Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hoạt động lập pháp trong nhà nước Cộng Hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.72 KB, 18 trang )

Chủ đề: Hoạt động lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và liên hệ thực tiễn hiện nay
BÀI LÀM
Phần I
MỞ ĐẦU
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.
Lập pháp là một trong nhũng chức năng cơ bản của Quốc hội; hoạt động lập
pháp là hoạt động mang tính sáng tạo, là q trình nhận thức các quy luật xã hội, đặc
biệt là vấn đề lợi ích, các quan hệ xã hội, từ đó xác định phạm vi và phương pháp
điều chỉnh đúng đắn. Trong những năm qua, Đảng ta luôn quan tâm, lãnh đạo việc
đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp; Quốc hội đã kịp thời ban hành
mới hoặc điều chỉnh, bổ sung các luật, bộ luật góp phần tiếp tục cải cách bộ máy nhà
nước hoạt động hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với tinh thần và nội dung của chủ
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân được đề ra trong đường lối của Đảng và Hiến pháp của Nhà
nước.
Tuy nhiên, hoạt động lập pháp của Quốc hội thời gian qua cịn có những khó
khăn, hạn chế nhất định, cần tiếp tục đổi mới và hồn thiện nhằm thể chế hóa các
định hướng, chủ trương lãnh đạo về chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước và xã hội.
Với tầm quan trọng và nhận thức đúng đắn của hoạt động lập pháp hiện nay,
trên cơ sở những kiến thức được các Thầy, Cô truyền đạt từ môn học và qua tham
khảo các tư liệu, bài viết, bản thân nghiên cứu chủ đề “Hoạt động lập pháp trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và liên hệ thực tiễn hiện nay” làm bài
thu hoạch hết môn học Nhà nước và Pháp luật Việt Nam. Thông qua bài thu hoạch
này, giúp cho bản thân củng cố lại những kiến thức về cơ sở lý luận, thực tiễn, từ đó
có thêm những kiến thức để vận dụng trong quá trình học tập, công tác.



Phần II
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ LẬP PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của lập pháp trong Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1. Khái niệm
Lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ
phận của quyền lực nhà nước, bao gồm thể chế, thiết chế và hoạt động của thiết chế
đó, thực hiện nhiệm vụ làm Hiên pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật,
nhằm bảo đảm chủ quyền nhãn dân, thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm quyển con
người, quyền cơng dân và lợỉ ích chung của toàn xã hội.
1.2. Đặc điểm
Là một bộ phận của quyền lực nhà nước, lập pháp trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 05 đặc điểm chủ yếu sau đây:
Một là, lập pháp là bộ phận quyền lực trực tiếp và cao nhất đại diện cho lợi ích
và ý chí của Nhân dân.
Hai là, lập pháp mang tính sáng tạo, là q trình nhận thức các quy luật xã hội.
Ba là, lập pháp được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ nhất, phức tạp nhất
so với quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Bốn là, lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện, với thẩm quyền riêng biệt làm Hiến
pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật.
Năm là, lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân
thủ nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp”.
1.3. Vai trò
Lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trị
2
2


hết sức quan trọng, thể hiện ở những nội dung sau đây:
Một là, lập pháp giữ vai trò chủ đạo thực thi và bảo đảm chủ quyền Nhân dân.
Nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực trong xã hội, nhưng Nhân dân không trực tiếp
thực hiện tất cả quyền lực của mình mà phải thơng qua cơ quan đại diện do Nhân dân
bầu ra. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, được Nhân dân ủy
quyền lập pháp.
Hai là, lập pháp có vai trị quan trọng trong việc thể chế hóa các định hướng,
chủ trương lãnh đạo về chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và
xã hội, bảo đảm sao cho các chủ trương, định hướng đó được “chuyển hóa” thành
những “chuẩn mực”, “quy tắc xử sự” cụ thể, được thực hiện thường xuyên trong đời
sống xã hội.
Ba là, lập pháp giữ vai trò quan trọng nhất trong việc tạo nền tảng, hành lang
pháp lý cho toàn xã hội và tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Bốn là, lập pháp góp phần cân bằng lợi ích của Nhân dân, cử tri và lợi ích
quốc gia. Thơng qua việc lấy ý kiến Nhân dân, thảo luận trong quá trình lập pháp,
Quốc hội có vai trị tìm giải pháp hài hịa các lợi ích, bảo đảm sự cẩn trọng trong việc
ban hành các văn bản luật, nhất là những vấn đề liên quan đến thuế, ngân sách, quyền
con người, quyền công dân.
Năm là, lập pháp thiết lập nên những chuẩn mực pháp lý cho hoạt động của
hai bộ phận còn lại là quyền hành pháp và quyền tư pháp, góp phần thực hiện cơ chế
“phân cơng, phổi hợp, kiểm sốt” giữa các cơ quan nhà nước.
Sáu là, cùng với hành pháp và tư pháp, lập pháp trong Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam góp phần phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí;
bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo đảm sự ổn định và phát triển
bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Thể chế, thiết chế và hoạt động lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
3
3


2.1. Thể chế lập pháp
Thể chế lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là các quy
định của Hiến pháp, pháp luật về làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và
sửa đổi luật. Cụ thể hơn, thể chế lập pháp quy định về phạm vi, thẩm quyền lập hiến,
lập pháp; cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan thực hiện quyền lập pháp; quy trình, thủ tục lập pháp, v.v..
2.2. Thiết chế lập pháp
Thiết chế lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ
quan thực hiện quyền lập pháp theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.
2.3. Hoạt động lập pháp
Hoạt động lập pháp là tổng thể các hành vi được tiến hành qua nhiều giai đoạn
mang tính liên tục, kế tiếp nhau nhằm mục đích ban hành luật, trong đó Quốc hội là
chủ thể quyết định. Do Quốc hội ở Việt Nam chủ yếu hoạt động tại hai kỳ họp nên
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trực tiếp
tham gia hoạt động lập pháp.
Nội dung hoạt động lập pháp do Quốc hội tiến hành bao gồm:
Lập chương trình xây dựng luật: Quốc hội thảo luận, thơng qua Nghị quyết về

chương trình xây dựng luật hàng năm.
Soạn thảo dự án luật: Việc soạn thảo dự án luật được thực hiện với các nội
dung sau: Tổng kết tình hình thi hành luật; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã
hội; tổ chức nghiên cứu thơng tin, tư liệu có liên quan đến dự án; chuẩn bị đề cương,
biên soạn và chỉnh lý dự án; tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và

4
4


các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; chuẩn bị tờ trình và tài liệu liên
quan đến dự án.
Thẩm tra dự án luật: Thẩm tra các dự án luật thuộc thẩm quyền của Hội đồng
Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
xem xét tính hợp hiến, tính thống nhất, tính đồng bộ cả về nội dung và hình thức thể
hiện của các dự án luật; xem xét tính khoa học, tính phù hợp với thực tiễn, phù hợp
của dự án luật với nguyện vọng, ý chí của Nhân dân.
Thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật: Quốc hội thảo luận tại phiên họp
toàn thể. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự án, dự thảo có thể được thảo
luận ở Tổ đại biểu Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức việc
nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo.
Xem xét, thông qua dự thảo luật: Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua dự
thảo tại phiên họp tồn thể. Trong trường hợp dự thảo cịn vấn đề có ý kiến khác nhau
thì Quốc hội biểu quyết về vấn đề đó theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
trước khi biểu quyết thông qua dự thảo.
II. THỰC TIỄN LẬP PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thành tựu của lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Những năm qua, tuy hoạt động lập pháp của Quốc hội diễn ra sau khi Hiến
pháp năm 2013 có hiệu lực chưa lâu, nhưng cũng đã đạt được nhiều thành tựu quan

trọng; số lượng các luật, bộ luật được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung ngày càng
nhiều đáp ứng cơ bản nhu cầu đời sống kinh tế - xã hội của Nhân dân và hội nhập
kinh tế toàn cầu, phù hợp với xu thế tất yếu đổi mới quy trình lập pháp ở Việt Nam
trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0).
Quốc hội khóa XIV đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số đạo luật về tổ chức
bộ máy nhà nước để vừa thể chế hóa những tư tưởng và nội dung mới của Hiến pháp
năm 2013, vừa thể chế hóa Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10- 2017 của Hội nghị
Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết số
5
5


56/2017/QH14 ngày 24-11-2017 của Quốc hội “Về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, đồng thời khắc
phục một số vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành luật thời gian qua, như Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức... Việc sửa đổi, bổ sung các
đạo luật này góp phần tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước hoạt động hiệu lực và hiệu
quả, phù hợp với tinh thần và nội dung của chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân được đề ra trong
đường lối của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước.
Để thực hiện chủ trương, hội nhập quốc tế sâu rộng, Quốc hội đã phê chuẩn
nhiều điều ước quốc tế, như: Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên
minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVIPA), một số điều ước quốc tế quan trọng của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
theo lộ trình cam kết ... Cùng với quá trình phê chuẩn các điều ước quốc tế, Quốc hội
đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số luật để tiếp tục hồn thiện khn khổ pháp lý

quan trọng, phục vụ cho việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế, phù hợp với
lợi ích quốc gia trong điều kiện mới, như Luật Điều ước quốc tế, Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngoài, Luật Thỏa thuận quốc tế... Việc phê chuẩn các điều ước quốc tế và sửa
đổi, hoàn thiện một số luật điều chỉnh các quan hệ quốc tế giữa nước ta với các nước,
đã góp phần đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào các quan hệ kinh tế quốc
tế, mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội to lớn.
Song song với q trình phê chuẩn các khn khổ pháp lý hội nhập kinh tế với
bên ngoài, pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội ở trong nước
cũng được Quốc hội khóa XIV chú trọng xây dựng và hồn thiện, tạo mơi trường
pháp lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế ở trong nước phát triển. Các văn bản quy
phạm pháp luật, như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức
6
6


đối tác công - tư, Bộ luật Lao động, Luật Chứng khoán, Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xây dựng... với nhiều nội dung mới, tiến bộ, phù hợp với thơng lệ quốc
tế đã góp phần thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nước
phát triển cùng với việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội (gần đây nhất là khóa XIV) được tiến hành
dưới ánh sáng của nhiều tư duy lập pháp mới của Hiến pháp năm 2013, như: phân
công, phối hợp, kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; lập hiến và lập pháp là hai quyền khác nhau và không phải duy nhất thuộc về
Quốc hội; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp và thuộc về nhân dân; quyền con
người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; quyền con người, quyền
cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật... Những tư duy lập pháp mới
đó của Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội quán triệt sâu sắc trong quá trình xem xét
và thông qua các đạo luật.

Giai đoạn
Số lượng luật, bộ luật
Pháp lệnh
1945-1986

63

1987-2021

439

194

Khóa XIII (2011-2016)

100

10

Khóa XIV

72

2

(2016-2021)
Một số sản phẩm của hoạt động lập pháp của Quốc hội trong thời gian từ khóa
XIII đến nay như: Hiến pháp năm 2013; Luật Đất đai năm 2013; Luật Đấu thầu năm
2013; Luật Xây dựng năm 2014 và năm 2020; Bộ Luật Dân sự năm 2015; Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm

2019; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Bộ Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm
2017; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018; Luật năm 2018 sửa đổi, bổ sung
một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch, Luật Đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư (PPP) năm 2020; Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2020, v.v..
Quy trình lập pháp của Quốc hội khóa XIV tiếp tục đổi mới một bước, góp
phần nâng cao chất lượng lập pháp. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
7
7


2015 được ban hành dưới ánh sáng của các tư duy mới của Hiến pháp năm 2013 nên
đã đề cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quy trình lập pháp. Từ việc xây
dựng chương trình lập pháp theo nhiệm kỳ chuyển sang xây dựng chương trình lập
pháp hàng năm để bảo đảm tính sát hợp, khả thi và trách nhiệm trong việc thực thi kế
hoạch đề ra. Từ các khâu đưa sáng kiến lập pháp đến soạn thảo, thẩm định, thẩm tra,
xem xét, thảo luận thông qua dự thảo luật đều được nâng cao trách nhiệm. Đặc biệt
coi trọng việc xây dựng chính sách của dự án luật rồi mới thể chế thành các điều luật
cụ thể. Đồng thời, tăng cường tính cơng khai, minh bạch trong quá trình lập pháp.
Nhờ thế, chất lượng lập pháp ngày càng được nâng cao.
Thể chế lập pháp hiện nay ở Việt Nam được thể hiện trong các văn bản cơ bản
như Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2020), Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm
2020). Thể chế lập pháp hiện hành bảo đảm mở rộng dân chủ, tăng cường tính cơng
khai, minh bạch trong xây dựng văn bản để nâng cao tính khả thi, hiệu quả, hiệu lực
thực tế của các văn bản được ban hành; quy định hợp lý, cụ thể hơn về việc tham gia
góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện phản biện xã hội đối với
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm thực chất, hiệu quả hơn; quy định các
yêu cầu, nội dung cần tập trung thẩm định, thẩm tra trong quá trình xây dựng văn
bản; quy định quy trình xem xét, thông qua dự án luật tại một kỳ họp, hai kỳ họp
hoặc ba kỳ họp của Quốc hội.

Các cơ quan của Quốc hội (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và 09
Ủy ban của Quốc hội) đã được đổi mới và kiện toàn theo hướng hợp lý hơn, chuyên
nghiệp hơn và thực quyền hơn.
Chức năng của đại biểu Quốc hội được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013,
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Quy chế hoạt động
của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội. Chất lượng hoạt động của đại biểu
Quốc hội ngày càng được nâng cao, góp phần quyết định thơng qua các dự thảo luật
đi vào cuộc sống.
8
8


Cơ cấu đại biểu Quốc hội

Số lượng đại biểu

Tỷ lệ %

Tổng số ĐBQH khố XV

499 (trong đó, hoạt động
chun trách là 193/499
đại biểu)

100

Không phải là đảng viên

14


2,80

Người dân tộc thiểu số

89

17,84

Phụ nữ

151

30,26

Dưới 40 tuổi

47

9,42

Trình độ trên ĐH

392

78,55

Đại học

106


21,24

1

0,20

203

40,68

4

0,80

Khóa XV, nhiệm kỳ
(2021-2026)

ĐCSVN

Dưới đại học
Tái cử
Tự ứng cử

(Nguồn: Nghị quyết số 748/NQ-HĐBCQG ngày 10/6/2021
của Hội đồng Bầu cử quốc gia)
Nhìn chung, qua các nhiệm kỳ Quốc hội, từ Quốc hội khoá VIII đến nay, hoạt
động lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn. Quốc hội dành nhiều thời
gian cần thiết cho việc thảo luận, thẩm tra, xem xét và quyết định thông qua các dự
án luật. Quốc hội đã thảo luận và ra Nghị quyết về công tác xây dựng luật, pháp lệnh
hàng năm và cho cả nhiệm kỳ, trong đó xác định những lĩnh vực cần ưu tiên, thể chế

hố đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời đề ra biện pháp để triển khai thực hiện
công tác xây dựng pháp luật một cách có hiệu quả. Tại các kỳ họp của Quốc hội, việc
thảo luận, xem xét, quyết định thông qua các dự án luật đã thiết thực hơn. Đại biểu
Quốc hội đã thảo luận sôi nổi, phát biểu nhiều ý kiến để chỉnh lý, hoàn thiện các dự
án luật. Quy trình, thủ tục soạn thảo, thẩm tra, xem xét, thông qua dự án luật, pháp
9
9


lệnh từng bước được cải tiến, bổ sung. Các văn bản pháp luật được ban hành trong
thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc phục vụ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
và từng bước thực hiện việc đổi mới bộ máy nhà nước, giữ gìn trật tự kỷ cương, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại theo Nghị quyết của Đảng.
2. Hạn chế và nguyên nhân
2.1. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động lập pháp của Quốc hội cũng còn một số
hạn chế, yếu kém, bất cập sau:
Thứ nhất, mặc dù luật “khung”, luật “ống” (luật khơng có nội dung điều chỉnh)
khơng cịn trong các đạo luật được Quốc hội thơng qua, tuy nhiên, trong các đạo luật
vẫn cịn nhiều điều luật giao cho các cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành một cách chung chung, không xác định giới hạn và phạm vi cụ thể, rõ
ràng. Chẳng hạn, quy định: “Chính phủ quy định chi tiết các điều khoản được giao
trong luật và hướng dẫn việc thi hành” (Điều 143, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương sửa đổi, bổ sung năm 2019). Mặt khác, ngay trong các đạo luật cũng còn các
trường hợp lẫn lộn không phân biệt rõ ràng giữa “quy định chi tiết” và “hướng dẫn thi
hành”. Vì thế, khơng tránh khỏi tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí trái
ngược nhau giữa luật và văn bản dưới luật. Tình trạng luật có hiệu lực thi hành nhưng
phải chờ nghị định, thơng tư của Chính phủ và các bộ vẫn cịn diễn ra, làm cho luật
chậm đi vào cuộc sống.
Thứ hai, dân chủ hóa trong hoạt động lập pháp được đề cao nhưng việc thực

