyên nhân như trên đã đề cập,
các qui định của pháp luật về việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc phần lớn mang tính khái quát, chung chung, ít có những qui
định mang tính giải pháp cụ thể. Việc trừng trị các hành vi suy thoái về đạo đức
cịn hạn chế, nhiều hành vi suy thối nhưng hơng thể trừng trị bằng pháp luật
mà nguyên nhân là sự qui định của pháp luật chưa phù hợp, nhiều trường hợp,
rào cản lại xuất phát từ chính các chuẩn mực đạo đức.
Năm là, đạo đức trong xã hội bị xuống cấp là một trong những nguyên
nhân khiến cho tình trạng vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng.
Sự suy thoái, xuống cấp của đạo đức lại là một trong những nguyên nhân
cơ bản dẫn tới hiện tượng vi phạm pháp luật gia tăng cả về số lượng và mức độ
nghiêm trọng, một số tội phạm nghiêm trọng mới, được hình thành dưới nhiều
vỏ bọc tinh vi, xảo trá. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hành động trái
pháp luật, trong đó đáng kể nhất là sự phát triển của nền kinh tế thị trường gây
ra những mặt trái làm ảnh hưởng đến văn hóa, giáo dục, sự tha hóa biến chất,
lối sống thực dụng của một bộ phận nhân dân. Ở Việt Nam hiện nay, xã hội có
xu hướng coi trọng các giá trị vật chất, đánh giá con người nặng về đồng tiền
mà coi thường các giá trị danh dự, nhân phẩm - mặt trái của kinh tế thị trường
và tác động tiêu cực của một số luồng văn hóa phản động từ bên ngồi vào nước ta.
Một bộ phận khác, đặc biệt là thanh thiếu niên, vì muốn có cuộc sống
hưởng thụ nhưng khả năng tài chính khơng cho phép thì con đường ngắn nhất
để đạt được mục đích là vi phạm pháp luật. Đó là một trong những nguyên nhân
liên tiếp diễn ra các vụ trộm cắp, thậm chí là giết người cướp của… mà các
phương tiện thông tin đại chúng vẫn thường đưa tin.
21
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP PHÁP LUẬT
VÀ ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm về kết hợp pháp luật và đạo đức
Một là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm xây dựng nền tảng
pháp lý vững chắc cho việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, hợp tác và hội nhập
quốc tế, các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đang đứng trước những
thách thức gay gắt. Bởi vậy, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức phải đảm
bảo một mặt nhằm giữ gìn, bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, mặt khác
nhằm loại trừ những quan niệm, qui tắc đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, trái thuần
phong, mỹ tục của dân tộc, ngăn chặn sự thối hóa, xuống cấp của đạo đức.
Hai là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải được quán triệt cả trong
hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật.
Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức phải được quán triệt một cách
sâu sắc từ lý luận đến thực tiễn, từ nhận thức đến hành động. Từ trong tư duy
đến các hoạt động hàng ngày, từ các hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện,
bảo vệ pháp luật của nhà nước, đến mọi hành vi thực hiện pháp luật của người
dân luôn phải được quán triệt một cách sâu sắc quan điểm về sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức.
Ba là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải phục vụ quá trình hợp tác,
hội nhập quốc tế.
Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức nhằm tạo lập nền tảng văn hóa
vững chắc cho hợp tác, hội nhập quốc tế. Có thể nói, cùng với nhịp độ tăng
trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học kĩ thuật…, những
quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, lối
sống… bên ngồi cũng đồng loạt tràn vào nước ta một cách mạnh mẽ, trong đó
22
có cả những yếu tố tích cực, cả những yếu tố tiêu cực, trái thuần phong mỹ tục,
trái đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Do vậy, việc kết hợp giữa pháp
luật với đạo đức chính là nhằm tạo ra một màng lọc tốt nhất cho việc tiếp thu
những cái mới, có lợi, có ích cho sự phát triển đất nước, ngăn chặn có có hiệu
quả sự tác động của những yếu tố tiêu cực, độc hại bên ngoài ảnh hưởng đến
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tạo lập nền tảng văn hóa vững chắc đảm bảo
cho q trình hợp tác, hội nhập thành cơng.
Bốn là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức cần đặt trong việc đổi mới hệ
thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội.
Để điều chỉnh hành vi con người, có nhiều công cụ khác nhau, bao gồm
đạo đức, pháp luật, phong tục tập qn, tín điều tơn giáo (giáo lý, giáo luật),
nội qui, kỷ luật của các cơ quan, tổ chức, lệ làng, hương ước,… Giữa các loại
thể chế xã hội vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt và vừa có sự tác động
qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, việc kết hợp giữa pháp luật và đạo đức không
thể tiến hành một cách riêng rẽ, mà cần đặt trong bối cảnh chung đổi mới toàn
bộ hệ thống thể chế xã hội.
Năm là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm ngăn ngừa, giảm
thiểu có hiệu quả vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là sự suy thối,
xuống cấp của đạo đức xã hội. Chính vì vậy, trong cơng cuộc đấu tranh phịng
và chống vi phạm pháp luật phải hết sức coi trọng kết hợp pháp luật và đạo đức.
Cơng việc này phải có sự phân loại đối tượng để tiến hành cho phù hợp. Đồng
thời, phải phát huy vai trò của tổ chức, các cộng đồng dân cư, của dư luận xã
hội trong công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật.
3.2. Giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm năng cao hiệu quả điều
chỉnh quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay
23