Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghệ thuật múa lân – sư – rồng và nghề chế tác lân – sư – rồng của người hoa tại thành phố hồ chí minh nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

NGHỆ THUẬT MÚA LÂN SƯ RỒNG VÀ
NGHỀ CHẾ TÁC LÂN SƯ RỒNG
CỦA NGƯỜI HOA TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Mã số đề tài: …………….……………..

Tp. Hồ Chí Minh, 03/2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

NGHỆ THUẬT MÚA LÂN SƯ RỒNG VÀ
NGHỀ CHẾ TÁC LÂN SƯ RỒNG
CỦA NGƯỜI HOA TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Mã số đề tài:......………………

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thành Phú
Khoa: Xã hội học - Công tác xã hội - Đông Nam Á
Các thành viên: Nguyễn Thành Phú
Người hướng dẫn: Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Yến


Tp. Hồ Chí Minh, 03/2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................... 6
1.1. Một số khái niệm .................................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm “văn hóa” ............................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm “nghệ thuật” ......................................................................................... 7
1.2. Tổng quan người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh .............................................. 7
1.2.1. Lược sử hình thành ................................................................................................ 7
1.2.2. Đặc điểm dân cư, xã hội ........................................................................................ 9
1.2.3. Giáo dục ................................................................................................................. 9
1.2.4. Tín ngưỡng tơn giáo ............................................................................................ 10
1.2.5. Văn hóa nghệ thuật .............................................................................................. 11
1.3. Hình tượng lân, sư, rồng trong văn hóa phương Đơng ..................................... 13
1.3.1. Kỳ Lân ................................................................................................................. 13
1.3.2. Sư tử..................................................................................................................... 15
1.3.3. Rồng..................................................................................................................... 17
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 20
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT MÚA LÂN SƯ RỒNG CỦA
NGƯỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................. 23
2.1. Nguồn gốc và lịch sử hình thành ......................................................................... 23
2.1.1. Múa lân và múa sư tử .......................................................................................... 23
2.1.2. Múa rồng.............................................................................................................. 25
2.2. Đặc trưng nghệ thuật múa lân sư rồng .............................................................. 26
2.2.1. Trang phục ........................................................................................................... 26
2.2.2. Đầu và thân lân sư rồng ....................................................................................... 27
2.2.3. Nhân vật dẫn dắt .................................................................................................. 28
2.2.4. Nhạc cụ ................................................................................................................ 28

2.2.5. Biểu diễn lân sư rồng ........................................................................................... 29
2.3. Giá trị nghệ thuật múa lân sư rồng .................................................................... 32
2.3.1 Thể hiện tinh thần thượng võ của người Hoa ....................................................... 32


2.3.2. Mang đến sự may mắn, cát tường ....................................................................... 33
2.3.3. Thể hiện lối tư duy tổng hợp kết hợp phân tích .................................................. 34
2.3.4. Thể hiện văn hóa tổ chức..................................................................................... 34
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 35
CHƯƠNG 3: NGHỀ MÚA LÂN SƯ RỒNG VÀ NGHỀ CHẾ TÁC LÂN SƯ
RỒNG CỦA NGƯỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 36
3.1. Nghề múa lân sư rồng .......................................................................................... 36
3.1.1. Kỹ thuật cơ bản múa lân sư rồng ......................................................................... 36
3.1.2. Một số nghi thức quan trọng ............................................................................... 39
3.1.3. Những điều cấm kỵ.............................................................................................. 40
3.1.4. Đời sống người làm nghề múa lân sư rồng ......................................................... 42
3.2. Nghề chế tác lân sư rồng ...................................................................................... 43
3.2.1. Kỹ thuật chế tác lân sư rồng ................................................................................ 43
3.2.2. Đời sống người chế tác lân sư rồng ..................................................................... 46
3.2.3. Giá thành và thị trường tiêu thụ lân sư rồng........................................................ 47
3.3. Bảo tồn và phát triển nghề múa lân sư rồng và nghề chế tác lân sư rồng ...... 47
3.3.1. Thuận lợi .............................................................................................................. 47
3.3.2. Khó khăn.............................................................................................................. 49
3.3.3. Đề xuất một số biện pháp .................................................................................... 51
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 52
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 55
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 57



DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1:

Phân bố người Hoa tại một số tỉnh, thành ................................................... 9

Bảng 1.2:

Hình tượng lân, sư, rồng trong văn hóa phương Đơng .............................. 20

Bảng 3.1:

Giá thành lân, sư, rồng (số liệu tham khảo) ............................................... 44


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tp.

Thành phố

UNESCO

United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Nghệ thuật múa lân sư rồng và nghề chế tác lân sư rồng của
người Hoa tại Tp. Hồ Chí Minh
- Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Phú
- Lớp: DN15
Khoa: XHH - CTXH - ĐNA
Năm thứ: 4
Số năm đào tạo: 4
- Người hướng dẫn: Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Yến
2. Mục tiêu đề tài:
- Tìm hiểu sơ lược nguồn gốc và lịch sử hình thành nghệ thuật múa lân sư
rồng của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Tìm hiểu đặc trưng, giá trị của nghệ thuật múa lân sư rồng và ý nghĩa của nó
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tìm hiểu nghề múa lân sư rồng và nghề chế tác lân sư rồng của người Hoa
tại Thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu thực trạng từ đó đề xuất một số biện
pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.
3. Tính mới và sáng tạo:
- Đề tài kết hợp giữa phương pháp phỏng vấn sâu và thu thập số liệu bằng bản
hỏi, từ đó khái quát được đời sống của người theo nghề múa lân sư rồng cũng
như nghệ nhân chế tác lân sư rồng.
4. Kết quả nghiên cứu:
- Căn cứ vào mục tiêu đặt ra ban đầu, đề tài đã đạt được những kết quả:
- Tìm hiểu được giá trị của hình tượng lân, sư tử, rồng trong văn Hóa phương
Đơng. Qua đó thấy được những ý nghĩa hình tượng của cả ba con lân, sư tử và
rồng.
- Khái quát được nghệ thuật múa lân sư rồng của người Hoa tại Thành phố Hồ

Chí Minh.
- Phân tích được những mặt thuận lợi và khó khăn trong đời sống của người
làm nghề lân sư rồng cũng như nghề chế tác lân sư rồng. Từ đó đưa ra được
một vài đề xuất để duy trì và phát huy cả hai nghề này.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc
phòng và khả năng áp dụng của đề tài:


- Đề tài đã phân tích được những thuận lợi và khó khăn của nghệ thuật múa
lân sư rồng ngày nay. Theo đó, tác giả nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị
nhằm duy trì và phát huy bộ mơn nghệ thuật truyền thống này.
- Đề tài còn phát họa được đời sống của người làm nghề múa lân sư rồng và
nghề chế tác lân sư rồng. Qua đó người đọc có cái nhìn khái qt về đời
sống của họ cũng như thấy được những thuận lợi và khó khăn trong q
trình làm nghề.
6. Cơng bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi
rõ tên tạp chí nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở đã áp dụng các kết
quả nghiên cứu (nếu có):

Ngày

tháng

năm

Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)

Nhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên

thực hiện đề tài (phần này do người hướng dẫn ghi):

Xác nhận của đơn vị
(ký tên và đóng dấu)

Ngày
tháng
năm
Người hướng dẫn
(ký, họ và tên)


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:

Ảnh 4x6

Họ và tên: Nguyễn Thành Phú
Sinh ngày: 25 tháng 09 năm 1997
Nơi sinh: Long An
Lớp: DN15


Khóa: 2015

Khoa: Xã hội học - Công tác xã hội - Đông Nam Á
Địa chỉ liên hệ: 54/37 Bạch Đằng, phường 2, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0968980659

Email:

II. Q TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến năm đang học):

* Năm thứ 1:
Ngành học: Đông Nam Á học
Nam Á

Khoa: Xã hội học - Công tác xã hội - Đông

Kết quả xếp loại học tập: Trung bình
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 2:
Ngành học: Đông Nam Á học
Nam Á

Khoa: Xã hội học - Công tác xã hội - Đông

Kết quả xếp loại học tập: Trung bình
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 3:
Ngành học: Đông Nam Á học
Nam Á


Khoa: Xã hội học - Công tác xã hội - Đông

Kết quả xếp loại học tập: Trung bình
Sơ lược thành tích:
Xác nhận của đơn vị
(ký tên và đóng dấu)

Ngày
tháng
năm
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm văn hóa - kinh tế lớn nhất cả nước. Đây
là nơi tiếp nhận các luồng văn hóa từ Đơng sang Tây, là nơi cộng cư của nhiều dân tộc.
Trong đó, người Hoa là một trong những cộng đồng góp phần tạo nên văn hóa đặc
trưng của thành phố.
Người Hoa có một nét văn hóa vơ cùng phong phú, có thể điểm qua như: văn hóa
cảnh quan, văn hóa sản xuất, văn hóa cộng đồng, văn hóa tinh thần, văn hóa nghệ
thuật,... Nói đến văn hóa nghệ thuật thì lại nói đến một kho tàng đồ sộ những hoạt động
nghệ thuật đặc sắc như: hát Quảng, hát Tiều, nhạc Xã, múa lân sư rồng,...
Nghệ thuật múa lân sư rồng là một bộ môn nghệ thuật dân gian truyền thống được
biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên đán và Tết Trung thu. Nghệ thuật

múa lân sư rồng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Theo dấu chân người Hoa lập nghiệp tại
Việt Nam, nghệ thuật múa lân sư rồng dần trở thành một phần của văn hóa Việt Nam.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nghệ thuật múa lân sư rồng được phổ biến trong
cộng đồng người Hoa tại Chợ Lớn và lan rộng ra các vùng lân cận. Nghệ thuật múa lân
sư rồng của người Hoa ở Chợ Lớn là bộ môn biểu diễn cơng phu, mang một sắc thái
riêng, có tính thẩm mỹ cao, mang lại điềm lành, may mắn, nình an và tài lộc. Trước
đây, loại hình nghệ thuật này thường được xem là loại hình nghệ thuật đường phố, biểu
diễn trong các dịp lễ hội. Đồng thời, nó cịn mang dấu ấn văn hóa và tín ngưỡng đặc sắc
của người Hoa. Ngày nay, nghệ thuật múa lân sư rồng ngày càng phát triển, được sân
khấu hóa, kết hợp với các hiệu ứng âm thanh, ánh sáng, khói lửa, trang phục,... để tạo
thành một bài biểu diễn chuyên nghiệp.
Nghệ thuật múa lân sư rồng góp phần tạo nên sự phong phú của văn hóa người
Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi việc thể hiện nét văn hóa đặc sắc, tín ngưỡng,
loại hình này cịn thúc đẩy phát triển du lịch của thành phố.
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu giá trị của nghệ thuật múa lân sư rồng của
người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài cịn góp phần hệ thống cơ sở lý thuyết,
tạo nguồn tư liệu nghiên cứu sau này.


2

2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu chung
- Tìm hiểu đặc trưng, giá trị của nghệ thuật múa lân sư rồng và phương hướng
bảo tồn nghệ thuật múa lân sư rồng của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh.

2.2. . Mục tiêu cụ thế
- Tìm hiểu sơ lược nguồn gốc và lịch sử hình thành nghệ thuật múa lân sư rồng
của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Tìm hiểu đặc trưng, giá trị của nghệ thuật múa lân sư rồng và ý nghĩa của nó tại

Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tìm hiểu nghề múa lân sư rồng và nghề chế tác lân sư rồng của người Hoa tại
Thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu thực trạng từ đó đề xuất một số biện pháp bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài nghiên cứu dựa trên kết quả khảo sát thực tiễn, kết hợp tham khảo các
nguồn tư liệu có sẵn. Trong đó, một số cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo lớn,
góp phần hình thành cơ sở lý luận của đề tài.
Về nghệ thuật lân sư rồng, mặc dù đây là môn nghệ thuật truyền thống rất phổ
biến ở Trung Hoa và ở Việt Nam, nhưng tài liệu bằng tiếng Việt hầu như chỉ dừng lại
ở một số bài viết có tính khảo cứu được đăng trên một số báo và website ở Việt Nam.
Có rất ít nguồn tài liệu nghiên cứu trực tiếp về nghệ thuật lân sư rồng và nghề chế tác
lân sư rồng của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơng trình nghiên cứu “Nghệ thuật múa sư tử trong văn hóa Trung Hoa” (2010)
của tác giả Trương Cẩm Tú là bức tranh chi tiết về nghệ thuật múa sư tử của người
Trung Hoa. Theo đó, nguồn gốc, xuất xứ và kỹ thuật múa sư tử được miêu tả một cách
cụ thể. Thơng qua cơng trình này, tác giả nghiên cứu có cái nhìn rõ nét về nghệ thuật
múa sư tử của Trung Hoa và nghệ thuật múa lân, sư tử của người Hoa ở Việt Nam.
Qua đó, múa lân và sư tử ở Việt Nam có nguồn gốc từ hai loại hình múa sư tử của
Trung Hoa (gồm Bắc sư và Nam sư). Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng trong
việc tìm hiểu về nguồn gốc của nghệ thuật lân sư rồng của người Hoa tại Việt Nam nói
chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Trong tác phẩm “Văn hóa người Hoa Nam Bộ” (2016), Hội văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Thành phố Hồ Chí Minh đã đề cập đến nghệ thuật múa lân sư


