Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

sáng kiến kinh nghiệm địa lý thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 92 trang )

1

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Lí do chọn đề tài
Trong cơ cấu ngành nơng nghiệp, chăn ni, thủy sản có vị trí quan trọng
và càng ngày vai trị đó càng được khẳng định rõ rệt. Biểu hiện là tỉ trọng của
ngành chăn nuôi và thủy sản trong cơ cấu giá trị sản xuất nơng nghiệp nước ta
ngày càng tăng. Hình thức chăn ni cũng ngày càng đa dạng, phong phú và
hiện đại hơn. Theo nhận định của một số chuyên gia, Việt Nam là một trong
những quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành thủy sản nhanh nhất thế giới. Việt
Nam đã trở thành nhà sản xuất lớn thứ ba trong ngành chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản và là một trong mười nước xuất khẩu hải sản hàng đầu khu vực. Bên
cạnh thủy sản, ngành chăn ni cũng có bước phát triển đáng ghi nhận, với sự
phát triển mạnh mẽ của nhiều trang trại chăn nuôi với cơ cấu sản phẩm của
ngành đa dạng, phong phú hơn.
Trong chương trình địa lí kinh tế xã hội nói chung, địa lí kinh tế xã hội Việt
Nam nói riêng, kiến thức về ngành chăn ni và thủy sản tuy chiếm một khối
lượng kiến thức khá lớn và quan trọng đồng thời đây là nội dung tương đối khó.
Các câu hỏi liên quan đến chăn ni và thủy sản cũng thường xuyên xuất hiện
trong các đề thi học sinh giỏi, thi THPT quốc gia trong những năm gần đây. Vì
vậy, giáo viên, học sinh trong các trường chuyên, ngoài việc trang bị được các
kiến thức cơ bản về học phần này, còn yêu cầu hiểu sâu sắc và rèn luyện các kỹ
năng có liên quan và giải các bài tập. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại thì
chưa có chương trình chun biệt cho các trường chuyên nên việc tập hợp các
tài liệu cho học tập và giảng dạy nội dung này cịn nhiều khó khăn.
Chính vì thế, việc hệ thống nội dung lý thuyết và các dạng bài tập liên quan
đến vấn đề phát triển và phân bố ngành chăn nuôi, thủy sản trong địa lí ngành
nơng nghiệp sẽ giúp các giáo viên và học sinh có được nguồn tài liệu đầy đủ,
phong phú, logic nhất về ngành nông nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi
hơn trong việc dạy và học ở các trường chuyên.


Để đáp ứng các yêu cầu trên, chúng tôi xây dựng chun đề “Địa lí ngành
chăn ni, thủy sản Việt Nam và các dạng bài tập trong thi học sinh giỏi”.
Đề tài hướng tới đối tượng chính là giáo viên và học sinh các trường
chuyên, nhất là trong quá trình ôn luyện thi học sinh giỏi Quốc gia. Tuy nhiên,


các giáo viên và học sinh phổ thông không chuyên cũng sẽ có được nguồn tài
liệu hữu ích phục vụ kì thi THPT quốc gia.
2. Mục đích của chun đề
Đề tài nhằm cung cấp tới người đọc những kiến thức, kĩ năng trọng tâm
trong học và giải quyết bài tập về các ngành chăn nuôi và thủy sản trong nông
nghiệp. Cụ thể là:
- Kiến thức:
+ Hệ thống hóa kiến thức về địa lý ngành chăn nuôi và thủy sản:
Ngành chăn ni: vai trị, nguồn lực phát triển, tình hình phát triển, phân bố.
Ngành thủy sản: vai trò, nguồn lực phát triển, tình hình phát triển, phân bố;
một số vấn đề trong phát triển ngành thủy sản và thời cơ, thách thức của ngành
thủy sản nước ta khi hội nhập.
+ Giới thiệu các phương pháp và kĩ thuật dạy học đã được áp dụng và mang lại
hiệu quả tự học cao
+ Giới thiệu một số hình thức đã được tổ chức nhằm phát triển năng lực tự học,
tự nghiên cứu của học sinh.
- Kĩ năng:
+ Xây dựng hệ thống các dạng bài tập về chăn nuôi và thủy sản.
+ Vận dụng kiến thức một cách linh hoạt để giải quyết các dạng bài tập trên cơ
sở định hướng có sẵn.
3. Cấu trúc của chuyên đề
Phần nội dung chuyên đề bao gồm:
Phần I: Lý thuyết chung
Phần II: Phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học

Phần III: Các dạng bài thi học sinh giỏi quốc gia


II. MƠ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mơ tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Chăn nuôi, thủy sản Việt Nam là một trong những chuyên đề quan trọng
trong thi Học sinh giỏi Quốc gia. Cấu trúc cơ bản của phần lí thuyết và các dạng
bài tập vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, do đặc điểm của các số liệu phần kinh
tế - xã hội là luôn luôn biến động cho nên người dạy cần thường xuyên cập nhật
những số liệu mới và phân tích xu hướng thay đổi của nó. Bên cạnh đó, trước
tác động của cuộc Cách mạng 4.0, xu hướng tồn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra
ngày càng mạnh thì hai phân ngành này có nhiều thay đổi trong tình hình phát
triển cũng như phương hướng trong tương lai; trong quá trình dạy học cần bổ
sung thêm những nội dung lí thuyết chưa được đề cập tới trong sách giáo khoa.
Một phần rất quan trọng nữa là các phương pháp dạy học và các dạng bài tập
hướng đến ôn thi học sinh giỏi cũng cần đổi mới, cập nhật cho phù hợp với xu
hướng thay đổi giáo dục hiện đại. Trước đây, trong quan niệm của nhiều người,
dạy học chun sâu thì thường có tính hàn lâm cao, phương pháp dạy học chủ
yếu là các phương pháp dùng lời, cho nên học sinh sẽ cảm thấy nặng nề. Việc
đổi mới các phương pháp, hình thức dạy học và phân chia thành các dạng bài cụ
thể sẽ giúp tăng sự u thích, tìm tịi, ham học hỏi của học sinh; nâng cao hiệu
quả dạy học.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Căn cứ vào thực tế xu hướng ra đề thi Học sinh giỏi Quốc gia và những ưu
điểm, hạn chế của giáo viên, học sinh trong q trình dạy học, ơn luyện phần
chăn ni, thủy sản Việt Nam, chúng tôi đề xuất giải pháp cho hệ thống lí thuyết
và các dạng bài tập phần chăn nuôi, thủy sản Việt Nam trong ôn thi HSG như
sau:
2.1. Hệ thống lí thuyết về ngành chăn ni, thủy sản Việt Nam
2.1.1. Ngành chăn ni

2.1.1.1. Vai trị
Chăn ni có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
- Về kinh tế
+ Cung cấp nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng (đạm, mỡ, đường, vitamin)
trong thức ăn hàng ngày từ thịt, cá, trứng, tạo nguồn năng lượng cho con người.


