PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Mỗi bản Cương lĩnh chính trị của Đảng, ở những mức độ khác nhau, đều
được xây dựng trên cơ sở quán triệt, vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát
triển các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc, phản ánh đúng thực tiễn Việt
Nam và có tham khảo kinh nghiệm của thế giới.
Chính vì vậy, nó vừa có tính lý luận khoa học vừa có tính thực tiễn sâu sắc,
kết hợp tính giai cấp và tính dân tộc, đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của
cách mạng ở mỗi giai đoạn và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân. Việc so
sánh luận cương chính trị tháng 10/1930 với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng nhằm mục đích chỉ rõ ra những điểm khác và giống nhau của hai văn
kiện, từ đó thấy được các luận cương, chính cương chính trị đã góp phần thế
nào trong cơng cuộc đấu tranh giành thắng lợi của nhân dân ta.
Tuy nhiên mỗi văn kiện chính trị ra đời ở một thời điểm khác nhau phù hợp
với tình hình, nhận thức của một thời kì lịch sử cụ thể, so với ngày nay có một
số tư tưởng đã bị thực tiễn vượt qua và khơng cịn phù hợp. Việc phân tích
nhằm mục đích giúp ta hiểu rõ đường lối của cha ông ta từ đó rút ra được
những kinh nghiệm bài học quý giá trong việc quản lý đề ra các chiến lược
cho đất nước ngày nay.
2. Tổng quan đề tài
Đề tài “Nội dung, ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Điểm khác của Luận cương chính trị tháng 10/1930 so với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng” là một đề tài khơng q mới mẻ, có thể tìm
thấy trên các diễn đàn học thuật. Đồng thời các cơng trình nghiên cứu đề tài
này tương đối bao quát và được nghiên cứu cụ thể, chi tiết.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hiểu được nội dung, ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và
nêu được điểm giống, khác nhau giữa hai văn bản Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10/1930 cũng như mặt ưu và
nhược điểm của hai văn kiện trên.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bài tiểu luận chủ yếu nghiên cứu nội dung trong tài liệu, giáo trình của giai
đoạn đó, nêu được ý nghĩa và rút ra kết luận, bài học kinh nghiệm từ hai văn
kiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và Luận cương chính trị tháng
10/1930.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Bài tiểu luận được nghiên cứu dựa trên tài liệu, giáo trình của giai đoạn đó
kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic và phương pháp
nghiên cứu lý luận.
6. Đóng góp của đề tài
-
Đem đến cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng
-
Dựa vào các phương pháp luận đã nêu, so sánh được điểm giống và
khác nhau, ưu và nhược điểm của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
và Luận cương chính trị tháng 10/1930
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 phần chính: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận
Phần nội dung gồm 3 chương:
-
-
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử và sự thành lập Đảng cộng sản Việt nam
1.1.
Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
1.2.
Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930
Chương 2: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2.1. Cương lĩnh đầu tiên thể hiện qua Chính cương văn tắt của Đảng
2.2. Cương lĩnh đầu tiên thể hiện qua Sách lược vắn tắt của Đảng
2.3. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
-
Chương 3: So sánh điểm khác của Luận cương chính trị tháng 10/1930 và
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.1. Điểm giống nhau giữa Luận cương chính trị tháng 10/1930 và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.2 Điểm khác nhau giữa Luận cương chính trị tháng 10/1930 và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Hoàn cảnh lịch sử và sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.
Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Vào đầu năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách
mạng Việt Nam, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội khơng cịn đủ
sức lãnh đạo. Trong khi đó, số lượng cộng sản đồn trong Thanh niên cách
mạng đồng chí hội ngày càng nhiều. Cần phải thành lập một đảng cộng sản
để lãnh đạo phong trào, đó là một yêu cầu khách quan và đã có những tiền
đề nhất định.
