Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích Đất nước
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của
bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru
ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ
sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một
hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong
trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ
Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn tồn
vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân
dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa
Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy
nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân
tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những
năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình
kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất
nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là
những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con
người. Đất nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa
mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên một Đất nước
Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em,
nhưng cũng vơ cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau,
miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm
đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh
chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình u thương
gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối
mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi
mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia.
Đất nước cịn là thành quả của cơng cuộc lao động vất vả để sinh tồn,
để dựng xây nhà cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước khơng cịn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể,
quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân
gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước
của nhân dân”.
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng
tượng,Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng
của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mơng
từ rừng đến bể mà cịn được cảm nhận bởi khơng gian sinh hoạt bình
thường của mỗi người, khơng gian của tình u đơi lứa, khơng gian của
nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu
tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi
chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể
gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta
về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em
trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh
và em hò hẹn. Khơng những thế, đất nước cịn người bạn chia sẻ những
tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi
anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta.
Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim
tuổi trẻ bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất…”, một lần
nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của
những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.
Hình ảnh con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc, con cá ngư ông
móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm
lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng
đơi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vơ cùng, nhất là đối với những người
đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại
về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương,
hướng về cội nguồn.
Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng
đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đồn tụ, là
khơng gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn
Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết
Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến
ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội
nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều
hướng về đất tổ, nhớ đến dịng giống Rồng Tiên của mình.
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là
một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong
ba phương diện: trong chiều rộng của khơng gian lãnh thổ địa lí, trong
chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa –
phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ
phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt
lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt
của mỗi chúng ta:
Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của
mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của
mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít
nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và
bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả
tập trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là
người đã sáng tạo ra Đất nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về
những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi
Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên… khơng cịn là
những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những
cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp
của nhân dân, sự hóa thân của những con người khơng tên tuổi: “Những
người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, cặp vợ
chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh”.
Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện
lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo
dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn
núi, dịng sơng. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ
thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi
nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ khơng ca ngợi các
triều đại, khơng nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ
tập trung nói đến những con người vơ danh, bình thường, bình dị. Đất
nước trước hết là của nhân dân, của những con người vơ danh bình dị đó.
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế
hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất
nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện
thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn
tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ,
vừa giản dị và độc đáo:
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về đất nước. Đất nước của ca dao thần
thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền
thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình u, biết q trọng
tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương
với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí
người đọc những tí tách reo vui…
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành cơng cho mảng
thơ viết về đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc,
đất nước khơng cịn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất
thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta khơng chỉ tìm về cội
nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt
Nam trong mọi thời đại.
>>> Phân tích sự vận động trong quan niệm về đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm để thấy được những điểm mới trong tư tưởng và hình thức
biểu hiện về quan niệm đất nước.
SÓNG – XUÂN QUỲNH
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
(Bài thơ tuổi nhỏ, Xn Diệu)
Đó cũng là lý do tình u được đưa rất nhiều vào trong thơ ca và nghệ thuật,
trở thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thi nhân. Có rất nhiều những nhà
thơ, nhà văn từng viết về tình u trong đó khơng thể khơng kể đến cây bút
thơ tình xuất sắc của nền văn học Việt Nam - Xuân Quỳnh - nhà thơ trưởng
thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình cảm người con gái qua
bài thơ “Sóng”.
Khi nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu
văn chương đều biết tiếng thơ bà là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực
cảm, tha thiết khát vọng hạnh phúc đời thường và Sóng là một trong những
tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương đặc trưng đó. Năm 1967,
nhân một một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình), khi đứng trước
biển khơi rộng lớn, những tâm tư tình cảm của bà được bộc bạch qua những
vần thơ và đó là cơ sở để Sóng ra đời. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc
chiến hào”. Bài thơ là sự đan xen giữa hình ảnh Sóng và hình ảnh “em” người con gái trong tình yêu. Mở đầu bài thơ tác giả mang đến cho bạn đọc
những trạng thái khác nhau của con sóng:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sơng khơng hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
“Dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ” là những tính từ trái nghĩa thể hiện những
thái cực đối lập của con sóng: có lúc hiền lành dịu dàng nhưng cũng có lúc vơ
cùng dữ dội. Đó cũng là những tâm trạng khác nhau của người con gái trong
tình u, họ ln dịu dàng, nhỏ nhẹ với tình yêu, với người yêu của mình
nhưng cũng có lúc họ trở nên mạnh mẽ, cương trực trước tình u ấy. Hình
ảnh dịng sơng khơng hiểu chính mình nên tìm ra biển khơi rộng lớn tìm câu
trả lời cũng chính là tâm tư của người con gái ln trăn trở, suy tư nhiều điều
và có ước muốn là khám phá được những điều lớn lao hơn trong tình yêu.
Tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, nó làm bồi hồi, xao xuyến rung
động trái tim của lứa đôi, của con trai con gái, của em và anh.
Ơi con sóng ngày xưa
.......
Bồi hồi trong ngực trẻ
Từ “Ơi!” cảm thán như tiếng lịng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu.
Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng u
của sóng. Sóng là thế mn đời vẫn thế vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ
như tình u tuổi trẻ có bao giờ đứng n. Bởi tình u tuổi trẻ ln khát vọng
ln khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi hồi khát khao và nhung nhớ bởi
“Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào”
hay “Bắt chim bướm thả vào vườn tình ái” (Xuân Diệu). Tình yêu làm điên
đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn, những cồn cào da diết như lời
thơ Xuân Quỳnh đã từng viết “Những ngày khơng gặp nhau/Lịng thuyền đau
rạn vỡ/ Những ngày khơng gặp nhau/ Biển bạc đầu mong nhớ”. Có u nhau
mới thấy được cồn cào của vị nhớ, mùi ái ân, mới thấy được thế nào là bồi
hồi ngực trẻ.
Tình yêu là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ
thương cái nhu cầu tự nhận thức, tự phân tích, lí giải, nhưng lại khơng thể cắt
nghĩa nổi của tình u. Tình u cũng như sóng biển, gió trời vậy thơi, nó tự
nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên
nhiên :
Trước mn trùng sóng bể
......
Khi nào ta u nhau
Những tâm hồn bí mật ấy ln khao khát giao hịa, khao khát khám phá
nhưng lại khơng lý giải nổi tình u. Bởi tình u là bài tốn chưa có lời giải
đáp, tình u như bài thơ chưa có hồi kết. Vì thế tình u ln đẹp, ln mới
và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã lắc đầu "Em cũng không biết nữa/ Khi
nào ta yêu nhau
Cả bài thơ là những đợt sóng nối nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và
nhân vật em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm, những tâm tư.
Đây là một khổ thơ vô cùng đặc biệt bởi trong bài thơ chỉ duy nó có sáu câu.
Sáu câu thơ trải dài như nỗi thao thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong
đêm.
“Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước”
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới
lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với
nhiều dạng thức khác nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại dương nhưng
cũng có con sóng cuộn trào trong lịng biển cả. Con sóng ngầm cịn mãnh liệt
hơn cả con sóng trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng
của sóng biển. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng
vơ vàn những phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm khi nồng nàn dữ dội,
nhưng thế nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ơm trong lịng một nỗi nhớ
thương khơng dứt. Cũng như sóng kia thơi, dù dịu êm hay dữ dội thì:
“Ơi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được”
Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn tả
nỗi niềm của người phụ nữ khi u. Sóng mn đời vẫn thế, có bao giờ thơi
vỗ sóng, có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thơi ngừng hành trình đến với
bờ dù mn vời cách trở. Sóng chẳng cịn là sóng nếu tĩnh n, lặng lẽ. Vì
vậy mà sóng đã được Xn Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo
“không ngủ được”. Sóng là vậy, dù lặng n dưới lịng biển hay dữ dội trên
mặt đại dương thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến
được bờ thì nhớ thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ
“bởi hơn mãi ngàn năm không thỏa/ Bởi yêu bờ lắm lắm em ơi”. Nên con
sóng đã hành trình vượt qua khơng gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất
chấp cả thời gian “ngày đêm không ngủ được” để quyết tâm hướng vào bờ
cho thỏa nỗi niềm mong nhớ.
Và nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh. Đó âu cũng là quy luật của tình u.
Lịng em nhớ đến anh
Cả trong mơ cịn thức
Xuân Quỳnh dùng chữ “lòng” rất tinh tế. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm
hồn con người. Nơi bí mật thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xn Quỳnh
nói “lịng em nhớ” nghĩa là chị đã phơi bày tất cả gan ruột của mình để dốc
hết yêu thương mà gửi về người mình u. Nỗi nhớ khơng chỉ có mặt trong
thời gian được ý thức mà cịn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt
ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lý “cả trong mơ cịn
thức”.
Câu thơ “cả trong mơ cịn thức” lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm
đảo lộn nhịp sống bởi “tình u ln làm cho con người khó thức ngủ theo
giấc giờ điều độ”. Nỗi nhớ khơng chỉ làm lịng em “bổi hổi bồi hồi, như đứng
đống lửa như ngồi trong than” nó cịn l àm cho em nhớ nhung, thao thức ngay
cả trong giấc ngủ. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được
xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.
Sóng và em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng
cũng là em, sóng trào lên mang theo lớp lớp tâm tình của em:
“Dẫu xi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, khơng
khoanh vùng địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu
vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy bằng tất cả sự nhạy cảm của
lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho một cái tơi của con người ln vững tin ở
tình u. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói “Xi Nam, ngược Bắc”
giờ đây Xn Quỳnh lại nói “Xi Bắc, ngược Nam” là cách nói ngược. Phải
chăng tình u đã làm cho con người bị đảo lộn phương hướng ? Nhưng có
một phương mà em khơng thể nào lẫn lộn, khơng thể nào ngi nhớ đó là
phương anh:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” về phương anh.Thế mới
biết tình yêu của chị nồng nàn, mãnh liệt thế nào. Hướng về anh thì có thể
thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng
về là bất di bất dịch. Anh đã là “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã
nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa
hai tâm hồn khơng có giới hạn.