Các sản phẩm từ động vật là nguồn cung cấp protein và các axit amin thiết
yếu cho con người, đóng góp đáng kể và tổng lượng calo hàng ngày của chúng
ta. Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói chung, khoảng 60%
nguồn cung cấp protein trong khẩu phần ăn có nguồn gốc từ các sản phẩm động
vật. Ngồi ra, nó cịn cung cấp lượng chất béo cần thiết cho cơ thể người.
+ Sản phẩm từ chăn nuôi là nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng (lông cừu, da của các vật nuôi,…), nguyên liệu cho công nghiệp thực
phẩm (thịt, trứng, sữa,…) và công nghiệp dược phẩm.
+ Cung cấp các mặt hàng cho xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu nhập, tích
lũy vốn cho nền kinh tế.
“Việt Nam đã xuất khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp, từ mật ong, thịt gà,
lợn sữa và các sản phẩm trứng. Bây giờ chúng ta tiếp tục xuất khẩu sản phẩm
thịt lợn tươi, đánh dấu bước ngoặt lớn của ngành chăn nuôi” - Thứ trưởng Bộ
NNPTNT Vũ Văn Tám chia sẻ sau sự kiện lô hàng thịt lợn tươi đầu tiên của Việt
Nam xuất khẩu. Vượt qua nhiều cửa ải, tháng 5.2018 đánh dấu bước ngoặt lớn
trong ngành chăn nuôi khi một doanh nghiệp của Việt Nam đã có lơ hàng thịt
lợn tươi đầu tiên xuất khẩu thành công sang nước ngồi theo đường chính
ngạch. Mỗi tháng xuất khoảng 26 tấn thịt lợn sang thị trường Myanmar.

Việt Nam xuất khẩu thịt lợn sang
Myanmar (Nguồn: Vietnamnet, ngày
26/06/2018)
+ Chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bị) và chăn ni lợn cịn cung cấp sức kéo

và phân bón cho ngành trồng trọt, đặc biệt quan trọng đối với những vùng mà
nông nghiệp phát triển theo hình thức cổ truyền. Chăn ni tận dụng triệt để phụ
phẩm từ ngành trồng trọt.


+ Phát triển chăn ni góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp, chuyển dịch CCKT nông thôn ở nhiều vùng, phá thế độc canh.
Trồng trọt kết hợp với chăn nuôi tạo ra nền nông nghiệp bền vững, cân đối và
toàn diện.
- Về xã hội
+ Cung cấp cho con người nguồn thực phẩm giàu chất đạm, tăng lượng
calo, góp phần cải thiện chất lượng bữa ăn.
Theo Viện quan sát thế giới (World Watch Institude) trong 4 thập kỷ qua
sản xuất thịt trên thế giới đã tăng gấp 3 lần, cịn tính riêng trong thập kỷ qua là
tăng 20%. Ở các nước đang phát triển lượng thịt tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi
đã tăng gần gấp đôi.
+ Chăn nuôi là một trong những ngành kinh tế giúp giải quyết việc làm
cho lực lượng lao động đông đảo ở nước ta.
- Về môi trường: Chăn nuôi giúp khai thác hợp lí và hiệu quả hơn nguồn
tài nguyên thiên nhiên của các vùng.
2.1.1.2. Nguồn lực phát triển
a. Thuận lợi
- Cơ sở thức ăn: có ý nghĩa hàng đầu, được đảm bảo ngày càng tốt hơn.
Nhu cầu nguồn thức ăn cho chăn nuôi ngày càng tăng và được lấy từ nhiều
nguồn khác nhau như đồng cỏ, hoa màu lương thực, phụ phẩm của thủy sản, chế
biến công nghiệp.
Tổng nhu cầu thức ăn chăn nuôi Việt Nam từ năm 2017 - 2019
(Đơn vị: tấn)
Năm


2017

2018

2019

Thức ăn chăn nuôi

23,350,000

23,800,000

24,100,000

Công nghiệp

20,520,000

21,900,000

22,800,000

Thức ăn chăn nuôi

17,220,000

18,000,000

18,500,000


Tự chế

8,580,000

8,100,000

8,100,000

Thức ăn chăn nuôi

6,080,000

5,600,000

5,600,000

Tổng

29,100,000

30,000,000

30,900,000

(Nguồn: FAS-VN)


Nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cung ứng cho ngành sản xuất thức
ăn chăn nuôi Việt Nam từ năm 2017 – 2019
(Đơn vị: tấn)

Năm

2017

2018

2019

Nhập khẩu (1)

16,300,000

19,500,000

21,900,000

Bột đậu tương

5,800,000

6,200,000

6,400,000

Ngô

5,700,000

9,000,000


10,250,000

800,000

1,000,000

1,200,000

2,600,000

1,800,000

2,500,000

Bột/cám khác

700,000

690,000

700,000

Khác (MBM, FM, …)

700,000

810,000

850,000


Nguồn cung nội địa (2)

11,300,000

9,000,000

9,000,000

Ngô

5,000,000

3,000,000

3,000,000

Cám gạo

5,000,000

5,000,000

5,000,000

Gạo tấm

500,000

500,000


500,000

Sắn

800,000

500,000

500,000

Thức ăn chăn nuôi thành phẩm
nhập khẩu (3)

1,500,000

1,500,000

1,500,000

Tổng (4)

29,100,000

30,000,000

30,900,000

Thức ăn chăn nuôi công nghiệp (5)

20,520,000


21,900,000

22,800,000

Thức ăn chăn nuôi tự chế (6)*

8,580,000

8,100,000

8,100,000

DDGS
Lúa mỳ làm TACN

Nguồn: FAS-VN
+ Đồng cỏ tự nhiên: diện tích đồng cỏ tương đối lớn, phân bố tập trung trên
các cao nguyên thuộc Trung du miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên.
Năng suất đồng cỏ ngày càng được nâng cao. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm tạo


thuận lợi cho đồng cỏ phát triển nhanh, là cơ sở để phát triển chăn nuôi gia súc
ăn cỏ như trâu, bò, dê, …
Một số loại cỏ tốt thường được sử dụng trong chăn nuôi hiện nay như cỏ
voi, cỏ Ruzi, cỏ xả, cỏ họ đậu…

Cỏ voi - loại cỏ phổ biến được sử dụng
trong các trang trại chăn nuôi của TH
True Milk, Vinamilk, tập đoàn Hoàng

Anh Gia Lai…

Cỏ Ruzi phát triển tốt ở mơ hình
thí nghiệm cải tạo sơ bộ tại trại bị
Ea So - Đắk Lắk
(Tạp chí Khoa học và Công nghệ
Việt Nam)

Cỏ sả - cũng là loại cỏ được sử dụng Cỏ họ đậu - là một trong những
trong các trang trại chăn nuôi của TH giống cỏ thường được sử dụng cho
True Milk, Vinamilk, tập đoàn Hồng chăn ni bị sữa
Anh Gia Lai…
+ Sản phẩm của ngành trồng trọt và phụ phẩm của ngành thủy sản: đây là
nguồn thức ăn chủ yếu. Nhờ giải quyết tốt lương thực cho người nên phần lớn
hoa màu (ngô, khoai, sắn) được dành làm thức ăn cho chăn nuôi. Diện tích đất
trồng hoa màu khá ổn định, tạo ra sản lượng hoa màu lớn, cung cấp nguồn thức
ăn thường xuyên cho chăn nuôi, đặc biệt là nuôi lợn và gia cầm. Ngồi ra cịn có


13 - 14 nghìn tấn bột cá, phụ phẩm từ ngành thủy sản bổ sung thêm nguồn thức
ăn chất lượng cao cho chăn nuôi.
+ Thức ăn tổng hợp do ngành công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, gia
cầm sản xuất, tạo điều kiện cho hình thức chăn ni cơng nghiệp ngày càng phổ
biến ở đồng bằng và miền núi.
Các nguồn cung nguyên liệu nội địa cho thức ăn chăn nuôi bao gồm cám
gạo và gạo tấm, từ ngành gạo nội địa. Ngành chế biến gạo sản xuất xấp xỉ 5 triệu
tấn cám gạo hàng năm, phần lớn sử dụng cho thức ăn chăn nuôi. Gạo tấm sử
dụng làm thức ăn chăn nuôi tương đối nhỏ, chỉ khoảng 0,5 triệu tấn do hoạt
động xuất khẩu gạo mạnh. Sử dụng sắn trong thức ăn chăn nuôi đang giảm, từ
800.000 tấn năm 2017 xuống còn 500.000 tấn năm 2018 và 2019 do sản xuất

không phát triển và nhu cầu sắn cho xuất khẩu, sản xuất công nghiệp và sản xuất
nhiên liệu sinh học ở mức cao.
- Giống gia súc, gia cầm
+ Có nhiều giống gia súc, gia cầm chất lượng tốt như giống trâu Tun
Quang, n Bái, bị Thanh Hóa, Nghệ An, Phú n, lợn Móng Cái, Mường
Khương, gà Mía (Sơn Tây),…
+ Nhập nhiều giống ngoại có năng suất cao như bị sữa Cu Ba, Hà Lan, bò
thịt Thụy Sỹ, trâu sữa Mura (Ấn Độ), lợn Yooc sai, Đại Bạch…
+ Đàn gia súc, gia cầm được cải tạo nhiều.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chăn nuôi: Hệ thống chuồng trại, xí nghiệp chăn
ni được xây dựng. Mạng lưới các xí nghiệp chế biến (đóng hộp, đơng lạnh
thực phẩm) phát triển rộng khắp cả nước. Dịch vụ thú y, cung ứng vật tự chăn
nuôi được mở rộng. Các trung tâm nghiên cứu về giống vật nuôi phát triển, kĩ
thuật lai tạo giống tiên tiến đã lai tạo thành công nhiều gia súc, gia cầm cho năng
suất cao, phù hợp với điều kiện sinh thái nước ta. Tính đến năm 2019, cả nước ta
có trên 20 nghìn trang trại chăn ni, chiếm khoảng 60% số trang trại của ngành
nông nghiệp.


Trang trại chăn ni bị sữa của TH True Milk tại Nghĩa Đàn – Nghệ An
- Thị trường: nước ta có dân số đơng, mức sống ngày càng nâng cao là thị trường
to lớn, nhất là ở các vùng đô thị. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy ngành
chăn nuôi phát triển mạnh không chỉ về sản lượng mà còn về cơ cấu, chất lượng
sản phẩm. Lối sống hiện đại nên yêu cầu về các sản phẩm chế biến ngày càng
tăng. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến địi hỏi nhiều ngun liệu từ
ngành chăn ni đặc biệt sản phẩm công nghiệp chế biến. Đặc biệt là thị trường
xuất khẩu thông qua một số mặt hàng chế biến.
- Các thuận lợi khác: dân cư, lao động có truyền thống, kinh nghiệm chăn ni;
các chính sách khuyến nơng: đưa chăn ni trở thành ngành chính.
Nhằm thúc đẩy, đổi mới hoạt động tổ chức sản xuất trong chăn nuôi, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 04/6/2010 về chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nơng nghiệp, nơng thơn, Nghị định số
210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ thay thế Nghị định số
61/2010/NĐ-CP và Nghị định số Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018
của Chính phủ thay thế Nghị định số 210/2013/NĐ-CP, quy định một số ưu đãi
và hỗ trợ đầu tư của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp đầu tư vào nơng
nghiệp, nơng thơn. Theo đó, các doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp, khu
vực nông thôn sẽ được miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn, giảm tiền thuê đất của
Nhà nước; hỗ trợ thuê đất, thuê mặt nước của hộ gia đình, cá nhân và miễn,
giảm tiền sử dụng đất khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
b. Khó khăn
- Về tự nhiên
+ Diện tích đồng cỏ nhỏ, phân tán, nhiều cỏ tạp khó cải tạo, năng suất đồng cỏ
thấp.


+ Mùa khơ ở các tỉnh phía nam (Tây Ngun) thiếu nước, đồng cỏ khó phát
triển
+ Mơi trường nhiệt đới ẩm dễ phát sinh dịch bệnh cho gia súc, gia cầm.
Cụ thể, tháng 5/2020, dịch tả lợn châu Phi đã tái phát, lây lan trên diện rộng ở 20
tỉnh thành buộc tiêu hủy gần 4.000 con heo.

Cơ quan chức năng tiêu hủy một ổ dịch tả heo châu Phi - Ảnh: BÙI MINH
(Nguồn: Báo Tuổi trẻ)
- Về kinh tế - xã hội
+ Hình thức chăn ni cịn lạc hậu, chủ yếu theo lối quảng canh, năng suất chưa
cao. Số các trang trại trong chăn nuôi ngày càng tăng nhưng quy mơ cịn nhỏ,
chủ yếu là các trang trại chăn ni hộ gia đình.
+ Giống gia súc, gia cầm năng suất thấp, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng
được nhu cầu xuất khẩu.