3
rồng là một trong những giá trị văn hóa tinh thần của người Hoa ở Nam Bộ. Các tác
giả đã viết “Nghệ thuật múa lân sư rồng là một nét độc đáo và đặc sắc trong hoạt

động văn hóa của người Hoa Nam Bộ” (Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.188)
Tác phẩm “Chuyện nhỏ ở Chợ Lớn” (2018) của tác giả Nguyễn Đình là tác phẩm
mới nhất nghiên cứu về Chợ Lớn và văn hóa của người Hoa tại Chợ Lớn. Trong tác
phẩm, Nguyễn Đình đã giới thiệu sơ lược về lễ hội, thư họa, kiến trúc của Chợ Lớn,
qua đó mơ tả lát cắt văn hóa của cộng đồng người Hoa nơi đây. Tác giả còn đề cập đến
nghệ thuật lân sư rồng như là “bộ môn biểu diễn công phu”. Đây là nguồn tài liệu
chính, giúp tác giả nghiên cứu hiểu rõ hơn về nghệ thuật lân sư rồng.
Tác phẩm “Góp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh”
(2007) của tác giả Trần Hồng Liên là một tác phẩm nêu cụ thể về văn hóa của người
Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã đề khái quát về những phong tục, văn hóa
của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi ra tác giả còn đề cập đến những lễ
hội văn hóa của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ tác phẩm này, tác giả
nghiên cứu có thêm cơ sở về văn hóa của người Hoa.
Bài viết “Văn hóa múa Lân của người Hoa” (2017) của tác giả Huỳnh Gia Bửu
ít nhiều đã khái quát về nghệ thuật múa lân sư rồng cũng như quá trình du nhập của
nghệ thuật múa lân sư rồng vào Việt Nam. Từ đó, tác giả nghiên cứu có nguồn thơng
tin để đối chiếu so sánh với tác phẩm “Chuyện nhỏ ở Chợ Lớn” của tác giả Nguyễn
Đình về nghệ thuật múa lân sư rồng.
Về hình tượng lân, sư tử, rồng trong văn hóa phương Đơng, nhiều bài viết, cơng
trình nghiên cứu về các biểu tưởng này là nguồn tài liệu dồi dào trong việc khái quát
cơ sở lý luận và thực tiễn về hình tượng các con vật trong nghệ thuật lân sư rồng.
“Biểu tượng con nghê trong văn hóa Việt Nam” - bài viết đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Tơn giáo số 12 (138) - 2014 là tác phẩm viết về hình tượng nghê trong văn
hóa Việt Nam. Theo đó, nghê là biểu tượng thuần việt được sáng tạo kết hợp từ nhiều
hình tượng linh vật của Việt Nam và Trung Hoa, bao gồm cả rồng và kỳ lân. Tác giả
cũng sơ lược về nguồn gốc của con lân và con rồng trong văn hóa Trung Hoa và Việt
Nam. Đây là nguồn tài liệu góp phần so sánh nguồn gốc kỳ lân và rồng trong nhiều
nguồn tài liệu tham khảo, điển tích, điển cố.



4
Chuỗi bài viết về hình tượng rồng tạo nên góc nhìn rồng về ý nghĩa biểu tượng
của con rồng trong văn hóa phương Đơng, từ đó khái qt được hình tượng và ý nghĩa
của rồng được vận dụng vào nghệ thuật múa rồng. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu
biểu như “Rồng trong văn hóa Đơng - Tây” (2014) của tác giả Phan Nguyễn Quỳnh
Anh đăng trên tạp chí Đại học Thủ Dầu Một; “Rồng Việt - Sự hào sảng tâm linh” của
tác giả Thế Văn (2012) đăng trên Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội; “Rồng, một biểu
tượng siêu linh của người Việt” (2012) của tác giả Triệu Thế Hùng trên Tạp chí Di sản
văn hóa.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghệ thuật múa lân sư rồng của người Hoa.
Trong đó, đề tài tập trung nghiên cứu nét đặc sắc và giá trị của nghệ thuật múa lân sư
rồng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Cộng đồng người Hoa tập trung chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là
khu vực Chợ Lớn. Chính vì vậy, đề tài hướng đến khu vực nghiên cứu chủ yếu là Chợ
Lớn.
Về thời gian nghiên cứu, đề tài nghiên cứu từ thời gian hình thành đến tình hình
phát triển hiện tại của loại hình nghệ thuật này.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính làm phương pháp nghiên cứu
xuyên suốt của đề tài, bao gồm các kỹ thuật chính:
- Quan sát tham dự, phỏng vấn sâu: Qua quá trình tiếp cận đối tượng nghiên cứu,
tác giả nghiên cứu có thể hiểu về đối tượng nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề liên

quan đến nội dung nghiên cứu. Đồng thời, tác giả nghiên cứu còn có thể đối chiếu giữa
nguồn thơng tin thu nhập được từ dữ liệu thứ cấp và thực trạng để có cái nhìn tồn
diện và đúng đắn hơn. Trong q trình thực địa, ngồi việc quan sát, tác giả nghiên
cứu cịn phỏng vấn trực tiếp các nghệ sĩ múa lân sư rồng và các nghệ nhân chế tác lân
sư rồng. Tác giả nghiên cứu thực hiện 6 chuyến đi thực địa, đợt 1 từ ngày 25/09 đến
ngày 26/09; đợt 2 từ ngày 05/11 đến ngày 06/11; đợt 3 từ ngày 10/11 đến 11/11; đợt 4


5
từ ngày 05/02 đến 06/02; đợt 5 từ ngày 11/02 đến 12/02; đợt 6 từ ngày 18/02 đến
19/02.
- Nghiên cứu tài liệu: Đây là một trong những kỹ thuật cơ bản nhất giúp tác giả
nghiên cứu có được những nguồn tài liệu đáng tin cậy trong quá trình nghiên cứu để
tiến hành nghiên cứu đề tài. Những dữ liệu có sẵn là những bài nghiên cứu của những
nhà nghiên cứu đi trước, tác giả nghiên cứu tiến hành thu nhập, đối chiếu, so sánh để
chọn lọc ra những thông tin cần thiết phục vụ nghiên cứu đề tài. Đồng thời phương
pháp này còn giúp tác giả nghiên cứu hệ thống lại thơng tin đã thu nhập được trong
q trình thực địa.

6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung gồm
có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn. Trong chương này, tác giả nghiên cứu
trình bày các khái niệm liên quan đến đề tài. Đồng thời giới thiệu khái quát về hình
tượng lân, sư tử và rồng trong văn hóa phương Đơng.
Chương 2: Nghệ thuật múa lân sư rồng của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Trong chương này, tác giả nghiên cứu tiến hành nghiên cứu những nét đặc sắc
trong nghệ thuật múa lân sư rồng của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó,
chúng tơi làm rõ về q trình du nhập của nghệ thuật này cũng như quá trình phát triển
của nó cho đến ngày nay. Từ đó, tác giả nghiên cứu đưa ra những ảnh hưởng sâu sắc

của nghệ thuật này đến văn hóa của Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Nghề múa lân sư rồng và nghề chế tác lân sư rồng của người Hoa tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Kỹ thuật múa lân sư rồng, kỹ thuật chế tác lân sư rồng, đời
sống của những người làm nghề được diễn tả một cách khái quát. Bên cạnh đó, tác giả
nghiên cứu cịn tìm hiểu một số thuận lợi và khó khăn của nghề qua đó đề xuất một số
biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy nghề múa lân sư rồng và nghề chế tác lân sư rồng.


6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm “văn hóa”
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng. Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa,
mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
Năm 1871, Edward Burnett Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh,
theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người
chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” (Edward Burnett Tylor, 1871, tr.1).
Như vậy, các loại hình nghệ thuật cũng được xem là “văn hóa” theo định nghĩa của
Tylor.
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những như cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh,
2000, tr.431).
Giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm thì định nghĩa rằng “Văn hóa là một hệ thống

hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội” (Trần Ngọc Thêm, 2000, tr.10).
Trong Tuyên bố Toàn Cầu về Đa dạng Văn hóa của UNESCO đã chỉ ra rõ “Văn
hố được coi là hệ thống các đặc điểm về tinh thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc của xã
hội hay một nhóm người trong xã hội và văn hóa bao gồm nghệ thuật, văn học, phong
cách sống, cách thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”.
Như vậy, có thể hiểu văn hóa là tồn bộ các giá trị vật chất và tinh thần, là sản
phẩm do con người tạo ra, bao gồm những giá trị về đời sống, tơn giáo, tín ngưỡng,
nghệ thuật,...


7
1.1.2. Khái niệm “nghệ thuật”
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đưa ra 2 định nghĩa cho nghệ
thuật: “Hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm
để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Nghệ thuật tạo hình. Xây
dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học.” và “Phương pháp, phương thức
giàu tính sáng tạo” (Viện Ngơn ngữ học, 2003, tr.676).
Ngồi ra, trong Từ điển tiếng Việt của Hội Khoa học - Xã hội - Nhân văn thì
định nghĩa “Nghệ thuật là cơng việc là có đường lối, phương pháp, để tỏ ý thức, tình
cảm hay lý tưởng của mình trên ba điểm: Chân, thiện và mĩ. Người ta đã thống nhất ý
chí về nghệ thuật và sắp xếp chúng theo thứ tự: 1. Âm nhạc; 2. Vũ điệu; 3. Hội họa; 4.
Điêu khắc; 5. Kiến trúc; 6. Ca kịch; 7. Điện Ảnh” (Hội Khoa học - Xã hội - Nhân văn,
2014, tr.844).
Tác giả Đặng Thị Bích Ngân đưa ra định nghĩa về nghệ thuật trong cuốn Từ điển
Mỹ thuật phổ thông “Nghệ thuật là các phương pháp tiến hành để làm ra các sản
phẩm chứng tỏ tài khéo léo, sự suy nghĩ, trí tưởng tượng, cảm xúc và sự sáng tạo của
con người. Với quan niệm hiện đại, định nghĩa nghệ thuật thường phản ánh những tiêu
chuẩn thẩm mĩ trong văn học – xã hội… Nghệ thuật phản ánh các tiêu chuẩn đẹp,

khéo và sáng tạo. Đặc biệt, nghệ thuật thường khai thác sự đối lập giữa các yếu tố để
sáng tạo. Người nghệ sĩ tinh tế phát hiện được các yếu tố khác nhau trong nội dung,
trong kỹ thuật, trong quan điểm để sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật” (Đặng Thị Bích
Ngân, 2012, tr.101).
Từ các định nghĩa trên thì nghệ thuật là sự sáng tạo ra những sản phẩm, tác phẩm
mang giá trị tư tưởng, thẩm mỹ, giải trí tạo ra cảm xúc, tình cảm và tinh thần cho
người xem.

1.2. Tổng quan người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh
1.2.1. Lược sử hình thành
Người Hoa là một dân tộc trong 54 cộng đồng dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại
nhiều địa bàn khác nhau trong cả nước như ở miền núi, nơng thơn và biển.Thành phố
Hồ Chí Minh là trung tâm đô thị thu hút người Hoa đến định cư khá đông. (Trần Hồng
Liên, 2007, tr.9-10).
Người Hoa đến Việt Nam vào nhiều thời điểm khác nhau. Tuy nhiên, có thể xét
đến một số đợt di dân lớn vào Việt Nam và Đàng Trong từ thế kỷ XVII đến nay như


8
cuộc di dân của Mạc Cửu (Mac King Kiou) và gia đình đến vùng đất Mang Khảm
(nay là Hà Tiên) vào năm 1671.
Năm 1679, nhóm các tướng Trung Hoa là Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài Tchen Tchang Tchouen) và Dương Ngạn Địch (Yang Yen Yi) đổ bộ xuống Đà Nẵng.
Chúa Nguyễn cho vào vùng đất phương Nam khai khẩn. Trần Thượng Xuyên định cư
ở Biên Hòa - Cù Lao Phố (tỉnh Đồng Nai); Dương Ngạn Địch định cư ở Mỹ Tho (tỉnh
Tiền Giang). (Trần Hồng Liên, 2007, tr.10-12).
Năm 1782, cuộc chiến giữa quân Tây Sơn và Nguyễn Ánh ở Nam Bộ đã khiến
Biên Hòa bị hủy hoại, một bộ phận người Hoa chuyển về khu vực Chợ Lớn, ven kênh
Tàu Hủ (ngày nay là khu vực quận 5, 6 Thành phố Hồ Chí Minh). Một số người Hoa
phiêu bạt từ Mỹ Tho sau cuộc phản loạn của Hoàng Tiến cũng chuyển cư về Chợ Lớn.
Sau đó, khu vực này phát triển thanh một đô thị, bến cảng phồn thịnh, đông đúc.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau đó thực dân Pháp tiến hành
cơng việc khai thác thuộc địa vào khoảng đầu thế kỷ thứ XX. Do nguồn lực của Việt
Nam khơng đáp ứng đủ, chính quyền Pháp đã thương lượng với chính quyền Mãn
Than của Trung Hoa để mộ nhân công người Trung Hoa. Những đợt nhập cư đông đảo
của người Trung Hoa vào Việt Nam để làm công nhân các đồn điền cà phê, cao su, xây
dựng đường giao thông... Vào cuối thập niên 20, đầu thập niên 30 của thế kỷ XX,
người Trung Hoa nhập cư ngày càng đông đảo. Phần lớn họ nhập cư theo dạng tuyển
mộ nhân cơng của chính quyền thuộc địa, sau thời hạn kết thúc hợp đồng không trở về
Trung Hoa mà tìm cách ở lại Việt Nam.
Từ sau năm 1940, do những chuyển biến của tình hình thế giới, chiến tranh thế
giới lần 2 bùng nổ, con đường hàng hải trên biển Đông bị cản trở, số lượng người
Trung Hoa nhập cư vào Nam Bộ giảm xuống nhanh chóng. Việc nhập cư này được kết
thúc vào năm 1949, khi cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Hoa lãnh đạo và
thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. (Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc
thiểu số TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr.16).
Như vậy, người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu là người Trung Hoa
nhập cư qua các cuộc di cư chia thành nhiều đợt.


9
1.2.2. Đặc điểm dân cư, xã hội
Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hoa có
823.071 người, sống tập trung chủ yếu ở các tỉnh thành Nam Bộ, nhiều nhất là Đông
Nam Bộ và đặc biệt là ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 1.1: Phân bố người Hoa tại một số tỉnh, thành
Địa phương

Số lượng (người)

Tỉ lệ so với cả nước (%)


Cả nước

823.071

100

Thành phố Hồ Chí Minh

414.045

50,30

Đồng Nai

95.162

11,56

Sóc Trăng

64.910

0,79

Kiên Giang

29.850

0,36


Bạc Liêu

20.082

2,44

Bình Dương

18.783

2,28

Bình Dương

18.539

2,25
Nguồn: Tổng cục thống kê (2009)

Thành phố Hồ Chí Minh là nơi chiếm hơn một nửa dân số người Hoa ở Nam Bộ.
Người Hoa tập trung cư trú tại các quận 5, 6 vốn là khu vực Chợ Lớn cũ, và các quận
8, 10, 11,... Ngoài ra, hầu hết các quận, huyện của Thành phố Hồ Chí Minh đều có
người Hoa sinh sống.
Ngay trong các phường của các quận Đông người Hoa thì một số hẻm phố, khu
phố lại có sự cư trú tập trung khá đông của bà con người Hoa. Một số địa bàn tổ dân
phố của những phường này, bà con người Hoa chiếm hơn 50% số nhân khẩu tồn địa
bàn.
1.2.3. Giáo dục
Dù ở xã xơi nơi đất khách quê người, nhưng người Hoa cũng như bao dân tộc

khác đều mong muốn như thế hệ tiếp nối phải hiểu được văn hóa của dân tộc mình.
Việc dạy và học tiếng Hoa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có sự thay đổi
qua các Chỉ thị của Thành ủy và Sở Giáo dục. Hiện nay, trên địa bàn thành phố, con
em Hoa và con em các dân tộc khác cùng học chung một trường, cùng học một
chương trình phổ thơng và cùng thực hiện mọi quy chế học tập. Tiếng Hoa được tổ
chức giảng dạy dưới 2 loại hình: dạy tiếng Hoa tại các trường phổ thơng và dạy tiếng
Hoa tại các trung tâm dạy chuyên Hoa văn, Trung tâm ngoại ngữ.


10
Thực tế, việc giáo dục trong cộng đồng người Hoa nhiều năm qua được duy trì
tốt một phần chính là từ sự giúp đỡ của Ban bảo trợ dạy tiếng Hoa. Ban bao gồm các
nhà hảo tâm giáo dục, đã đóng góp cơng sức, tiền bạc nhằm mở rộng cơ sở vật chất,
trang bị trường lớp, khen thưởng học sinh giỏi, cấp học bổng cho học sinh nghèo hiếu
học,...
Hội bảo trợ dạy tiếng Hoa được Ủy ban Nhân dân Thành phố cấp giấy phép hoạt
động. Đây là một tổ chức ra đời nhằm hỗ trợ kinh phí cho nhiều việc cấp thiết có liên
quan đến giáo dục như hỗ trợ cho việc biên soạn, in ấn tài liệu sách giáo khoa, cho
hoạt động của câu lạc bộ giáo viên Hoa văn, cho đến việc khen thưởng học sinh giỏi...
Như vậy, có thể thấy, trong suốt q trình cải biên và đổi mới dân phương pháp
và nội dung giảng dạy cho con em người Hoa, Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng
cùng với các tổ chức đoàn thể xã hội khác góp phần chăm lo cho cơng việc “trồng
người”.
1.2.4. Tín ngưỡng tơn giáo
Bên cạnh các hình thức tín ngưỡng truyền thống của cư dân Việt, tín ngưỡng dân
gian của cộng đồng tộc người Hoa được thể hiện đậm nét nhất ở các quận 5, 6, 11 so
với các quận khác trong thành phố, vì các quận này là địa bàn tụ cư đầu tiên, đông đaỏ
và tập trung nhất của những người di dân từ Trung Hoa sang Gia Định sinh sống. Từ
năm 1698, với sự thành lập xã Minh Hương, thuộc tổng Tân Long, vùng đất Chợ Lớn
đã dần được phồn thịnh qua tên gọi “Phố Khách” trên bản đồ của thế kỷ XVIII.

Nhu cầu tín ngưỡng của nhóm di dân từ Trung Hoa sang Việt Nam càng được
đẩy mạnh sau chuyến ra đi đầy hiểm nguy trên biển cả. Đến nơi “đất lạ, quê người”,
cần có một ngơi miếu cho nhóm mình càng trở thành cấp thiết. Nhiều người thuộc các
địa phương và nhóm ngơn ngữ khác nhau đã nhanh chóng xây dựng một miếu thờ
chung cho dân 7 phủ thuộc 3 tỉnh ở Trung Hoa. Thất Phủ Quan Võ miếu ra đời vào
năm 1775, thờ Quan Thánh Đế Quân, người được phong tặng cho tên gọi “Thiên cổ
nhất nhân” (xưa nay chỉ có một), vốn đã được tôn vinh, được ngưỡng vọng của người
Hoa.
Song song với việc thờ Ơng, người Hoa cũng dựng miếu Bà. Tính chất cặp đôi
với quan niệm âm dương được thể hiện rõ trong quan niệm về thờ tự, về trang trí... thể
hiện nhân sinh quan Đông phương rõ nét. Thất Phủ Thiên Hậu miếu chính là ngơi
miếu quan trọng và đầu tiên tại Chợ Lớn được dựng lên để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu.


11
Gắn liền với các hình thức thờ tự mang tính chất chung nhất cho từng nhóm ngơn
ngữ, là những dịp lễ hội tưng bừng diễn ra nơi các ngôi miếu ấy. (Trần Hồng Liên,
2007, tr.47).
Ngồi nghi thức thờ tự, tín ngưỡng các thánh nhân, nhân thần, thần linh... diễn ra
tại các ngôi miếu, người Hoa cũng thể hiện sinh hoạt tinh thần phong phú, đa dạng của
cộng đồng mình qua các hoạt động tín ngưỡng diễn ra trong từng gia đình. Nét văn hóa
truyền thống nổi bật nhất, thể hiện lịng hiếu kính đối với dịng họ, ơng bà mình là việc
thờ cúng tổ tiên. (Trần Hồng Liên, 2007, tr.48).
Ngoài bàn thờ tổ tiên, trong gia đình người Hoa cũng như nhiều nơi khác, đều có
bàn thờ Bà Mẹ Sanh, Thần Tài, Mơn Quan, Ơng Táo, Thần Đất, Thiên Quan, Quan
Thế Âm bồ tát, Quan Thánh Đế Quân... (Trần Hồng Liên, 2007, tr.49).
Qua các dạng thức thờ tự diễn ra ở nơi cơng cộng, cũng như trong từng gia đình
người Hoa, người Việt đã cho thấy một hệ thống tín ngưỡng phong phú, giữ một vai
trò quan trọng trong sinh hoạt tinh thần của cư dân Hoa Thành phố Hồ Chí Minh. Hệ
thống tín ngưỡng ấy, nhiều thế kỷ qua đã góp phần quan trọng vào sự định hướng tâm

lý và việc hình thành nhân cách của người Việt, người Hoa thành phố. (Trần Hồng
Liên, 2007, tr.50-51).
1.2.5. Văn hóa nghệ thuật
Người Hoa khi nhập cư đã có một đội ngũ nghệ nhân, nghệ sĩ tương đối đông
đảo, họ mang theo một di sản truyền thống gồm nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật của
nước Trung Hoa. Văn hóa, nghệ thuật của nước họ đã phát triển ở trình độ cao. Đến
vùng đất mới hoạt động kinh tế rất thành đạt, lại có tinh thần cố kết cộng đồng tộc
người cao, đồng thời họ nhận thức rõ nhu cầu tinh thần và vai trị vị trí cần thiết cho
hoạt động văn hóa nghệ thuật, cá biệt có người cịn xem hoạt động này là nguồn kinh
tế phụ của gia đình. Do đó người Hoa ln tìm mọi cách phát triển và bảo tồn những di
sản văn hóa độc đáo của tộc người mình.
Người Hoa có đủ các loại hình văn hóa nghệ thuật mang tính “quần chúng - tài
tử” cao, đó là cách xã hội hóa các hoạt động văn hóa nghệ thuật lấy mục đích tự đáp
ứng nhu cầu văn hóa tinh thần cho cộng đồng làm phương hướng phấn đấu và tổ chức
thực hiện.
Thơng qua Hội Văn hóa nghệ thuật các dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh, bao
gồm 3 tộc người: Hoa, Khmer và Chăm, trong đó số lượng chi hội chuyên ngành của


12
người Hoa chiếm 6 trên 8 chi hội. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc là tổ chức mang
tính chính trị xã hội của những người hoạt động trên lĩnh vực văn học nghệ thuật,
nhằm tập hợp động viên mọi khả năng, mọi lực lượng tham gia hoạt động, sưu tầm,
khai thác, nghiên cứu, phê bình, phổ biến... đẻ giữ gìn phát huy giá trị truyền thống và
sáng tạo của các dân tộc. Tổng số hội viên tính đến cuối năm 2004, đã có trên 3000
người.
Hoạt động nghệ thuật biểu diễn là loại hình hoạt động phong phú đa dạng, thu
hút nhiều lứa tuổi và có hàng ngàn người tham gia. Các thành viên của hoạt động này
tập hợp trong Chi hội Văn nghệ người Hoa trực thuộc Hội Văn học nghệ thuật các dân
tộc Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời các đội nhóm này lại chịu sự quản lý của

Trung tâm Văn hóa các quận.
Theo tập sách giới thiệu Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc Thành phố Hồ Chí
Minh về các thành viên của Hội, thì phần giới thiệu Chi hội Văn nghệ người Hoa có
những định hướng về nội dung hoạt động với nhiều hình thức như: Tổ chức biểu diễn
ca, múa, nhạc truyền thống và hiện đại; Sưu tầm, nghiên cứu và phát triển các loại
hình nghệ thuật, như: múa dân gian, múa lân sư rồng, trò chơi dân gian, diễn tấu nhạc
cụ dân tộc; Tổ chức các hội thảo, báo cáo chuyên đề triển khai các lớp tập huấn
chuyên sâu cho hội viên, người yêu thích và thế hệ trẻ; tổ chức sáng tác các tác phẩm
ca, múa, nhạc, kịch ngắn phản ánh đời sống hiện đại của cộng đồng người Hoa trên
con đường đổi mới; Đẩy mạnh hoạt động giao lưu và không ngừng nâng cao chất
lượng nghệ thuật của các đơn vị thành viên. Qua tập sách nhỏ, có thể nhận thấy việc
xác định vai trị vị trí của văn học nghệ thuật, tích cực hịa nhập nhưng vẫn giữ gìn và
quyết tâm bảo tồn và phát triển văn hóa nghệ thuật người Hoa tại Thành phố Hồ Chí
Minh như thế nào trong thời gian tới. Trong thực tế những hoạt động nghệ thuật của
người Hoa đã biểu hiện khá rõ ràng và vững chắc.
Tóm lại, những hoạt động tự giác và nhiệt tình, say mê của nghệ sĩ trong các đội,
nhóm trên nhiều lĩnh vực sáng tác, triển lãm, tổ chức biểu diễn nhiều loại hình nghệ
thuật, nhiều loại lễ hội truyền thống khác nhau của người Hoa không chỉ là sự tự đáp
ứng nhu cầu văn hóa tinh thần cho cộng đồng mà còn lan tỏa những giá trị nghệ thuật
ra các vùng cư dân khác. Có thể nói xã hội hóa trên nhiều lĩnh vực là thế mạnh truyền
thống lâu đời của người Hoa, là thành tựu hàng đầu trong hoạt động văn hóa nghệ
thuật trong thời gian dài. Nhờ phương thức xã hội hóa văn hóa nghệ thuật đã tạo ra