Nếu như những khổ thơ trưc nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt,
những nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ này nhà thơ lại thể hiện những băn
khoăn, lo lắng. Đó cũng là trực cảm của tình u.
“Ở ngồi kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào cũng tới bờ
Dù mn vời cách trở”
Ba từ “Ở ngồi kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về
khơi xa nơi trăm ngàn con sóng ngày đêm khơng khơng biết mỏi đang vượt
qua giới hạn không gian thăm thẳm muôn vời cách trở để hướng vào bờ ôm
ấp nỗi yêu thương. Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hịa nhịp
vào trong tình u với anh. Tình u của người con gái thật mãnh liệt, nồng
nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn cội yêu
thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để
sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về
những dự cảm và nỗi băn khoăn của chị. Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua
– dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn
tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ
vượt qua tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh
yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những
trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình
yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh phúc.
Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và
đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ
ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm
tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình
yêu.
Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao
khát hịa tình u con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình u – tình yêu bao
la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình u, để tình u riêng hố thân vĩnh
viễn thành tình u mn thuở:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình u
Để ngàn năm cịn vỗ.
Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hịa lẫn
cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân
khơng thể tách khỏi cộng đồng. Sóng khơng phải là biểu tượng của một cái tôi
ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói
Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường : trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hịa
những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Nhà thơ đã thể hiện một khát
vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hịa mình vào đại dương bao la,
hịa mình vào biển lớn tình u để một đời vỗ mn điệu yêu thương “Người
yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu).. Phải chăng đó là khát vọng muốn
bất tử hóa tình u của nữ sĩ Xn Quỳnh ? Vâng! Đó không chỉ là tinh thần
của con người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tấm lòng ln
tha thiết với sự sống, với tình u.
Xn Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến
của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào
ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân
trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong
hồn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình
u.
Tóm lại, bài thơ Sóng là bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Thành
công của bài thơ là nhờ vào thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh,
đối lập nhất là thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu
của tâm hồn. Tất cả đã làm hiện lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh giàu trắc ẩn suy
tư và khát vọng trong tình yêu. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ
hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung,
ln sống hết mình vì một tình u. Xn Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ
nữ của tình yêu lứa đôi, chị đã làm phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà.
Người Lái Đị Sơng Đà
Nguyễn Tn là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong
phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách
mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất
nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một
căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích
cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đị Sơng
Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất
của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm
chất khí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch
sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngịi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở
thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh
hồn. Vì vậy bài tuỳ bút khơng chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái
đị và con sơng Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên
vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm
trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với
nhau - như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình". Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ
như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ,
rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì
mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.
Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của
Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc
mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết
rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không
phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển,
của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa,
về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,...
Về tính cách hung bạo của con sơng Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả
bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy cịn dài - Năm năm
báo ốn đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tn thì khơng thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng
lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của
con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước
cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có
sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.
Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông
bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè
một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm
"giống như cái giếng bê tông thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xốy tít đáy,
cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh
ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lơi tuột xuống. Có những thuyền đã
bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị
dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh
sông dưới". Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn
Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng
tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng
cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu
hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia
ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây tồn bằng
nước sơng xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp
vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh
thu được trong lịng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự
thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng
bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".
Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến
mức kì khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh: khơng chịu lùi bước trước
Tạo hố.
Dưới ngịi bút Nguyễn Tn, con sơng Đà thực sự trở thành một lồi thuỷ
quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã
dễ sợ: "tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như
là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà
chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".
Con thuỷ qi khơng chỉ hung hãn. Nó cịn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật
lộn với ơng lái đị, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế
trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục
kích. Dụ được vào sâu thì đánh khp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm
ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp
chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối
phương,...
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sơng nước lại trở nên rất đỗi êm ả
thanh bình. Nguyễn Tn gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông
Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó "tn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xn bay trên
sơng Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dịng xanh
ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng
dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng thêm cái
lịng muốn đề thơ vào sơng nước". Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe,
từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những
đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới
khả năng gợi tả của ngơn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói
bằng văn xi: ấy là cái mà ơng gọi là "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên
hoa tam nguyệt há Dương Châu" - thống hiện lên trên sóng nước sơng Đà;
ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trơi xi như nhớ
thương những hịn đá thác xa xơi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một
cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi "một
người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao
nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông
Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sơng Đà. Cảnh ven
sơng ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, qng sơng này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy
lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh khơng một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm.
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm
cổ tích tuổi xưa. Chao ơi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng cịi xúp lê
của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con
hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ
trơi trên một mũi đị. Hươu vểnh tai, nhìn tơi khơng chớp mắt mà như hỏi tơi
bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải
ơng cũng vừa nghe thấy một tiếng cịi sương ?". Có thể gọi đấy là những
dịng thơ văn xi của nhà tuỳ bút.
Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng
lững hình tượng người lái đị sơng Đà. Thực ra ơng lái này chủ yếu xuất hiện
trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông
Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng
trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong
cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sơng dữ, với một lồi thuỷ qi, ơng lái
đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân vật sử thi
trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác...