MỞ ĐẦU
Đối với nghề viết nói chung và nghề báo nói riêng, khi đã có tài liệu, tư liệu
rồi, thì việc khó nhất là làm sao sử dụng, lựa chọn được ngơn ngữ để diễn đạt đúng
những điều mình cảm nhận, và ý định biểu đạt một cách mạch lạc, sâu sắc, hàm
xúc và sinh động nhất. Nói đến làm báo, năng lực quan trọng nhất là sự am hiểu
ngữ nghĩa, vận dụng câu từ trong mỗi văn cảnh một cách độc đáo, sáng tạo nhưng
vẫn hợp lý, đúng lúc, đúng chỗ, đắt giá, tạo ra cái hay, sự mới mẻ khi nói về những
điều đã có nhiều người biết, nhằm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Tuy nhiên, cùng với sự ra đời và phát triển của quá nhiều các loai hình báo
chí, thơng tin tuyền thơng, việc sử dụng ngơn ngữ trên báo chí, đặc biệt là các trang
báo điện tử, đang dần dần trở nên dễ dãi, phổ thơng hố, thậm chí sai chuẩn tiếng
Việt. Chỉ cần bật máy tính, kết nối với các trang báo mạng, chỉ cần lưu ý là ta có
thể dễ dàng nhận ra hàng loạt hạt sạn trong sử dụng ngôn ngữ: Lỗi chính tả, từ địa
phương, sai về câu, diễn đạt khơng rõ nghĩa… Tất cả những lỗi này không chỉ làm
mất đi sự trong sáng của tiếng Việt mà còn làm sai lệch thông tin dẫn đến giảm
hiệu quả truyền thông, thậm chí có tác dụng ngược.
Xuất phát từ lý do đó, em quyết định lưa chọn đề tài “Lỗi tiếng việt trên báo
điện tử hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
1
NỘI DUNG
Chương 1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ VÀ CÁC LỖI
TIẾNG VIỆT TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1.1. Ngôn ngữ báo chí là gì?
Ngơn ngữ là một hệ thống phức tạp con người sử dụng để liên lạc hay giao
tiếp với nhau. Ngơn ngữ của con người có các tính tự tạo, tính đệ quy, tính di
chuyển, và phụ thuộc hoàn toàn vào các nhu cầu của xã hội. Cấu trúc phức tạp của
nó cho phép thể hiện cảm xúc rộng rãi hơn so với bất kỳ hệ thống thông tin liên lạc
được biết đến của động vật.
Theo Giáo sư Hồng Phê, ngơn ngữ là “hệ thống những âm, từ và
những quy tắc kết hợp chúng, làm phương tiện để giao tiếp chung trong một cộng
đồng”, đồng thời cũng là “hệ thống ký hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt,
thơng báo”. Như vậy, có thể thấy ngơn ngữ là một khái niệm khá rộng và được
hiểu một cách linh hoạt, bao gồm tất cả các yếu tố có thể chuyển tải thông tin
với nhiều dạng thức khác nhau. Nếu ngôn ngữ cuả hội họa là màu sắc, đường
nét, ngơn ngữ của điêu khắc là hình khối, ngơn ngữ của âm nhạc là cung bậc thanh
âm, ngôn ngữ của múa là ngơn ngữ hình thể… thì ngơn ngữ của một báo chí khơng
chỉ đơn thuần là phần chữ mà cịn có maket, hình ảnh, kiểu chữ, kích thước, màu
sắc… Tất cả các thành tố này đều có khả năng chuyển tải thơng tin tới cơng chúng.
Nói cách khác, ngơn ngữ của một tác phẩm báo chí bao gồm tồn bộ các thành tố
cấu thành, cấu trúc nên tác phẩm đó.
1.2. Tính chất của ngơn ngữ báo chí
1.2.1.
Tính chính xác
2
Ngôn ngữ của bất kỳ lĩnh vực cũng phải bảo đảm tính chính xác. Nhưng với
ngơn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có chức
năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng
có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thơng tin, nghĩa là có thể gây ra
những hậu quả không lường trước được. Chẳng hạn, sau chuyến tháp tùng một
quan chức cao cấp sang thăm trung quốc, một nhà báo đã viết trong một bài phóng
sự: "Chúng tơi đã chia tay với tình hữu nghị dạt dào của hai nước Việt - Trung ".
Rõ ràng, từ "với" ở đây là khơng thể chấp nhận được (vì cụm từ "chia tay với..."
biểu đạt ý nghĩa "từ bỏ, từ giã"), cần phải thay nó bằng từ "trong".
Muốn sử dụng ngơn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tn thủ ít nhất 2
yêu cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ
pháp; có vốn từ vựng rộng, chắc, và khơng ngừng được trau dồi; thành thạo về ngữ
âm; hiểu biết về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện có thực và ngun
dạng để phản ánh, khơng tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu cầu này có quan hệ qua
lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện thực thì ngơn ngữ có thể "kêu"
nhưng rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng của cuộc sống - vốn là thứ có sức chinh
phục mạnh mẽ đối với độc giả. Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngơn từ
thì cũng khơng thể chuyển tải thơng tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm
chí đơi khi cịn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo khơng chỉ đạt
hiệu quả giao tiếp cao, mà cịn góp phần khơng nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo chi đông tới mức
không xác định được và họ (nhất là trẻ em) lại ln xem các cơ quan báo chí là
"ngọn đèn chỉ dẫn" trong việc dùng ngôn từ, cho nên ngôn ngữ báo chí càng hồn
thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
1.2.2. Tính cụ thể
3
Tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở mảng hiện thực được
nhà báo miêu tả, tường thuật. Ngôn ngữ diễn đạt phải cụ thể, cặn kẽ tới từng chi
tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người trong
cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm của
mình. Đoạn trích sau đây trong phóng sự "Hai giờ dưới lịng đất" của nhà báo
Huỳnh Dũng Nhân là một minh chứng:
"... Tôi cố nén sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lị thế này mà ngán gì. Đi như
hầm địa đạo Củ Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến mất. Tôi lọ
mọ đi. Hai tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tơi mà cũng cịn va đ ầu vào đá.
Tôi nghĩ bụng và bắt đầu đi lom khom. Mẹ ơi, chỉ cịn mình tơi thơi sao? Tống, Lực
đâu rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm xuống, bị. Có tiếng nước róc rách.
Đường lị ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi dây cáp ở đầu một cái dốc. "Bám vào ngửa người ra, tụt xuống". Một mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra
hai anh vẫn đi sát tơi, như có vẻ cố tình thử thách nhau một tý "cho nhà báo có
thêm thực tế ". Thấy tơi thở phì phị, thợ lị bảo: " Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất
mỏ Mông Dương đấy! Dễ nhất! Tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng hồ mới lấy được vài
xe goòng than đá. Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang".
Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo dựng nhờ sự miêu tả một
loạt các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc đoạn văn trên, độc giả
thấy mình như cũng đang trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả dưới
lịng đất. Và đây chính là khởi nguồn của niềm cảm thông sâu sắc với nỗi cực nhọc
trong cơng việc của những người thợ lị.
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí cịn nằm ở việc tạo ra sự xác
định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập
trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định;
với những con người cũng xác định (có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính...
cụ thể). Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có
4
thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngơn ngữ báo chí nên hạn
chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu
như "một người nào đó", "ở một nơi nào đó", "vào khoảng", "hình như", v. v...
1.2.2.
Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thơng tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội,
không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi, giới
tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp nhận thơng tin,
vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế, ngơn ngữ báo chí phải là
thứ ngơn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi. Tuy
nhiên, phổ cập rộng rãi khơng có nghĩa là dễ dãi, thấp kém. Vì, nói như nhà nghiên
cứu ngơn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V. G. Kostomarov: " Ngơn ngữ báo chí
phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức
uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé có trình độ cịn non nớt
cũng khơng thấy khó hiểu "5.
Với ngơn ngữ khơng có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối tượng hạn
hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào mọi tầng
lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do khiến cho
trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên ngành hẹp, các từ
ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngồi.
1.2.4.
Tính ngắn gọn
Ngơn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dịng có thể làm lỗng thơng
tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nó
cịn làm tốn thời gian vơ ích cho cả hai bên: cho người viết, vì anh ta sẽ khơng đáp
ứng được u cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời; cho người đọc (người nghe), vì
trong thời đại bùng nổ thơng tin, người ta luôn cố gắng thu được càng nhiều thông
tin trong một đơn vị thời gian càng tốt. Đấy là còn chưa kể đến việc viết dài dễ mắc
nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về sử dụng ngôn từ.
5
Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A. P. Chekhov có lẽ chính xác hơn cả
với phong cách ngơn ngữ báo chí: "Ngắn gọn là chị của thành cơng"6.
1.2.5.
Tính định lượng
Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngơn từ vì chúng thường bị giới
hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa chọn
và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh được đầy đủ
lượng sự kiện mà không vượt quá khung cho phép về không gian và thời gian.
Hiện tại, không ít báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên khi viết bài không
được phép vượt quá một lượng chữ nhất định. Đối với những bài "không đặt trước"
biên tập viên buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng với việc công bố. Rồi ngay
trong số các cơ sở đào tạo nhà báo cũng có khơng ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối
tượng dự thi phải thử nghiệm khả năng định lượng của mình thơng qua việc viết
một hay một số văn bản với độ dài cho sẵn.
Tính định lượng của ngơn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện được thói
quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhờ đó, họ có thể dễ dàng thích nghi
với mọi điều kiện thời gian cũng như không gian được dành cho việc cơng bố tác
phẩm báo chí.
1.2.6.
Tính bình giá
Các tác phẩm báo chí khơng chỉ đưa thơng tin về các sự kiện, mà cịn phải thể
hiện cơng khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá (có lẽ trong
các thể loại báo chí chỉ có tin vắn, tin ngắn là khơng có tính bình giá, tức là tác giả
thể hiên sắc thái biểu cảm trung tính). Sự bình giá này có thể là tích cực mà cũng
có thể là tiêu cực, song trong bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp
qua ngơn từ.
Chẳng hạn, có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ
tiêu đề như: "Góc tối ở thành phố cảng", "Bông hoa Thủ đô giữa núi rừng Tây
Bắc", "Lặng lẽ quá ... liên hoan phim", "Giai điệu buồn của một đêm nhạc trẻ", "Đó
6
cũng là một cách sống đẹp"… Còn trong các phần khác (cả mở đầu, triển khai lẫn
kết thúc) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết còn gặp thường
xuyên hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận, phóng sự, ghi chép, ký...
1.2.7.
Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngơn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ,
lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh động hấp dẫn
hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Ví dụ:
"... Ở những "cua" cấp tốc, chuyện thầy viết lia lịa lời giải ở trên, trị cắm cổ
chép như chép chính tả ở dưới vì khơng có thời gian giảng là "chuyện thường ngày
ở huyện". ( Hà Nội mới cuối tuần, 18/ 4/ 1998);
"Sơng Tơ mà khơng lịch". (Văn hố, 17/ 5/1999 ).
Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí là vơ cùng phong phú và
đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là sự vay mượn
các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật, là lối chơi
chữ, nói lái, dùng ẩn dụ, v. v… hay chỉ đơn giản là việc thể hiện sự bình giá có tính
chất cá nhân7.
Nếu ngơn ngữ báo chí khơng có tính biểu cảm, những thơng tin khơ khan mà
nó chuyển tải khó có thể được cơng chúng tiếp nhận như mong muốn, vì chúng
mới chỉ tác động vào lý trí của họ. Chính tính biểu cảm vốn là hiện thân của cái
hay, cái hấp dẫn mới là nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe,
người đọc, làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để rồi từ đó
thực hiện những hành động mà người viết vẫn chờ đợi.
1.2.8.
Tính khn mẫu
Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm " khuôn mẫu ". Đó là những cơng thức
ngơn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hố quy trình thơng tin,
làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khn mẫu bao giờ cũng đơn
7
nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm nhiều loại và có mặt
trong nhiều phong cách chức năng của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong văn phong báo
chí, khi viết các mẩu tin, người ta thường dùng các khuôn mẫu như:
- Theo AFP, ngày… tại… trong cuộc gặp gỡ… Tổng Bí thư… đã kêu gọi...
- TTXVN, ngày… người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết...
Giao tiếp báo chí khơng thể thiếu khn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và cơng
sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời.
Song, khác với khn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa học,
khn mẫu báo chí khơng cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt, uyển chuyển.
Chẳng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải thoả mãn 6 câu hỏi: Ai? Cái
gì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? Nhưng thứ tự trả lời cho các câu hỏi đó
có thể được sắp xếp khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Bên cạnh đó, các thành tố khn mẫu trong ngơn ngữ báo chí lại ln kết hợp
hài hồ với các thành tố biểu cảm cho nên ngơn ngữ báo chí thường rất mềm mại,
hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản khoa học và văn bản
hành chính, là nơi người ta chỉ sử dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.
Trên đây là một số tính chất cơ bản của ngơn ngữ báo chí. Với những tính chất
đặc thù như vậy, ngơn ngữ báo chí hồn tồn có đủ tư cách để được xem là một
phong cách chức năng trong ngôn ngữ.
1.3.
Các lỗi tiếng việt thường gặp trên báo chí
1. Cách viết khơng thống nhất những từ nước ngồi đã được Việt hóa, tức là
đã được phiên âm, dùng phổ biến trong tiếng Việt. Ví dụ: càphê, ximăng, xíchlơ,
bêtơng, axít, vắcxin, kiốt (trên báo Lao Động) hay là cà phê, xi măng, xích lơ, bê
tơng, a xít, vắc xin, ki ốt? Theo chúng tơi, những từ như thế đã thoát khỏi nguyên
gốc, được sử dụng như mọi từ tiếng Việt khác, có dấu tiếng Việt thì cần viết tách ra.
8
2. Nhiều từ có nghĩa rất rõ ràng nhưng thường bị viết sai: Tham quan viết
thành thăm quan, chấp bút – chắp bút, lặp lại – lập lại, trùng lặp – trùng lắp, hằng
ngày – hàng ngày, thập niên – thập kỷ; không phân biệt được sự khác nhau giữa giả
thuyết – giả thiết, tung tích – tơng tích… Chúng tơi nhận thấy hầu hết những
trường hợp sai do phóng viên và biên tập viên không chịu hiểu kỹ nghĩa của thành
tố ghép (đẳng lập hoặc chính phụ) hoặc khơng nắm được nghĩa của từ Hán Việt,
khiến từ vô nghĩa hoặc sai trầm trọng.
3. Người viết không nắm được kết cấu cơ bản chủ vị của câu tiếng Việt nên
thường sai trong các trường hợp đặt câu có vị ngữ là những động từ: cho biết,
khẳng định, nói, nói rằng khi đặt dấu phẩy ngay sau những từ đó. Theo chúng tôi,
để bảo đảm chuẩn tiếng Việt phải viết liền thành phần bổ ngữ ngay sau những động
từ đó; cịn nếu nội dung có tính liệt kê thì dùng dấu hai chấm (:).
4. Những từ nước ngoài về đo lường viết tắt như: km (ki lô mét), kg (ki lô
gam), ha (héc ta), m2 (mét vng)… bị nhiều phóng viên và tờ báo dùng không
chuẩn mực. Cần lưu ý rằng những từ đó khi đi liền với con số cụ thể thì có thể viết
tắt (ví dụ 200ha, 15km) nhưng khi đi với chữ thì phải viết đầy đủ (ví dụ 200 ngàn
héc ta, 1 vạn ki lô mét). Điều rất đáng lưu ý là trong tiếng Việt đã có những từ thay
thế rất gọn nhưng ít được dùng, ví dụ: cây số (ki lơ mét), ký (ki lơ gam).
Ngồi ra, cần quy định rõ những chữ viết tắt chỉ đơn vị tiền tệ, thời gian, đo
lường… (như đồng-đ, mét-m, giờ-g, ki lô wat giờ-kwh…) cần viết sát ngay sau các
con số bởi khi nó nằm ở cuối dịng dễ bị đẩy xuống dịng dưới đứng một mình, trái
với quy chuẩn tiếng Việt.