13
môi trường thuận lợi để các nghệ sĩ người Hoa sáng tạo phát huy trí tuệ, tài năng, tài
lực, vật lực vào mục đích phát triển văn hóa nghệ thuật của người Hoa.
Xã hội hóa văn hóa nghệ thuật của người Hoa không là sự phát động kêu gọi
chung chung, mà là một cơng trình thực hiện việc tổ chức huy động tiềm năng cộng
đồng khá chặt chẽ. Ngoài cách thu nhận thù lao ngay tại sân khấu biểu diễn, thì vai trị

ban bảo trợ là yếu tố quyết định thường xuyên, liên tục hỗ trợ cho các hoạt động văn
hóa nghệ thuật. Thơng qua những cách vận động của ban bảo trợ, đã huy động được
mọi nguồn lực trong cộng đồng tài trợ cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật.
Tuy nhiên, trong quá trình đi vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tồn
cầu hóa, đăng đặt ra cho người Hoa những công việc phấn đấu mới. Nhất là sự nhanh
chóng bổ túc nâng cao trình độ các nghệ sĩ, đào tạo lực lượng nghệ sĩ trẻ mang tính
chun nghiệp hóa hơn. Có thế mới nâng cao được chất lượng tác phẩm và phát triển
nhiều về số lượng cho đa số quần chúng đang có như cầu hưởng thụ văn hóa nghệ
thuật.
Sự nghiệp văn hóa của người Hoa sẽ mãi mãi là hành trang cho quá trình sản
xuất kinh doanh của người Hoa, đồng thời là những giá trị văn hóa tinh thần góp phần
tạo thành sức hỗ trợ tích cực cho q trình hịa nhập và phát triển toàn cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.

1.3. Hình tượng lân, sư, rồng trong văn hóa phương Đơng
1.3.1. Kỳ Lân
Nguồn gốc
Kỳ Lân là linh vật trong tứ linh, đứng sau rồng. Đây cũng là con vật được tạo nên
từ sự tưởng tượng của con người. Truyền thuyết cho rằng, lân ban đầu là một loài quái
thú từ dưới biển lên, phá hoại mùa màng. Đức Phật Di Lặc đã hóa thân thành một
người đàn ơng bụng bự, vẻ mặt phúc hậu vui tươi (mà người dân gọi là ông Địa). Ông
Địa thuần phục được con thú dữ, biến lân thành một con thú lành, thường xuyên giúp
đỡ người tốt, đặc biệt là những người hiếu thảo, biết làm việc thiện. Vì vậy, lân cịn
được gọi là Nhân thú, tức là con thú làm việc thiện. Sau này, cứ mỗi dịp tết, trung thu,
ông Địa lại đưa lân xuống múa mua vui và thăm hỏi mọi người.
Theo một số nguồn tài liệu, tài liêu xưa nhất đề cập đến kỳ lân xuất hiện vào thế
kỷ V trước công nguyên trong bộ sách gọi là Zuo Zhuan. Còn theo sách sử Trung Hoa
như bộ Tam Hoàng Ngũ Đế, kỳ lân xuất hiện lần đầu vào thời Hoàng Đế Hiên Viên,



14
cách đây khoảng 5.000 năm. Lần thứ hai là vào thời Khổng Tử, nhưng lần này, một
người gánh củi thấy con thú có hình thù kỳ qi, hoảng sợ nên đánh nó què hết một
chân. Biết chuyện, Khổng tử buồn rơi lệ vì cho con lân này là ứng vào mình nên bỏ
mộng chu du liệt quốc để bình thiên hạ. Ngài cho rằng lân bị đánh què là điềm khơng
may, tức là mình sinh bất phùng đời, có đem sở học đi rao giảng ở đâu chăng nữa cũng
không ai nghe. Từ đó, ngài ở nhà sáng tác kinh Xn Thu. Vì tích này, nên kinh Xn
Thu cịn được gọi là Lân Kinh.
Cũng theo một điển tích khác có nét tương đồng của Trung Hoa, trong cuộc đời
của Đức Khổng Tử, kỳ lân xuất hiện hai lần:
(1) Lần thứ nhất: kỳ lân đến trước mặt bà Nhan thị (Trưng Tại) đang mang
thai Khổng Tử, nằm phục xuống đất, nhả ra một cái ngọc xích có chữ viết rằng:
Con nhà Thủy Tinh nối đời suy Châu mà làm vui không ngơi. Sau đó bà Nhan thị
sinh ra Khổng Tử.
(2) Lần thứ hai: Mùa xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14, người nước Lỗ đi săn,
bắt được con kỳ lân què một chân. Khổng Tử hay được đến xem, rồi bưng mặt
khóc. Ba năm sau, Khổng Tử mất, thọ 73 tuổi. [Đinh Hồng Hải (2014), tr.110]
Hình ảnh kỳ lân được thay đổi theo suốt chiều dài phát triển văn hóa của Trung
Hoa. Nhưng có lẽ kỳ lân được miêu tả đầy đủ nhất bắt đầu từ triều đại nhà Minh (1368
– 1644). Sau chuyến hải trình của Trịnh Hịa đến miền Đông châu Phi (vùng đất ngày
nay thuộc Kenya), ông đã đem hai con hươu cao cổ về Trung Hoa. Lần đầu tiên nhìn
thấy lồi vật có hình dáng lạ lùng này, vua nhà Minh rất ngạc nhiên, và cho rằng đây
chính là con kỳ lân, vật linh biểu tượng cho quyền lực to tát của ơng ấy.
Hình tượng kỳ lân được truyền bá từ Trung Hoa sang Việt Nam theo con đường
xâm lược với mưu đồ đồng hóa văn hóa. Chính vì thế, hình mẫu kỳ lân của Trung Hoa
gần như được giữ nguyên mẫu du nhập vào văn hóa Việt Nam.
Đặc trưng
Theo quan niệm truyền thống phương Đông, lân là con cái, con đực gọi là “kỳ”.
Cụm từ “kỳ lân” cũng được dùng rộng rãi trong văn hóa phương Đơng, ý chỉ một cặp
linh vật trên. Kỳ lân có hình dáng kỳ dị, đầu nửa rồng, nửa thú, đơi khi chỉ có một

sừng. Kỳ lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân
ngựa, chân hươi, đi bị. Đơi khi có hình dáng của một con hưu xạ, với chiếc đi bị,
trán sói, móng ngựa, da có 5 màu đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, dưới bụng có màu vàng.