Tháng 3 năm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ thanh niên cách
mạng đồng chí hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Văn Cung, Trịnh Đình
Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5D Hàm Long,
Hà Nội, quyết định thành lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập
Đảng cộng sản thay thế Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội để lãnh
đạo cách mạng.
Ngày 1 tháng 5 năm 1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội, kiến nghị của đồn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ về việc
giải tán Hội nghị để thành lập Đảng cộng sản khơng được chấp nhận. Đồn
đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản.
Ngày 17 tháng 6 năm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5D Hàm Long đã
họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương
cộng sản đảng, cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời, thông qua Tuyên
ngôn và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức
đảng và các đoàn thể quần chúng.
Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội bế mạc, 6 ủy viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn
Thiệu, Châu Văn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Văn Đồng đã
họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí
lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đồn
cịn lại trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã hình thành các
chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kong (
Trung Quốc).
Thượng tuần tháng 8 năm 1929, An Nam cộng sản đảng được thành lập
tại căn phòng số 1, lầu 2 “Phong cảnh khách lâu” ở đường Bonac Philippin
Sài Gòn. Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng
chí Châu Văn Liêm (tức Việt), Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê
Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Văn Liêm làm bí thư.
Sau Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng
viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dương cộng sản liên
đoàn vào ngày 1 tháng 1 năm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chương,
Nguyễn Khoa Văn ( tức Hải Triều), Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô
Đức Đề, Ngơ Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn, Đại hội chưa kết thúc thì các đại
biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đơng Dương cộng sản liên đồn ra
đời nhưng chưa có Ban chấp hành trung ương.
Đơng Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng sau khi ra đời đã
có sự tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng và cơng kích lẫn nhau.
Đây là những mâu thuẫn trong quá trình phát triển và đi lên của phong trào
cộng sản Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hướng biệt
phái, tiểu tư sản trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận
thấy cần phải sớm khắc phục tình trạng trên, thành lập một đảng cộng sản
thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
1.2.
Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930
Được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, mùa thu năm 1929, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc từ Thái Lan trở về Hương Cảng chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ
“hợp nhất các phần tử cộng sản chân chính lại” để thành lập một đảng duy
nhất. Từ ngày 3 đến 7/2/1930, hội nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một
công nhân ở xóm thợ đường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc).
Tham dự hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, đại
biểu của An Nam cộng sản đảng. Hội nghị tiến hành dưới sự chỉ chủ trì của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hồn tất nhất trí tán
thành ý kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng
sản thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị
đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng
sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng
bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Ngày 24 tháng 2 năm 1930, hai đồng chí Châu Văn Liêm và Nguyễn
Thiệu thay mặt quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hồng Quốc Việt thay
mặt Ban chấp hành Đơng Dương cộng sản liên đồn gia nhập Đảng cộng sản
Việt Nam.
Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ
chức cộng sản ở Đơng Dương đã hồn tồn thống nhất trong một đảng duy
nhất - Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 năm 1930 có
ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra đường lối cách
mạng và đường lối xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan
trọng nhất để ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý chí và hành
động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự
cổ vũ to lớn cho phong trào cách mạng đang ở thời kỳ sôi sục. Đường lối của
Đảng được công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng,
chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp
nhất thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
CHƯƠNG 2: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2.1. Cương lĩnh đầu tiên thể hiện qua Chính cương vắn tắt của Đảng
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng Việt Nam là một xứ thuộc
địa, nửa phong kiến , cơng nghiệp khơng phát triển “vì tư bản Pháp hết sức
ngăn trở sức sinh sản, lại làm cho công nghệ bản xứ không thể nào mở mang
được”.
Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế, “ nông nghệ ngày một tập trung đã phát
sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều”. Tình hình đó đưa đến
mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có cơng
nhân, nơng dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của
chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần xóa bỏ,
Đảng ta đã có sự phân biệt: “Tư bản bản xứ khơng có thế lực gì, ta khơng nên
nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ có bọn đại địa chủ mới có the lực và
đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân
Việt Nam phải làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Đây là một thể loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc
địa mà sinh thời Mác, Lenin và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến.