+ Cơ sở thức ăn cho chăn nuôi chưa được đảm bảo.
+ Công nghiệp chế biến thức ăn gia súc chưa phát triển; công tác dịch vụ thú y
vẫn còn hạn chế, dẫn đến nhiều dịch bệnh phát triển gây hại cho đàn gia súc.
2.1.1.3. Tình hình phát triển
- Giá trị sản xuất của chăn nuôi ngày càng tăng, tỉ trọng trong cơ cấu giá trị sản
xuất nông nghiệp ngày càng lớn, cho thấy vai trò và vị thế của ngành chăn nuôi
đã được khẳng định. Năm 2015, giá trị của ngành đạt 154 015 tỉ đồng (theo giá
so sánh năm 2010), chiếm 26,9% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Sự phát


triển của chăn nuôi ngày càng vững chắc, tiến lên sản xuất hàng hóa, năng suất
và hiệu quả chăn ni cao.

Biểu đồ giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp
nước ta
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
- Trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn ni thì chăn ni gia súc chiếm tỉ
trọng lớn nhất (khoảng 70%), tỉ trọng của gia cầm và các sản phẩm khơng qua
giết thịt cịn thấp. Tuy nhiên trong những năm gần đây, cơ cấu đã có sự thay đổi
theo xu hướng tăng tỉ trọng sản phẩm không qua giết thịt.


Biểu đồ một số sản phẩm chăn nuôi nước ta giai đoạn 1990 –
2019 (Nguồn: Tổng cục thống kê)
- Lợn và gia cầm là hai nguồn cung cấp thịt chủ yếu. Đàn lợn đạt 27.7 triệu con
(năm 2015), cung cấp trên ¾ sản lượng thịt các loại; tuy nhiên năm 2019 sản
lượng có sụt giảm do dịch bệnh (tả heo châu Phi). Chăn nuôi gia cầm tăng mạnh
với 481.1 triệu con (năm 2019).
- Chăn nuôi gia súc ăn cỏ chủ yếu dựa vào các đồng cỏ tự nhiên: Đàn trâu ổn định
ở mức 2.9 triệu con vào giai đoạn 1990 – 2010, đến năm 2019 giảm xuống 2.3

triệu con; trong khi đàn bò từ chỗ chỉ bằng 2/3 đàn trâu (đầu thập niên 80 của thế
kỉ XX) đến năm 2019 đã đạt 6060 nghìn con và có xu hướng tăng mạnh. Chăn
ni bị sữa phát triển khá mạnh. Chăn ni dê cừu cũng tăng mạnh trong những
năm gần đây.


2.1.1.4. Phân bố
- Đàn gia súc chủ yếu của nước ta là trâu, bị, lợn được ni ở khắp các
vùng trong cả nước (vì đây là những vật ni phổ biến ở nước ta từ lâu đời). Tuy
nhiên mức độ tập trung theo lãnh thổ có sự khác nhau:
Số lượng các loại vật nuôi phân theo vùng kinh tế nước ta năm 2019
Loại vật nuôi
CẢ NƯỚC
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

Tây Ngun
Đơng Nam Bộ
Đồng bằng sơng Cửu Long

Trâu
2.387,9
125,6
1.331,6
774,3
96,4
36,9
23,0


Bị
6.060,0
496,6
1.081,6
2.380,3
831,5
420,5
849,6

Lợn
19.615,5
4.178,9
5.108,7
3.883,0
1.544,3
3.214,7
1.685,9

Gia cầm
481.079,0
120.141,0
97.903,0
100.462,0
24.759,0
55.309,0
82.505,0

(Nguồn: Tổng cục thống kê gso.gov.vn)
+ Trâu được nuôi nhiều nhất ở Trung du và miền núi Bắc Bộ (hơn ½ đàn
trâu của cả nước) và Bắc Trung Bộ. Các tỉnh có số lượng đàn trâu lớn như Nghệ

An, Thanh Hóa, Hà Giang, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Nguyên
nhân do trâu được nuôi lấy thịt và sức kéo; trâu ưa ẩm, chịu rét được, dễ thích
nghi với điều kiện chăn thả trong rừng ở các tỉnh phía Bắc
+ Đàn bị được nuôi nhiều ở Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và
Tây Ngun. Chăn ni bị sữa phát triển khá mạnh ở ven Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh. Ngun nhân do bị được ni để lấy thịt và sữa; bị thích hợp với khí
hậu ấm, khơ, giàu thức ăn.
+ Lợn phân bố chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng. Ngồi ra, đàn lợn cịn
được phát triển ở các vùng miền núi như Trung du miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ. Riêng Đồng bằng sông Cửu Long mặc dù có nguồn lương thực dồi dào
nhưng đàn lợn khơng đơng. Ngun nhân do vùng này có mạng lưới sơng ngịi
dày đặc, tập quán sản xuất đời sống gắn liền với sơng nước nên ni nhiều thủy
sản, vịt, ít ni lợn. Dân cư khơng đơng, ít thành phố lớn như đồng bằng sơng
Hồng nên nhu cầu ít hơn.
- Gia cầm ni rộng rãi trong cả nước nhưng tập trung nhiều nhất ở Đồng
bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là các khu vực giáp các


thành phố lớn (thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội) và các địa phương có cơ sở
cơng nghiệp chế biến thịt. Trong số các loại gia cầm thì gà và vịt là hai vật nuôi
quan trọng nhất ở nước ta nhưng phân bố không giống nhau.
+ Đàn gà phân bố tập trung ở Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, trung
du Bắc Bộ do nhu cầu lớn của thị trường.
+ Đàn vịt phân bố tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long do có diện tích
mặt nước lớn, nguồn thức ăn dồi dào.
Một số loại vật nuôi khác đang được thị trường ưu chuộng như dê (được
nuôi nhiều ở các vùng khô hạn nước ta như Trung du miền núi Bắc Bộ, Duyên
hải cực Nam Trung Bộ); nuôi cà cuống lấy tinh dầu (ở các vùng ao hồ).
2.1.2. Ngành thủy sản
2.1.2.1.Vai trị

- Về kinh tế
+ Thủy sản có vai trị quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, được xác định
là một trong năm ngành kinh tế biển theo chốt trong chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020.
+ Tạo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm,
dược phẩm.
+ Cung cấp phụ phẩm cho chăn ni, góp phần ổn định cơ sở thức ăn, đưa
chăn nuôi từng bước phát triển vững mạnh. Mỗi năm thủy sản cung cấp 13 – 14
nghìn tấn bột cá cho chăn ni.
+ Tạo nguồn hàng xuất khẩu quan trọng, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn,
bổ sung vào nguồn vốn tích lũy cho nền kinh tế. Giá trị xuất khẩu ngành thủy
sản đứng thứ 3 trong các ngành kinh tế của đất nước.
+ Góp phần đa dạng hóa sản xuất nơng nghiệp, chuyển dịch cơ cấu sử
dụng lao động ở nông thôn, đưa nền nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa.
- Về xã hội


+ Tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là ngư dân. Hiện
này có khoảng 3 triệu lao động hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp trong nghề cá
biển, khai thác, nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản gần bờ, xa bờ.
+ Thủy sản cung cấp nguồn thực phẩm bổ dưỡng nhằm bổ sung nguồn
đạm động vật và nâng cao chất lượng bữa ăn. Các chất đạm từ thủy sản dễ tiêu
hóa, khơng gây béo phì, cung cấp các nguyên tố vi lượng dễ hấp thụ và có lợi
cho sức khỏe. Sự thay đổi về tư duy, nhận định của người dân, cũng như sự thay
đổi trong tập quán uống dẫn đến thành phần cơ cấu bữa ăn có thay đổi đáng kể.
Các sản phẩm từ thủy sản trở thành một mặt hàng được nhiều nhà tiêu dùng lựa
chọn.
- Về mơi trường: Góp phần sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thủy sản phong phú
ở nước ta.

- Về an ninh quốc phòng: Việc phát triển ngành thủy sản khơng chỉ mang lại lợi
ích về mặt kinh tế - xã hội – mơi trường mà cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc
bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
2.1.2.2. Nguồn lực phát triển
a. Thuận lợi
- Điều kiện tự nhiên
+ Nguồn lợi thủy sản để phát triển đánh bắt
Nước ta có đường bờ biển dài 3260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng trên
1 triệu km2.
Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú. Tổng trữ lượng hải
sản khoảng 3,9 – 4 triệu tấn, cho phép khai thác hằng năm khoảng 1,9 triệu tấn.
Biển có 2000 lồi cá (trong đó có 100 lồi có giá trị kinh tế), 1647 lồi giáp xác,
hơn 100 lồi tơm, hơn 2500 lồi nhuyễn thể, hơn 600 lồi rong biển,…
Có nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư trường trọng điểm: Hải Phòng –
Quảng Ninh (ngư trường vịnh Bắc Bộ), Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa –
Vũng Tàu, Cà Mau – Kiên Giang (ngư trường vịnh Thái Lan), quần đảo Hoàng
Sa – Trường Sa.


Điều kiện tự nhiên (nền nhiệt cao, độ ẩm lớn, mùa đơng khơng q lạnh,
khơng bị đóng băng) cho phép hoạt động thủy sản diễn ra quanh năm, nhất là
các tỉnh phía Nam.
Địa hình ven biển có nhiều vũng, vịnh tạo điều kiện xây dựng các cảng cá,
đẩy mạnh đánh bắt xa bờ.
+ Diện tích mặt nước để ni trồng
Diện tích mặt nước lớn, nhiều sơng suối, kênh rạch, ao hồ, vùng đồng bằng
có các ơ trũng có thể ni thả cá, nuôi tôm nước ngọt. Cả nước đã sử dụng hơn
900 nghìn ha diện tích mặt nước để ni thủy sản, riêng Đồng bằng sông Cửu
Long chiếm trên 70%.
Dọc bờ biển có nhiều bãi triều, đầm phá, các cánh rừng ngập mặn. Đó là

khu vực thuận lợi cho ni trồng thủy sản nước lợ. Ở một số hải đảo có các rạn
đá, là nơi tập trung nhiều hải sản có giá trị kinh tế. Ven bờ có đảo và vụng, vịnh
tạo điều kiện hình thành các bãi cho cá đẻ.
- Điều kiện kinh tế - xã hội
+ Nước ta có nguồn lao động dồi dào, nhân dân có nhiều truyền thống,
kinh nghiệm đánh bắt cá biển và nuôi trồng thủy sản
+ Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ ngành thủy sản đã và
đang được nâng cấp
• Các phương tiện đánh bắt thủy sản ngày càng được nâng cao công suất, sử dụng
các thiết bị hiện đại nhằm đẩy mạnh đánh bắt xa bờ
• Các dịch vụ thủy sản ngày càng phát triển (dịch vụ về giống, cung ứng vật tư,
thiết bị, thuốc phòng trừ dịch bệnh, thức ăn cơng nghiệp)
• Hệ thống cảng biển ngày càng được mở rộng, nâng cấp
• Cơng nghiệp chế biến thủy sản được nâng cấp, xây dựng mới nhằm nâng cao
chất lượng và giá trị sản phẩm.
- Chính sách: những đổi mới trong chính sách của Nhà nước đã có tác động tích
cực đến sự phát triển của ngành thủy sản. Nước ta đã ban hành chương trình
đánh bắt cá xa bờ và trang bị các tàu thuyền công suất lớn, trang thiết bị hiện đại
để nâng cao sản lượng đánh bắt cá biển, hỗ trợ vốn, kinh phí cho ngư dân. Cụ
thể:


Nghị định số 67/2014/NĐ-CP là văn bản quy phạm pháp luật quy định các
chính sách mang tính đột phá, đồng bộ, tạo động lực phát triển ngành thủy sản
góp phần bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia trên biển. Qua 05 năm triển khai
thực hiện Nghị định, mục tiêu hiện đại hóa tàu cá bước đầu đã đạt được, số
lượng tàu khai thác gần bờ giảm (13,2%), số lượng tàu cá khai thác xa bờ tăng
(20,1%); có gần 50% là tàu đóng mới vỏ thép, vỏ vật liệu mới, với khoảng trên
50% tàu có cơng suất từ 800CV trở lên được trang bị hiện đại, góp phần thúc
đẩy ngành đóng tàu cá vỏ thép, vật liệu mới phát triển (Theo Báo Điện tử Đảng