5. Dùng dấu phẩy (,) tràn lan. Không chỉ trên mặt báo mà ngay cả những văn
bản quan trọng của nhà nước bây giờ cũng nhan nhản sự lạm dụng dấu phảy. Họ lý
giải rằng tách ra bằng dấu phẩy để nhấn mạnh, làm rõ từng thành phần, từng yếu tố
được nói đến nhưng thực ra khơng cần thiết bởi khơng dùng dấu phẩy thì người
đọc vẫn hiểu nội dung văn bản đang thể hiện cái gì. Rất nhiều từ ghép, thành ngữ
9
cần phải viết liền thì bị tách ra bằng dấu phẩy khiến văn bản trở nên rối, vơ dun,
ví dụ: phịng, chống tham nhũng (trong khi đó lại viết liền phòng chống lụt bão);
tắm, giặt; cơm, áo, gạo, tiền; rút dây, động rừng; trọng nam, khinh nữ; mưa to, gió
lớn; dạy thêm, học thêm; nhà cao, cửa rộng; giận cá, chém thớt…
6. Sai về từ Hán Việt rất phổ biến, nhất là khi dùng những từ: yếu điểm (để nói
về điểm yếu), vấn nạn (được hiểu là vấn đề tệ nạn), sáp nhập (được hiểu sát vào
nhập lại), tự (khi viết về ai đó kèm theo một cái tên phụ, ví dụ: Hải, tự Hải bánh;
đúng ra phải viết tức Hải bánh; bởi tên tự là tên chữ chỉ dùng cho những bậc hiền
tài, không thể dùng cho kẻ xấu). Vừa qua trên một tờ báo cịn đặt cái tít rõ to
“Trúng khẩu đồng từ” mà lẽ ra phải là “Chúng khẩu đồng từ” bởi không hiểu nghĩa
Hán Việt, cứ dùng bừa (lặp lại 2 lần trong bài).
7. Không hiểu do đâu, từ bao giờ, trên cả báo in lẫn phát thanh, truyền hình
các phóng viên, phát thanh viên hay dùng cụm từ “bên cạnh đó”. Trong rất nhiều
trường hợp, đúng ra phải dùng từ “ngồi ra” bởi khơng thể “bên cạnh đó” với
những điều được nhắc đến ở dạng vơ hình, khơng cụ thể. Lỗi này rất phổ biến, trên
tờ báo nào, buổi phát thanh, truyền hình nào cũng mắc.
8. Tốt nhất là tiến tới bỏ dần các chữ số La mã trên mặt báo vì khó đọc, khó
nhớ. Ví dụ: thế kỷ XIX, thế kỷ XXI vừa rườm rà, vừa khó suy; trong khi viết đơn
giản 19, 21 thì ai cũng biết.
9. Nên thêm các lỗi sử dụng ngôn ngữ địa phương: Bởi = Bỡi, dãn dân = dản
dân…
10
Chương 2
THỰC TRẠNG MỘT SỐ LỖI TIẾNG VIỆT TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
HIỆN NAY
2.1.Một số lỗi trên báo điện tử hiện nay
Lỗi viết tắt và viết không đúng chuẩn tiếng Việt
“Theo Trung tâm dự báo khí tượng Thuỷ văn TƯ...” (Kiên quyết xử lý nếu
trồng cây "nguyên bầu" là sai quy trình- Báo Hànộimới, ngày 16/6/2015).
Đáng ra, Trung ương phải viết tắt là TW (như trong các văn kiện Đảng) hoặc
T.Ư (có dấu chấm ở giữa), cịn nếu viết tắt là TƯ thì rất dễ hiểu lầm.
Rồi nữa, ngay cái tên Hànộimới của tờ báo này cũng không viết đúng chuẩn
tiếng Việt.
Hà Nội là danh từ riêng phải viết hoa tất cả các chữ cái ở đầu các âm tiết. Và,
các âm tiết trong từ và cụm từ phải được tách rời nhau. Viết Hànộimới là làm mất
đi sự trong sáng của tiếng Việt, nhất là một tờ báo của Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Lỗi viết câu không đúng hoặc không chấm câu
Vẫn trong bài Kiên quyết xử lý nếu trồng cây "nguyên bầu" là sai quy trình
(Báo Hànộimới, ngày 16/6/2015), bài báo có tới 5 câu khơng có dấu chấm câu ở
cuối câu, cuối đoạn.
Bài báo Nguyên Phó BTC Quận ủy Cầu Giấy lĩnh án 12 năm tù trên tờ
Petrotimes lại có câu “Người bị truy tố về tội không tố giác tội phạm”. Thực ra, đây
chưa phải là câu hồn chỉnh theo chuẩn tiếng Việt, vì câu này thiếu vị ngữ; cụm từ
“bị truy tố về tội không tố giác tội phạm” mới chỉ là định ngữ cho danh từ “người”
chứ chưa thể là vị ngữ của câu.
11
Có thể người viết định diễn đạt theo ý đây là thành phần chú thích cho câu
trước đó “Trước khi tuyên án, Hội đồng xét xử tập trung làm rõ hành vi của bị cáo
Nguyễn Quốc Văn (Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng thương mại
tổng hợp và kinh doanh bất động sản)”, nhưng khi viết, đáng lẽ ra phải dùng dấu
phẩy thì lại dùng dấu chấm để tách câu dẫn đến sai ngữ pháp.
Lỗi dùng từ sai
Đây là một lỗi gặp khá nhiều trên báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng.
Trước đây, tác giả Nguyễn Đình San (trên tạp chí Tun giáo) và nhà báo Nguyễn
Thơng (trên tạp chí Người làm báo) cũng đã chỉ ra các lỗi về dùng từ sai trên báo
chí. Nhưng, hiện nay, các lỗi về dùng từ trên báo chí vẫn cịn tương đối nhiều.
Tơi xin được đưa ra một số trường hợp cụ thể: “Sau khi kết thúc Đại hội điểm
Ban Thường vụ tổ chức họp đánh giá, rút kinh nghiệm phát huy những việc làm tốt,
chỉ ra những tồn tại cần khắc phục để rút kinh nghiệm cho các chi bộ, đảng bộ đại
hội sau” (Tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng bộ - báo Hànộimới, ngày 17/6/2015).
Người đọc có thể thắc mắc, khơng hiểu “rút kinh nghiệm phát huy” là gì, “tồn
tại” là gì ? Hóa ra, người viết quên (?) đánh dấu phẩy sau từ “kinh nghiệm” nên đã
tạo thành một cụm từ lạ, khó hiểu là “rút kinh nghiệm phát huy”; cịn “tồn tại” là
cái đang có, cái cịn lại thì tác giả lại dùng theo nghĩa là hạn chế, nhược điểm.
Trên báo Trí Thức Trẻ, ngày14/6/2015, trong bài Cuộc sống ở thuê dù gia thế
giàu có của hot girl Thủy Top lại có câu “ Dù lớn lên trong một gia đình tri thức,
giàu có nhưng Thủy Top chưa bao giờ lấy điều đó để khoe khoang, đánh bóng tên
tuổi”. Trí thức có nghĩa khác tri thức. Trường hợp này phải dùng từ “gia đình trí
thức” mới đúng phải khơng, thưa Ban biên tập Trí Thức Trẻ ?
Báo Việt Nam Nét (vietnamnet.vn), ngày 14/6/2015, trong bài Thót tim kể
chuyện dơng lốc khiến Hà Nội tan hoang, có câu “ Khiếp sợ nhất vẫn là những
người dân lưu hành trên đường lúc cơn dơng xảy ra”. Để mơ tả ai đó, vật nào đó
12
đang đi trên đường thì người ta dùng từ “lưu thông” chứ không dùng từ “lưu hành”
(đưa ra sử dụng rộng rãi).
Chưa kể, câu này còn mắc lỗi diễn đạt, dễ gây hiểu lầm. Chắc tác giả định diễn
đạt ý “ Ai khiếp sợ ?”, nhưng viết như vậy, vô hình trung lại thành ra ý “ Khiếp sợ
ai ?”.
Chúng ta thử so sánh câu trên với câu cùng cấu trúc sau “Khiếp sợ nhất vẫn là
những kẻ đói thuốc trên đường đi kiếm cơm đen”. Do đó, câu trên có thể được hiểu
là những người đi trên đường trong cơn dơng là khiếp sợ nhất! Vậy, câu đó phải
diễn đạt lại là “ Cảm giác khiếp sợ vẫn còn chưa tan trong lòng những người đi trên
đường lúc cơn dơng xảy ra”.
Vẫn trên Việt Nam Nét (dẫn theo Trí Thức Trẻ), ngày 9/6/2015, trong bài Lệ
Rơi phản pháo Đàm Vĩnh Hưng, có câu “ Mỗi người có một yếu điểm khác nhau
và cái tài, cái duyên khác nhau”. Ở đây, đáng lẽ dùng từ “điểm yếu” (hạn chế,
nhược điểm, mặt yếu) thì tác giả lại dùng từ “yếu điểm” (điểm chính, điểm trọng
yếu).
Bài Hậu trường “bay show xác thịt” gái chân dài (báo Việt Nam Nét, ngày
14/6/2015) dùng từ “khuyến mại” để diễn đạt ý “khuyến khích mua hàng” trong
câu ““Gói hẹn hị” giá 700 ngàn được nắm tay bạn gái đi dạo phố và phải khuyến
mại thêm một món q”. “Khuyến mại” là khuyến khích bán hàng, cịn “khuyến
mãi” mới là khuyến khích mua hàng.
Lỗi dùng thừa từ, thiếu từ, sai kết hợp từ
Bài Nữ tiểu thư nổi tiếng nhà đại gia bậc nhất Việt Nam (báo Việt Nam Nét,
ngày 20/2/2015) có câu “Ái nữ Trần Thị Quỳnh Ngọc là con gái của doanh nhân
quá cố Trần Văn Cường và Chủ tịch đương nhiệm tập đoàn Nam Cường Lê Thị
Thúy Ngà ”.
13
Ái nữ đã có nghĩa người con gái yêu quý rồi, sao lại cùng dùng thêm một từ
con gái nữa cho rườm rà, tối nghĩa ? Câu trên chỉ cần viết “ Ái nữ Trần Thị Quỳnh
Ngọc của doanh nhân quá cố...” là được.
Rồi cái tiêu đề bài báo, “ Nữ tiểu thư...”, có cần thiết phải thêm “nữ” vào trước
từ “tiểu thư” không, khi mà từ “tiểu thư” đã bao hàm nghĩa con gái rồi ?
Lạ lùng hơn nữa, tiêu đề bài báo là thế, vậy mà cuối bài lại kể về 2 chàng trai
là Đặng Hồng Anh và Đoàn Quốc Huy. Chẳng lẽ họ cũng là “ nữ tiểu thư” ư ? Đã 2
lần tơi đã góp ý phản hồi dưới bài báo về những lỗi này, nhưng rất tiếc là không
được ban biên tập chỉnh sửa.