Sau này, Đảng ta hồn chỉnh tên gọi của thể loại cách mạng này là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và
tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích
cuối cùng là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản ở Việt
Nam.
Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản
dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc
vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và cuoc vận động xây dựng đất
nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi gia đoạn cách mạng là giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuôc vận động này liên
quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước
thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa
hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
khơng có bức tường nào ngăn cách, khơng phải tiến hành một cuộc cách mạng
chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề chính quyền như cách mạng Nga và
cách mạng Trung Quốc.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng
thế giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận
rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch mặt ra là “ đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”,
“Tổ chức ra quân đội công nông”, “Thu hết ruộng đất của bọn đế quốc chủ
nghĩa làm của công cách mạng đem chia cho dân cày nghèo”, “miễn thuế cho
dân nghèo”, “đem mọi quyền tự do cho dân chúng”, “thực hiện ngày làm 8 giờ”,
“mở mang công nghiệp và nông nghiệp”, “thực hành giáo dục toàn dân”, “thực
hiện nam nữ bình quyền”…
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội
chủ nghĩa. Song nổi bật nhất là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng
(đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành độc
lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả
các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung
lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp tay
sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Về vấn đề ruộng đất, “xương sống của cách mạng thuộc địa”, Đảng chủ
trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ
cách mạng, ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hóa tồn bộ đồn điền
và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông
dân nghèo, “hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ đại cách mạng, đánh
trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”. Đối với chủ nghĩa tư bản thì “thu hết sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hang…) của tư bản đế quốc Pháp
để giao cho chính phủ cơng nơng binh. Đối với các tầng lớp “phú nông. Trung
tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng, thì sử dụng, ít
nữa là làm cho họ trung lập”. Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc giành
thắng lợi, chính quyền đã về tay cơng nơng. Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những
cải cách nhằm “sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi nhuận giữa những
nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn”.
2.2. Cương lĩnh đầu tiên thể hiện qua Sách lược vắn tắt của Đảng
Trong khi khẳng định “công nông là gốc cách mạng”, Sách lược vắn tắt của
Đảng vạch rõ “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thứ, trung nơng (Thanh
niên, Tân Việt, phái Nguyễn An Ninh…) để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp”.
Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: “Trong khi liên lạc tạm
thời với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích
gì của cơng nơng đi vào đường lối thỏa hiệp”.
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng “bạo lực
cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến”, rồi “dựng ra chính phủ cơng nơng binh” chứ khơng phải bằng con đường
cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng
trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế
giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi
rõ: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, lại phải đồng
thời tuyên truyền vừa thực hành liên lạc với giai cấp bị áp bức dân tộc và vô sản
giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”.
Cương lĩnh đầu tiên cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng “thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng”, “phải thu phục được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào
hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm cho thổ địa
cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ, phong kiến”, đồng thời phải liên minh với
các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác, đồn kết họ, tổ chức họ đấu
tranh cho giải phóng dân tộc và “để đi tới” chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
2.3. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần
nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến
hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng
sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh đầy đủ những quy luật vận
động, phát triển nội tại và khách quan của xã hội Việt Nam. Đáp ứng được yêu
cầu cơ bản và cấp bách của nhân dân ta, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại lịch sử mới.
- Cương lĩnh trở thành ngọn cờ đồn kết tồn Đảng, tồn dân, là vũ khí sắc bén
của những người cộng sản Việt Nam trước mọi kẻ thù, là cơ sở cho các đường
lối, chủ trương của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua.
- Cương lĩnh thể hiện sự nhận thức, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lenin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
CHƯƠNG 3: SO SÁNH LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10/1930 VÀ CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
3.1 Điểm giống nhau giữa hai văn kiện chính trị
-
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định
được tích chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ
địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây
là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau khơng có bức tường ngăn cách. Phương
hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của
nhân dân Việt Nam.