Cộng sản Việt Nam).
- Thị trường cả trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng. Bên cạnh những thị
trường truyền thống như Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, các mặt
hàng thủy sản của nước ta còn thâm nhập được vào những thị trường mới, khó
tính như Anh, Canada, Thụy Sĩ, Australia, các nước Đông Nam Á. Đây đều là
những thị trường giàu tiềm năng. Đặc biệt, khi Việt Nam kí kết thành công các
hiệp định về thương mại với EU, các nước Đông Nam Á… trong thời gian gần
đây đã mở rộng thêm thị trường xuất khẩu của thủy sản nước ta.
b. Khó khăn
- Điều kiện tự nhiên
+ Khí hậu
Thiên tai và sự thất thường của thời tiết trên Biển Đông gây rất nhiều khó
khăn và thiệt hại cho ngành thủy sản, đặc biệt là đánh bắt thủy sản. Mỗi năm có
từ 9 – 10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, 30 – 35 đợt gió mùa Đơng Bắc, chủ yếu
ở các tỉnh miền Bắc và duyên hải miền Trung gây thiệt hại về người, tài sản của
ngư dân và hạn chế số ngày ra khơi.
Khí hậu và thời tiết hay biến động cũng ảnh hưởng đến việc nuôi trồng
thủy sản. Nhiệt độ cao, nóng ẩm dễ phát sinh và lan tràn các dịch bệnh
+ Nguồn lợi thủy sản tự nhiên.
Việc khai thác quá mức ở ven bờ kết hợp với việc đánh bắt bằng chất nổ,
xung điện, chất độc hóa học, đã làm suy giảm, làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản
của nước ta.
Ở một số vùng ven biển, môi trường đã bị suy thoái và nguồn lợi thủy sản
suy giảm.


- Điều kiện kinh tế - xã hội
+ Cơ sở vật chất kĩ thuật
Tàu thuyền và các phương tiện đánh bắt nói chung cịn chậm được đổi
mới, do vậy năng suất lao động còn thấp.

Hệ thống các càng cá còn chưa đáp ứng được yêu cầu
Việc chế biển thủy sản, nâng cao chất lượng sản phẩm còn nhiều hạn chế
+ Ngư trường truyền thống (Hồng Sa, Trường Sa) có nhiều bất ổn do sự
can thiệp của tàu nước ngồi.
2.1.2.3. Tình hình phát triển
Trong những năm qua, ngành thủy sản nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn cả về giá trị sản xuất, sản lượng và giá trị xuất khẩu,…
- Giá trị sản xuất:
+ Theo báo cáo Kinh tế xã hội năm 2019, tình hình tăng trưởng của ngành
nơng nghiệp đạt mức thấp nhất trong giai đoạn 2011 – 2019 (chỉ đạt 0,6%)
nhưng điểm sáng của khu vực này là ngành thủy sản vẫn tăng trưởng khá ở mức
6,3%.
+ Năm 2019, ngành thủy sản đạt giá trị sản xuất là 153169.9 tỉ đồng và có
tốc độ tăng trưởng khá nhanh, tăng nhanh hơn giá trị của ngành trồng trọt và
chăn nuôi. Giá trị sản xuất của ngành khai thác và ni trồng đều tăng, trong đó,
giá trị khu vực nuôi trồng tăng nhanh hơn khai thác.
- Tỉ trọng giá trị sản xuất của ngành thủy sản trong cơ cấu nông - lâm - ngư
nghiệp chiếm 27,8% (năm 2010) và có xu hướng tăng lên.


Biểu đồ tình hình phát triển ngành thủy sản nước ta qua các năm
Nguồn: Tổng cục thống kê gso.gov.vn
- Sản lượng thủy sản tăng nhanh. Tổng sản lượng thủy sản năm 1995 đến 2019
tăng mạnh từ 1,6 triệu tấn lên 8,3 triệu tấn (tăng 5,2 lần); trong đó, sản lượng
thủy sản khai thác tăng 3,2 lần (từ 1,2 triệu tấn lên 3,8 triệu tấn); sản lượng thủy
sản nuôi trồng tăng tới11,2 lần (từ 0,4 triệu tấn lên 4,5 triệu tấn)
- Cơ cấu sản lượng thủy sản nước ta cũng có sự chuyển dịch.
Bảng Cơ cấu sản lượng thủy sản nước ta qua các năm (Đơn vị: %)
Năm
Tổng sản lượng thuỷ sản


1995

2000

2010

2017

2019

100.0

100.0

100.0

100.0

100.0

Sản lượng khai thác

75.4

73.8

46.9

46.8


45.7

Sản lượng nuôi trồng

24.6

26.2

53.1

53.2

54.3

Nguồn: Tổng cục thống kê gso.gov.vn
Từ năm 1995 đến 2019, tỉ trọng sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng nhanh
(từ 24,6% lên 54,3% - tăng 29,7%). Tỉ trọng sản lượng thủy sản khai thác giảm
mạnh (từ 75,4% xuống còn 45,7%. Nếu như trước đây, sản lượng thủy sản khai


thác chiếm đại đa số trong sản lượng ngành thủy sản nước ta thì hiện nay, sản
lượng thủy sản ni trồng lại chiếm tỉ lệ cao hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp
với xu hướng phát triển ngành thủy sản nước ta là đẩy mạnh các hoạt động nuôi
trồng; hạn chế các hoạt động khai thác ven bờ để đảm bảo sự đa dạng sinh học
và cân bằng sinh thái.
- Sản lượng thủy sản bình quân đầu người tăng mạnh. Từ năm 1995 đến 2019
tăng từ 22kg/người lên 85,7kg/người.
- Phương thức nuôi: đang chuyển từ phương thức nuôi quảng canh sang nuôi bán
thâm canh. Nhiều vùng nuôi tập trung theo kiểu thâm canh cơng nghiệp và sản

xuất hàng hóa lớn đã hình thành. Hình thức và đối tượng ni cũng khá phong
phú nhưng ở vùng nước lợ chủ yếu là tơm và một số lồi nhuyễn thể có giá trị
xuất khẩu. Sản phẩm nuôi mặn, lợ đã mang lại giá trị xuất khẩu rất cao cho nền
kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động. Hình thức nuôi lồng bè
trên biển cũng đang là hướng mở mới cho ngành thủy sản, với các lồi tơm hùm,
cá giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc…
2.1.2.4. Phân bố
- Phân bố
+ Khai thác thủy sản phát triển ở tất cả các tỉnh ven biển, đặc biệt là các
tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
+ Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long với
700 nghìn ha diện tích mặt nước trong tổng số 1 triệu ha diện tích mặt nước để
ni thủy sản. Nghề nuôi tôm phân bố chủ yếu ở Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,
Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang. Nghề ni cá nước ngọt phát triển ở Đồng bằng
sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Tỉnh An Giang nổi tiếng về nuôi cá
tra, cá ba sa trong lồng bè trên sơng Tiền, sơng Hậu.
- Phân hóa:
+ Ngành khai thác: Hiện nay, việc khai thác thủy sản tập trung ở 4 ngư
trường thuộc vùng biển vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Vùng có ngành khai thác phát triển mạnh nhất nước ta là Duyên hải Nam Trung
bộ và Nam Bộ. Các tỉnh có sản lượng thủy sản khai thác nhiều nhất là Kiên
Giang (315 157 tấn), Bà Rịa Vũng Tàu (220 322 tấn), Cà Mau, Bình Thuận.


+ Ngành ni trồng: phân hóa thành các vùng ni trồng thủy sản nước
ngọt, mặn – lợ. Vùng có diện tích và sản lượng thủy sản ni trồng nước ngọt
lớn nhất nước ta là Đồng bằng Sông Cửu Long; vùng có diện tích và sản lượng
thủy sản ni trồng mặn – lợn nhiều nhất nước ta là ở duyên hải miền Trung.
2.1.2.5. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển ngành thủy sản
Vấn đề đáng lo ngại nhất là vấn đề về môi trường. Nuôi trồng thủy sản ven

biển nước ta hầu hết là tự phát, quy mô đa dạng, phương thức nuôi chủ yếu là
quảng canh (tăng sản lượng nhờ vào tăng diện tích). Chính vì vậy, đẫ dẫn đến
tình trạng các hệ sinh thái ven biển bị phá hủy, nơi cư trú của các loài ven biển
bị mất, thu hẹp không gian vùng biển, tăng rủi ro bệnh dịch cho vật ni do
thiếu các yếu tố có vait rị điều hịa và điều chỉnh mơi trường.
Ni trồng thủy sản ven biển tăng nhanh dẫn đến nguồn giống tự nhiên của
một
số loài cá giống kinh tế cư trú ở các rạn san hô bị đối tượng nuôi lồng bè khai
thác
cạn
kiệt. Điều này làm ảnh hưởng đến chức năng duy trì nguồn lợi tự nhiên của các
hệ
sinh
thái đặc hữu và ảnh hưởng tới khả năng khai thác hải sản tự nhiên của vùng
biển.
Việc thiết kế, xây dựng đầm ao nuôi trồng thủy sản ở vùng cửa sông ven
biển dẫn đến những thay đổi về nơi sinh sống của quần xã sinh vật, độ muối,
lắng đọng trầm tích và sói lở bờ biển. Một số hoạt động của nghề NTTS không
dựa trên các căn cứ khoa học đã tác động xấu đến nguồn giống thiên nhiên (cá,
tôm hùm, cua), làm giảm sức sản xuất tự nhiên và mất tính đa dạng sinh học.
Tại một số khu vực nuôi tôm, cá tập trung (trong đó có ni trên cát), do
việc xả thải các chất hữu cơ phú dưỡng, chất độc vi sinh vật (cả mầm bệnh) và
các chất sinh hoạt bừa bãi làm cho mơi trường suy thối, bùng nổ dịch bệnh và
gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cũng như về điều kiện môi trường sinh thái.
Lạm dụng nước ngầm để nuôi tôm trên cát, không tuân thủ luật tài nguyên
nước đang là hiện tượng khá phổ biến ở vùng cát ven biển miền Trung. Hậu quả
lâu dài sẽ làm cạn kiệt nguồn nước ngọt và nước ngầm, ô nhiễm biển và nước
ngầm, gây mặn hóa đất và nước ngầm, thu hẹp diện tích rừng phịng hộ, làm
tăng hoạt động cát bay ở vùng duyên hải miền Trung.



2.1.2.6. Thời cơ, thách thức của ngành thủy sản trong bối cảnh hiện nay
a. Thời cơ
Việt Nam đã và đang hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế thế giới. Đặc
biệt, từ sau diễn biến của đại dịch Covid-19, Việt Nam là một điểm đến tin cậy,
là đối tác mới của nhiều quốc gia và khu vực. Tiêu biểu chúng ta đã kí thành
cơng Hiệp định EVFTA với EU. Hiệp định chính thức có hiệu lực từ ngày
01/08/2020.
Theo báo cáo của Tổng Cục thủy sản 31/07/2020, năm 2019, EU là thị
trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 4 của Việt Nam, sau Mỹ, Nhật Bản, Trung
Quốc – Hồng Kông. Thị trường này luôn chiếm trên 15,12% trong tổng giá trị
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường. Trong đó, riêng sản phẩm
tơm, EU chiếm khoảng 20,5% tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam, cá tra chiếm
khoảng 11,7%, cá ngừ chiếm khoảng 19,4%, các mặt hàng hải sản chiếm khoảng
30 -35%.
Trong năm 2019, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường
EU đạt gần 1.3 tỷ USD. Trong đó, giá trị xuất khẩu sản phẩm tôm đạt 690 triệu
USD (EU là thị trường tiêu thụ sản phẩm tôm lớn nhất của Việt Nam), giá trị
xuất khẩu sản phẩm cá ngừ đạt gần 140 triệu USD (EU là thị trường đứng thứ 2
về tiêu thụ sản phẩm cá tra Việt Nam), giá trị xuất khẩu cá tra đạt trên 235 triệu
USD (EU là thị trường đứng thứ 4 về tiêu thụ sản phẩm cá tra Việt Nam), còn
lại là các sản phẩm khác.
Ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực sẽ có gần 50% số dịng thuế đang
có thuế suất cơ sở 0-22%, trong đó phần lớn thuế cao từ 6-22%, sẽ được giảm về
0% (khoảng 840 dòng thuế). Khoảng 50% số dòng thuế còn lại có thuế suất cơ
sở 5,5-26% sẽ được về về 0% sau từ 3 đến 7 năm. Riêng cá ngừ đóng hộp và cá
viên, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan lần lượt là 11.500 tấn và 500
tấn.
Ngoài ra, hầu hết các sản phẩm mực, bạch tuộc đông lạnh đang có mức
thuế cơ bản 6-8% sẽ được giảm ngay về 0%, các sản phẩm khác như surimi (thịt

cá thờn bơn cao cấp được tác xương, rửa sạch, nghiền nhỏ) được giảm từ 14,2%
về 0%, cá cờ kiếm từ 7,5% về 0%.