15
Thân kỳ lân giống hươi, nhưng có vảy khắp người, chỉ biết ăn cỏ và vẻ mặt vô cùng
sinh động.
Ý nghĩa biểu tượng
Theo quan niệm dân gian, kỳ lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật
nào, đặc biệt là không bao giờ uống nước bẩn. Kỳ lân có tánh linh, khi có vua chúa,
thánh nhân ra cứu đời thì kỳ lân sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, thịnh vượng.
Kỳ lân là loài vật chuyên bảo vệ và canh giữ cửa ngôi nhà, miệng há to hút và
trấn áp mọi loại hung khí vào nhà. Ở Trung Hoa và Việt Nam, kỳ lân được sử dụng
như con vật linh thiêng bảo vệ cho các công trình kiến trúc, dinh thự, lăng mộ,… Nó
được dùng để trang trí trên các bức bình phong của chùa, đền, miếu,…
Trong Phật giáo, kỳ lân thường được thể hiện đội tòa sen, làm chỗ ngồi cho Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát hay các vị Hộ Pháp. Một hóa thân khác của lân là long mã, một
con vật nửa rồng, nửa ngựa chạy trên nước, lấy theo tích vua Vũ trị thủy, tượng trưng
cho nam nhi tung hoành ngang dọc, và cũng tượng trưng cho thánh nhân, cho sự vận
hành của vũ trụ. (Hoàng Anh, 2017).
1.3.2. Sư tử
Nguồn gốc
Theo các tài liệu hiện hành, sư tử không xuất hiện trong danh mục đề tài mỹ
thuật sơ kỳ của Trung Hoa. Hình tượng sư tử được du nhập theo sự truyền bá của Phật
giáo. Sư tử được sử dụng làm hình tượng thể hiện Phật pháp ngay từ khi Phật giáo xuất
hiện vào thể kỷ VI trước công nguyên ở Ấn Độ. Lời thuyết pháp của Đức Phật được ví
như tiếng sư tử hống lan truyền trong chúng sanh. Cũng có những điển tích cho rằng
Phật là sư tử của dịng họ Sakya, nên một cặp sư tử được khắc chạm trên tọa cụ của
Phật Thích Ca vào khoảng 500 năm sau khi Ngài nhập Niết bàn.

Theo thực tế, cả Trung Hoa lẫn Việt nam trước đây đều khơng có sự xuất hiện
của sư tử. Theo nhiều cơng trình nghiên cứu, từ “sư tử” của Trung Hoa bắt nguồn từ
“shiar” của người Ba Tư. Theo đó, sư tử có nguồn gốc từ các nước Tây Á, được du
nhập vào Trung Hoa qua con đường tiến cống. Sư tử được đưa đến Trung Hoa dưới
dạng da sống hoặc vật sống. Thời kỳ Hán, Đường, nhà nước phong kiến Trung Hoa
chuyển từ phân quyền sang tập quyền, hoàng quyền mới chú ý tới sức mạnh nanh,
vuốt của sư tử, nên xuất hiện cặp đôi sư tử bên cạnh hình tượng cổ điển “lưỡng long
tranh châu”, “lưỡng long triều nguyệt” trấn giữ công thự, đền đài, lăng mộ,... Theo các


16
tài liệu cổ, hình tượng sư tử này xuất hiện vào thế kỷ thứ III sau công nguyên (Hậu
Hán, Sơ Đường). Dị bản sư tử Phật giáo xuất hiện trong khoảng thời gian này là sư tử
hộ pháp được thấy trong các tác phẩm nghệ thuật tơn giáo có niên đại là năm 208 sau
công nguyên. Dần về sau, sư tử trở thành linh vật bảo vệ cung điện, đặt ở cổng thành
của hồng cung, nội cung. Từ đó, hình tướng của sư tử được sáng tạo đa dạng, với các
chi tiết trang trí mỹ lệ và dáng vẻ dữ dằn. Chúng được định hình và chuẩn mực hóa
vào thời Minh, Thanh. Hình tượng sư tử từ Trung Hoa truyền sang Cao Ly, Nhật Bản,
Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Đặc trưng
Các cơng trình nghiên cứu về mỹ thuật Đông Nam Á đã chỉ ra sự hiện diện của
loại hình tượng sư tử thuần túy (simha) và các loại sư tử kết hợp với các con vật khác.
Loại sư tử thuần túy ở Thái Lan gọi là Singh (hay Rachasi) có cơng năng canh
giữ cổng đầu tháp xuất hiện từ thời Lanna. Về hình tướng Singh tương đồng
với Chinthe (Miến Điện) và Rêachsei (Khmer): Bờm có 3 lớp, cánh mọc ở vai; đứng
xổm trên bệ, miệng há rộng. Đến thế kỷ XIX-XX, Singh Thái tích hợp những đặc
trưng tạo hình của sư tử Trung Hoa tạo những biến tấu ngoạn mục.
Loại sư tử kết hợp với voi (gajasimha) của Thái gọi là Kho-ta-chi (Kochasri).
Loại này có thân và đầu sư tử, thêm vịi và ngà voi; đơi khi có cánh và có bờm. Lại có
loại Pancharup: thân sư tử, đầu voi, chân và móng ngựa, cánh đại bàng và đi cá.

Đặc biệt loại hình tượng kết hợp sư tử và đầu người là loại Nora
singh (Thái)/ Munussiha (Miến Điện), thường là các sản phẩm ba chiều đặt ở góc
chùa, tháp: hai thân sư tử thẳng góc nhau và đầu-ngực người nối tại cổ của hai đoạn
thân sư tử. Đây được coi là các thần (Deva), cả nam lẫn nữ, bảo hộ cho các cơng trình
kiến trúc
Ý nghĩa biểu tượng
Trong văn hóa Trung Hoa, sư tử là con vật thuần túy có tính biểu trưng, hình
tướng cách điệu cao, thậm chí khó tìm thấy chi tiết nào giống với sư tử thật. Sư tử có
cơng năng bảo hộ, chống lại các thế lực độc ác, tà mị và đồng thời mang lại điều tốt
lành, thịnh vượng. Hình tượng sư tử được sử dụng rộng rãi trong việc dựng tượng
trước các đền chùa, cung điện, lăng mộ,... thành từng cặp. Nguyên tắc dựng tượng là
theo cặp đực – cái, biểu thị cho “âm – dương điều hịa”, điều kiện chính yếu làm nền
tảng cho sự cát tường, mang ý nghĩa bảo vệ.


×