Bài “Yêu Bác, lịng ta trong sáng hơn” (Báo Dân trí, ngày 19/5/2015) có vài
lỗi về dùng từ thừa như: “...Việt kiều ở nước ngồi về ”, “ Khơng phải ai cũng nhìn
rõ hết sự hy sinh âm thầm, lặng lẽ của những người làm cha, làm mẹ...”. Việt kiều
là người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài nên câu trên chỉ cần viết “Việt kiều về
nước...” ; còn âm thầm và lặng lẽ là hai từ đồng nghĩa, chỉ cần dùng một trong hai
từ đó là đủ.
Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13/6/2015, trong bài Thơng tin
mới vụ CSCĐ túm cổ áo người dân, có câu “ Sau khi xác minh làm rõ, nếu xác
định lỗi sai của hai CSCĐ thì cơng an thành phố sẽ tổ chức gặp gỡ và có xin lỗi”.
“Xác minh” và “làm rõ” có nghĩa tương đương nhau, vậy chỉ cần dùng “xác minh”
là đủ. Đây cũng là lỗi về từ hay gặp trong các tin về pháp luật trên các báo.
Bài Hậu trường “bay show xác thịt” gái chân dài (báo Việt Nam Nét, ngày
14/6/2015) có câu “ Có nhiều người mẫu bán thân, hay nói thẳng ra là đi làm gái”.
Đây là lỗi thiếu từ, nên làm cho câu văn tối nghĩa, khó hiểu. Đáng lẽ ra, tác giả
phải viết rõ “ đi làm gái gì ?”, ví dụ: đi làm gái bán dâm (gái bao, gái bán hoa) thì
người đọc mới hiểu rõ nghĩa và mới chuẩn câu tiếng Việt.
14
Lỗi này cịn thấy trong bài Người tình của chồng ngang nhiên sinh con thách
thức (vẫn trên báo Việt Nam Nét, ngày 14/6/2015) với câu “ Sau hỏi thì chồng
mình bảo là cô ta chê quê nghèo nên lên thành phố làm gái và họ cắt đứt mối quan
hệ tại đây”.
Câu chú thích một ảnh trong bài Hà Nội: Nhà kỳ dị 'làm đẹp' đường đắt nhất
hành tinh (báo Việt Nam Net, ngày 14/6/2015) lại dùng sai kết hợp từ và diễn đạt
câu không rõ nghĩa “Ngôi nhà này đang bỏ không chỉ che chắn bằng tấm bạt đã
rách rưới ”.
Thứ nhất là phải thêm dấu phẩy sau từ “không” và thêm từ “được” sau từ
“chỉ”. Thứ hai là phải sửa cách dùng từ, hoặc bỏ từ “đã” hoặc bỏ tiếng “rưới”, vì
khơng có kiểu kết hợp “ đã rách rưới”.
Lỗi chính tả
Các từ ngữ hay sai chính tả trên báo chí là: vơ hình chung (đúng ra là vơ hình
trung), sáng lạn (xán lạn), cọ sát (cọ xát), thăm quan ( tham quan), sơ xuất (sơ suất)
…
Ngồi ra, cịn một số từ khác: “ Hồng Quân có thể truyền (từ đúng là chuyền)
ngược trở lại cho đồng đội của anh đang băng lên dứt điểm” (Hồng Quân bỏ lỡ bao
nhiêu cơ hội xé lưới U23 Myanmar? - báo Dân trí, ngày 14/6/2015); “… chủ tịch
Hồ Chí Minh ...” ( 3 lần trong bài không viết hoa chữ “Chủ”, bài “u Bác, lịng
ta trong sáng hơn”, báo Dân trí, ngày 19/5/2015); “Giữa cầu, bốn chiếc ô tô 1
eurospace, 1 chiếc 16 chỗ, 1 sedan, 1 bán tải nằm dúm dó (đúng ra phải là rúm ró),
trước đó là một cột đèn nằm ngang giữa đường” (Thót tim kể chuyện dơng lốc
khiến Hà Nội tan hoang, báo Việt Nam Nét, ngày 14/6/2015).
Trên đây là một số lỗi trên báo điện tử trong thời gian gần đây. Theo thiển ý
của tôi, để báo chí nói chung và các báo điện tử nói riêng tạo được niềm tin của
người đọc và góp phần tích cực vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, các
15
nhà báo, các cộng tác viên, các biên tập viên phải không ngừng trau dồi về kiến
thức tiếng Việt, cũng như cần trách nhiệm, nghiêm túc, kĩ lưỡng trong viết bài và
biên tập bài trước khi đưa lên mạng.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, mà
khơng ít nhà báo mới chỉ chú trọng phần nội dung chứ chưa để ý nhiều tới hình
thức diễn đạt thơng tin. Bởi vậy, họ bỏ qua khá nhiều lỗi về ngôn từ ở mọi cấp độ:
từ, câu, đoạn văn, thậm chí ở cả bố cục toàn văn bản. Nếu điểm qua một vài tờ báo,
kể cả những tờ báo lớn, chắc hẳn chúng ta sẽ tháy rõ điều này. Khơng nói đâu xa,
ngay cả báo Văn nghệ, - cơ quan trung ương của Hội Nhà văn Việt Nam, diễn đàn
của các bậc thầy về sử dụng ngôn từ - cũng tương đối thường xuyên mắc phải các
lỗi như: chính tả thiếu chuẩn xác, câu thiếu thành phần nịng cốt. Chính vì thế các
sai sót về mặt này của các phương tiện thơng tin đại chúng rất nhanh chóng trở
thành sai sót chung của toàn xã hội. Và từ đây, nảy sinh một vấn đề khá quan trọng
nhưng chưa được quan tâm đúng mức: vấn đề trách nhiệm của nhà báo trong việc
nói đúng và viết đúng, nhằm góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, và cũng
có nghĩa là góp phần giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc.