Đối với sản phẩm tôm, tôm sú đông lạnh được giảm thuế từ mức cơ bản
20% xuống 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực. Các sản phẩm tơm khác theo lộ
trình 3-5 năm, riêng tơm chế biến lộ trình giảm thuế 7 năm. Đối với sản phẩm cá
tra lộ trình giảm thuế 3 năm, riêng cá hun khói lộ trình 7 năm. Sản phẩm cá ngừ
đơng lạnh được giảm thuế về 0% ngay, trừ thăn cá ngừ đông lạnh (loin) cần lộ
trình 7 năm và sản phẩm cá ngừ hộp có hạn ngạch hưởng thuế 0% là 11.500 tấn.
Như vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang đứng trước
cơ hội rất lớn xuất khẩu vào thị trường EU rộng lớn khi Hiệp định thương mại tự
do Việt Nam – EU có hiệu lực. Bên cạnh đó, khi Hiệp định EVFTA được ký kết
sẽ tạo ra cơ hội để các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam mở rộng thị trường xuất
khẩu, đặc biệt là các thị trường mới như Hà Lan, Tây Ban Nha, Italy…Đồng
thời, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam so với nhiều đối
thủ chưa tham gia các FTA.
Hiện mặt hàng tôm, cá tra, cá ngừ là một trong những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam sang thị trường EU. Đối với sản phẩm cá ngừ, Thái Lan,
Trung Quốc đang là hai đối thủ lớn nhất của Việt Nam, nắm giữ nhiều thị phần
xuất khẩu nhất nhưng cả hai quốc gia trên đều chưa ký kết FTA với EU. Điều
này đồng nghĩa với sản phẩm cá ngừ của Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về thuế
so với hai nước trên tại hai khu vực thị trường lớn là EU.
Tương tự với sản phẩm cá ngừ, Việt Nam hiện đang đứng thứ 2 thế giới về
xuất khẩu các sản phẩm tôm với thị phần 14%, đứng đầu là Ấn Độ với 15% thị
phần. Sau khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam sẽ được cắt giảm thuế nhập khẩu
tôm nguyên liệu và cả thuế xuất khẩu tôm chế biến vào EU, trong khi đó q
trình đàm phán FTA giữa Ấn Độ và EU cũng đang bị tạm ngưng. Đây được xem
là cơ hội để sản phẩm tôm xuất khẩu Việt Nam vươn lên cạnh tranh vị trí xuất
khẩu hàng đầu với Ấn Độ dành lấy thị phần tại thị trường này.

Đối với các sản phẩm thủy sản cạnh tranh về giá hiện nay là rất lớn trong
khi đó mức thuế xuất khẩu thủy sản vào một số thị trường hiện nay rất cao. Cụ
thể, tôm xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực EU có mức thuế trung bình là 6 20%, mặt hàng cá ngừ cũng có mức thuế từ 11 - 20%. Vì vậy khi EVFTA có
hiệu lực, việc cắt giảm các dòng thuế sẽ giúp sản phẩm thủy sản Việt Nam hạ giá
thành đáng kể, nâng cao khả năng cạnh tranh và kim ngạch xuất khẩu. Mặt khác,
ngoài các lợi thế về mặt thuế quan, ngành thủy sản Việt Nam cũng có


thêm nhiều cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao cơng nghệ sản xuất và
chất lượng sản phẩm.
Ngồi những lợi ích cơ bản là thuế xuất khẩu, ngành thủy sản Việt Nam
cịn có cơ hội lớn để tiếp cận các gói mua sắm các mặt hàng phục vụ đầu tư cơng
từ các nước EU; nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến thủy
sản từ các nước EU với giá hợp lý hơn; nhập khẩu, chuyển giao công nghệ thuận
lợi hơn; thủ tục chứng nhận xuất xứ, thủ tục hải quan; thủ tục khiếu nại, xử lý
vướng mắc TBT (các rào sản kỹ thuật đối với thương mại), SPS (các biện pháp
vệ sinh dịch tễ) sẽ thuận lợi và nhanh hơn, minh bạch hơn; tiếp cận với các dịch
vụ sản xuất tốt hơn về tài chính, bảo hiểm, logistics…; tiếp cận các kênh phân
phối thuận lợi hơn…
b. Thách thức
Bối cảnh hội nhập cũng đặt ngành chăn nuôi và thủy sản nước ta trước
những thách thức lớn. Như đã nói ở trên, việc kí hiệp định EVFTA với EU đã
tạo ra bước tiến lớn trong xuất khẩu cho các mặt hàng trong nước đặc biệt về
thủy sản. Nhưng nó cũng đặt ra những yêu cầu khắt khe cho ngành thủy sản,
nhất là truy xuất nguồn gốc, điều kiện an tồn thực phẩm.
Khơng ít lần các mặt hàng thủy sản nước ta bị vướng phải các vụ kiện trên
thị thường thế giới. Năm 2001, Việt Nam bị Hoa Kì kiện bán phá giá tơm. Năm
2014, mặt hàng tơm của nước ta bị Hoa Kì từ chối vĩ nhiễm kháng sinh. Năm
2017, EU đã cảnh báo "thẻ vàng" với thủy sản Việt Nam, do chưa đáp ứng được
các yêu cầu về vấn đề kiểm soát đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo và

không được quản lý (IUU). Đây là những bài học quý giá cho ngành thủy sản
nước ta.


2.2. Phương pháp và phương tiện dạy học
Ngày 04/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, cùng
với sự vận động của nền kinh tế, xã hội, hệ thống giáo dục sẽ có những chuyển
biến đáng kể. Và hơn bao giờ hết, quan điểm “Muốn tồn tại và phát triển con
người cần học tập thường xuyên, học tập suốt đời” (L. Wattshon) càng được đề
cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra với tốc độ chóng mặt, yêu
cầu con người phải có các kiến thức, kĩ năng để điều khiển được máy móc, quản
lí mạng, thế giới ảo. Và vì vậy cho nên mục tiêu giáo dục cũng thay đổi căn bản
và tồn diện: giáo dục khơng chỉ trao đổi về kiến thức mà quan trọng hơn là chú
trọng phát triển các năng lực – năng lực để kiến tạo nên cơng dân tồn cầu.
Tuy nhiên, cần nhận định được rằng: trong bất kì thời điểm nào, xã hội nào
thì tự học ln ln là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn
đến sự thành bại của nền giáo dục, là một trong những nhân tố quan trọng làm
nên thành công của mỗi người và đối với học sinh chuyên thì việc tự học còn
quan trọng hơn nữa. Để hệ thống các trường chuyên trên cả nước trở thành
những đầu tàu, mũi nhọn trong phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài thì tăng
cường năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học sinh là điều bắt buộc.
Nếu so sánh với nền giáo dục ở các quốc gia khác trên thế giới và trong
khu vực thì học sinh ở nhiều nước, từ cấp bậc Tiểu học đã có cơ hội rèn luyện
các kĩ năng quan sát, giải quyết vấn đề. Ở Việt Nam hiện nay, trong nhiều nhà
trường, nhiều địa phương, việc phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh còn hạn chế. Nhận thấy được tầm quan trọng của việc phát huy tinh thần tự
học, tự nghiên cứu và thực trạng ở địa phương; trong nhiều năm qua chúng tôi

đã tổ chức nhiều hoạt động khuyến khích khả năng tự học, tự nghiên cứu của
học sinh.


×