-
Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng
đất và giành độc lập dân tộc.
-
Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực
lượng nịng cốt và cơ bản đơng đảo trong xã hội góp phần to lớn vào cơng cuộc
giải phóng dân tộc nước ta.
-
Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt
Nam cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng
là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay cơng nơng.
-
Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách
mạng thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngồi, tìm đồng minh cho
mình.
-
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp cơng nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng
là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự
giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và
cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm
1917.
Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác
-
sau: Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận
cương rộng hơn (Đông Dương)
3.2 Điểm khác nhau giữa hai văn kiện chính trị
-
Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương
lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau
đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng( nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ
dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của cương
lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân
chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày
nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội cơng nơng,
thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thơng giáo dục theo hướng cơng
nơng hóa. Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ
các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực
hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm
cho Đơng Dương hồn toàn độc lập”.
-
Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được tiến hành cùng một lúc có
quan hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương
đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp
đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa xác định được kẻ thù,
nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn
đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách
mạng ruộng đất.
-
Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực
lượng cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng
phải liên minh đồn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung
nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng.
-
Như vậy, ngồi việc xác định lực lượng nịng cốt của cách mạng là giai cấp
cơng nhân thì cương lĩnh cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết
dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương
thì xác định giai cấp vơ sản và nơng dân là hai động lực chính của cách mạng
mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vơ sản là đơng lực chính và mạnh, là
giai cấp lãnh đạo cách mạng, nơng dân có số lượng đông đảo nhất, là một động
lực mạnh của cách mạng, cịn những giai cấp và tầng lớp khác ngồi cơng nơng
như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, cịn tư
sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển
cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn
kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản,
khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc,
khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống
nhất chống đế quốc và tay sai.
-
Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan
điểm chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác
định được nhiệm vụ nịng cốt của cách mạng.
-
Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một
cách dập khuôn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn
quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính trị tuy cịn sơ lược vắn
tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát
triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương
lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn
cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng
yêu cầu khách quan của lịch sử .
-
Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to
lớn cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc
ta. Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn
thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.
PHẦN KẾT THÚC
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ
chiếm 1,2% dân số, đã có cương lĩnh chính trị cách mạng đúng đắn ngay từ đầu.
Điều đó chứng minh rằng Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lenin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và
yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo;
gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được
truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đoàn
kết được lực lượng yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo
cách mạng.
Cương lĩnh đầu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học
thuyết Mác-Lenin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế
giới vào hoàn cảnh cụ thế nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Tuy nhiên, tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10 năm 1930
đã phê phán những “sai lầm” của Hội nghị hợp nhất và quyết định “thủ tiêu Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ” của Đảng, thơng qua Luận cương
chính trị theo tinh thần chỉ thị của Quốc tế cộng sản, đổi tên đảng là Đảng cộng
sản Đơng Dương.
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa cương lĩnh đầu tieenn do Hội nghị thành
lập Đảng vạch ra với Luận cương chính trị và các văn kiện của Hội nghị trung ương
Đảng tháng 10 năm 1930 là không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với
yếu tố dân tộc, mà còn do xác nhận đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó
trong điều kiện cụ thể nước ta, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lenin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách
mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự đúng
đắn, sáng tạo của cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 năm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân ta… Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to
lớn chung quanh giai cấp mình. Cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc
bị phá sản hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp
công nhân không ngừng được sự củng cố và tang cường”.
Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và
toàn dân. Cương lĩnh đầu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng
và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo
của những tư tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “ lấy chủ
nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nên tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động” của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD-ĐT (1992), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo DụcHà Nội
2. Học viện hành chính quốc gia Hồ Chí Minh-Khoa Lịch Sử Đảng (1995), Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Hà Nội
3. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương (1977), Văn kiện Đảng 1930-1935,
Hà Nội