Có lẽ, chẳng cần phải luận bàn, chúng ta cũng biết là những sai sót như vậy sẽ
gây ra những tác hại nghiêm trọng tới mức nào. Ít nhất, chúng cũng làm cho hiệu
quả tiếp nhận thông tin của người đọc bị giảm sút. Cịn cao hơn, chúng có thể làm
cho người đọc không hiểu hoặc hiểu sai vấn đề. Song, vượt lên trên tất cả là điều
như chúng tơi đã nói ở trên: những sai sót này khơng bị phát hiện (nghĩa là được
xem như đúng ) và chúng lan truyền trong cộng đồng như một thứ dịch bệnh
Có tình trạng này là vì vốn ngơn ngữ của người viết nghèo, đôi khi tùy tiện,
nhưng nguyên nhân cơ bản thuộc về nhận thức, do không hiểu được đầy đủ đặc
điểm và quy luật của ngôn ngữ. Cũng như mọi hiện tượng khác, ngơn ngữ cũng có
những quy luật vận động và phát triển riêng được quy định bởi tính võ đốn, tính
16
khơng đồng nhất, tính hình tuyến, trật tự và tính dân tộc của ngơn ngữ. Trong tiếng
Việt chưa có khái niệm “tương thích”, “tích hợp”, “mặc định”, chỉ khi tin học phát
triển, những thuật ngữ kỹ thuật ban đầu thuần túy dành cho chuyên ngành dần được
xã hội sử dụng và mở rộng sang lĩnh vực khác như: Tích hợp môn lịch sử trong
môn “Công dân với Tổ quốc”. Rõ ràng là cùng với thời gian, sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và tiến bộ xã hội, ngôn ngữ vẫn liên tục phát triển. Điều đó địi hỏi
người viết phải luôn học hỏi để bổ sung cho vốn ngôn ngữ của mình.
Mỗi người cầm bút đều có thể trở thành nghệ sỹ sử dụng ngôn ngữ, lấy ngôn
ngữ làm chất liệu để tạo ra tác phẩm nghệ thuật. Nhưng sự sáng tạo ấy phải chuẩn
mực, dễ hiểu, chính xác, làm giàu và trong sáng thêm tiếng Việt chứ không vay
mượn, khiến người viết cứ tưởng thế là sành điệu nhưng lại làm cho người đọc thấy
là lạ mà không hiểu gì cả.
17
Chương 3
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ LỖI TIẾNG VIỆT TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
HIỆN NAY
3.1. Nhà báo cần nắm chắc các tri thức cơ bản liên quan tới việc sử
dụng tiếng Việt thuộc 4 phương diện chính là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp
và phong cách.
Để làm được điều đó, chắc chắn chúng ta phải học một cách bài bản, nghiêm
túc. Có thể học ở trường, lớp mà cũng có thể tự học. Song dù hình thức học có thế
nào đi chăng nữa thì kết quả cuối cùng đạt được phải đáp ứng yêu cầu: nói đúng,
viết đúng. Chưa nói đúng, viết đúng thì chưa thể kỳ vọng nói hay, viết hay được.
Có những điều tưởng như rất đơn giản, nhưng nếu chúng ta khơng học, chúng ta
vẫn có thể bị mắc lỗi. Chẳng hạn, quan hệ ngữ đoạn trong ngôn ngữ là một vấn đề
hồn tồn khơng khó, nhưng do khơng được trang bị kiến thức cần thiết, nhiều nhà
báo thường xuyên ngắt đoạn sai khi nói, khi đọc. Ấy là cịn chưa kể đến những
mảng đầy "gai góc" thuộc phần ngữ pháp mà nếu không đầu tư thời gian và cơng
sức để nghiên cứu và rèn luyện, chúng ta khó có thể làm chủ được hoạt động ngơn
từ của mình.
Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Việt đúng với chuẩn mực khơng đồng nghĩa với
sự phủ nhận hồn tồn những sáng tạo riêng của cá nhân. Có điều, những sáng tạo
ấy phải tuân thủ những quy luật nhất định, nghĩa là có cơ sở khoa học. Chẳng hạn,
khi tạo ra từ mới, người ta phải dựa vào những từ đã có sẵn nào đó mà có quan hệ
trực tiếp với nó về phương diện âm thanh hay ý nghĩa.
3.2. Nhà báo nên hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngồi
Có thể nói, chưa bao giờ các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài lại xuất
hiện trên báo chí tiếng Việt với mật độ dày như hiện nay. Người ta sử dụng chúng
khá tuỳ tiện, bất chấp người đọc, người nghe có hiểu được hay khơng. Thật phi lý
khi nhà báo là người Việt Nam, mà để hiểu được ngôn từ của họ, nhiều lúc chúng
18
ta phải mở từ điển song ngữ ra tra cứu. Phải chăng tiếng Việt của chúng ta nghèo
nàn tới mức phải vay mượn tràn lan như vậy? Hoàn toàn ngược lại! Tiếng Việt của
chúng ta vô cùng phong phú, và trong tuyệt đại đa số các trường hợp, có thể tìm
thấy các từ tương đương với các từ vay mượn từ tiếng nước ngồi (thậm chí nhiều
từ tiếng Việt cịn có khả năng diễn đạt khái niệm tinh tế hơn, rõ ràng hơn). Sở dĩ
một số nhà báo không dùng từ tiếng Việt vì có lẽ họ muốn làm phong phú thêm
ngơn từ của mình hoặc muốn tăng cường tính biểu cảm. Đây là dự định tốt nhưng
cách làm chưa hợp lý. Sự phong phú của một chỉnh thể không thể được tạo bởi các
thành tố mới lạ nhưng lại phá vỡ tính thống nhất của nó. Tương tự, tính biểu cảm
không thể được tạo bởi các phương tiện cản trở quá trình nhận thức.
Các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngồi càng trở nên khó chấp nhận hơn khi
bị dùng sai, do người dùng chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa cũng như cách đọc, cách
viết chúng. Vì lúc này chúng không chỉ gây nên những hậu quả như: làm giảm sút
hiệu quả tiếp nhận tác phẩm, tuyên truyền cho cái sai; mà cịn hạ thấp uy tín của tác
giả (người đọc, người nghe khó tránh khỏi có ấn tượng rằng anh ta là người "sính
chữ ngoại") và bằng việc đó, hạ thấp uy tín của chính cơ quan báo chí là nơi tác giả
làm việc.
Vậy nên chỉ cịn cách là hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngồi.
Khơng phải tình cờ mà Bác Hồ của chúng ta đã dặn: "Những từ khơng dịch được
thì phải mượn tiếng của các nước. Nhưng chỉ mượn khi thật cần thiết, và đã mượn
thì phải mượn cho đúng "2.
3.3. Nhà báo cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định
Trình độ ngoại ngữ của nhà báo càng cao càng tốt. Nó mang đến cho nhà báo
rất nhiều lợi ích, nhất là trong thời kỳ đa phương hố, tồn cầu hố như hiện nay.
Tuy nhiên ở đây chúng tơi chỉ bàn đến một lợi ích trong số đó, ấy là ngoại ngữ giúp
nhà báo hiểu rõ hơn tiếng mẹ đẻ của mình, để rồi trên cơ sở ấy, có cách ứng xử
thích hợp đối với nó.
19
Trong thực tế, sau khi học xong một ngoại ngữ nào đó, dù muốn hay khơng,
chúng ta thường có sự liên hệ nhất định với tiếng Việt. Và dựa vào sự đối chiếu, so
sánh, nhà báo có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng tiếng Việt của chúng ta
giàu đẹp chẳng kém bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Và từ đây, anh ta sẽ có tình
cảm u quý và thái độ trân trọng hơn đối với tiếng mẹ để của mình. Những tình
cảm và thái độ ấy, nếu được vun đắp thường xuyên, dần dần sẽ trở thành những
phẩm chất văn hoá, thành những giá trị đạo đức của nhà báo, giúp họ trở thành
những nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện xem thường,
coi khinh tiếng nói và chữ viết của dân tộc.
Song, bên cạnh đó, chúng ta cũng khơng thể phủ nhận các giá trị của ngơn ngữ
nước ngồi, mà ngược lại, phải biết tiếp thu chúng để hoàn thiện thêm cho tiếng mẹ
đẻ. Chẳng hạn, tính khoa học và tính chính xác cao của các ngơn ngữ Ấn - Âu
( như Anh, Pháp, Nga...) sẽ giúp cho nhà báo sử dụng tiếng Việt một cách khúc
chiết, mạch lạc, gãy gọn, tránh được sự dài dịng, cầu kỳ khơng cần thiết.
Như vậy, rõ ràng là hiểu biết về tiếng nước ngoài cũng góp phần quan trọng
vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Từ xưa đến nay, người ta vẫn luôn quan niệm rằng trong việc sử dụng ngôn
ngữ của một dân tộc bao giờ cũng bộc lộ tầm vóc văn hố của nó. Mà báo chí lại là
mơi trường rộng lớn nhất và được xem là mẫu mực nhất để ngơn ngữ dân tộc hành
chức. Vì thế, khẳng định trách nhiệm của nhà báo chúng ta trong công cuộc bảo vệ
và giữ gìn sự trong sáng của tiéng Việt, đồng thời đề xuất những giải pháp để họ
hoàn thành trách nhiệm ấy, là việc làm cần thiết. Hy vọng, với bài viết này, chúng
tôi sẽ nhận được nhiều ý kiến quý báu liên quan tới vấn đề trên.
20
KẾT LUẬN
Hiện nay, ngơn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách chức
năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng phong cách là những khn mẫu
trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng ngơn ngữ có
tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu,
người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuyết phục khác nhau, để khẳng
định là ngơn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang hàng
với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như phong cách khoa học,
phong cách hành chính - cơng vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách
chính luận.
Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt trên báo chí hiện nay vơ cùng cấp
bách. Báo chí ngồi chức năng thơng tin, bên cạnh đó nó cịn có chức năng vô cùng
quan trọng là chức năng giáo dục. Ngôn ngữ trên báo chí tiếp cận tới đơng đảo
cơng chúng trong xã hội, đặc biệt trong thời đại công nghệ thơng tin phát triển với
tốc độ chóng mặt hiện nay, ngôn ngữ trên báo điện tử hiện nay phải là vấn đề đuợc
quan tâm hàng đầu.
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Nở, Đôi điều mong muốn về tiếng Việt trên báo Văn
Nghệ, Tạp chí Ngơn ngữ và Đời sống, số 10 / 1998, tr. 11 - 14.
2. Một số ý kiến của Hồ Chủ tịch về chữ quốc ngữ và tiếng Việt, Tạp
chí Ngôn ngữ, 1970, số 3, tr.38.
3. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục, HN, 1997.
4. Hữu Đạt, Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt,
NXB. Văn hố - Thơng tin, Hn, 2000
22
MỤC LỤC
Contents
23