hiện vẫn cịn những biểu hiện hình thức. Hoạt động soạn thảo, thẩm định, thẩm tra
các dự án luật chưa thu hút được đông đảo các chuyên gia, các nhà quản lý, các đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án luật tham gia. Hoạt động góp ý, phản biện
xã hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các dự án luật
chưa được coi trọng, vẫn còn biểu hiện hình thức.
Thứ ba, việc kiểm sốt tính thống nhất của hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật trong hoạt động lập pháp chưa được chú trọng. Ngoài thẩm tra của cơ quan
10
10


được giao và trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất của dự án luật của Ủy
ban Pháp luật thì trong q trình thảo luận, xem xét thơng qua luật, các cơ quan của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội chưa quan tâm đúng mức đến việc phát hiện những
mâu thuẫn chồng chéo để đề xuất sửa đổi, bổ sung ngay trong q trình xem xét,
thơng qua dự án luật. Tình trạng sau khi thơng qua luật vẫn cịn có những quy định
mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản quy phạm pháp luật khác làm cho hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật thiếu thống nhất, gây khó khăn cho việc thực hiện
luật.
Thứ tư, kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động xây dựng pháp luật chưa thật sự
được thiết lập nghiêm túc, chặt chẽ. Một mặt, đó là trách nhiệm của các cơ quan có
thẩm quyền nhất là các cơ quan soạn thảo, thẩm định và thẩm tra chưa được đề cao
đúng mức, còn dựa dẫm, ỷ lại nhau. Mặt khác, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 chưa quy định đầy đủ các chế tài xử lý hoặc đã có chế tài nhưng
xử lý chưa nghiêm, chưa kiên quyết. Vì thế, chất lượng chuẩn bị một số dự án luật
trước khi đưa trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội xem xét chưa cao.
2.2. Nguyên nhân hạn chế
Hạn chế của hoạt động lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do 04 nguyên nhân sau đây:
Một là, việc soạn thảo và ban hành luật nhiều khi còn gấp rút, thiếu chuyên

nghiệp. Tài liệu gửi đến cho đại biểu Quốc hội còn sơ sài, thiếu căn cứ lý luận và
thực tiễn thuyết phục để các đại biểu Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua các dự
thảo văn bản.
Hai là, một số chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động dự thảo luật không thực
hiện nghiêm chỉnh các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trong một số cơng đoạn của quy trình lập pháp, đặc biệt là việc chỉnh lý hoàn thiện
dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Chính phủ, việc thảo luận, xem xét, quyết định
việc trình dự án luật, pháp lệnh.
Hai là, dân chủ hóa trong hoạt động lập pháp vẫn cịn hình thức.
11
11


Ba là, cơng đoạn phân tích chính sách, đánh giá tác động của văn bản chưa
được coi trọng đúng mức.
3. Những định hướng của Đảng hoàn thiện lập pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội phải phù hợp với yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gắn liền với việc tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện tổ chức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nâng cao chất lượng
đại biểu Quốc hội, trong đó tập trung vào những định hướng chủ yếu sau:
3.1. Định hướng hoàn thiện thể chế lập pháp
Quy định rõ phạm vi thẩm qụyền các cơ quan của Quốc hội trong quy trình lập
pháp. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần xác định rõ các nội dung Quốc
hội giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh.
Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc lấy ý kiến Nhân
dân đối với các dự thảo luật, pháp lệnh: Xác định rõ nội dung và cách thức đăng tải
dự thảo văn bản; quy định trách nhiệm công khai các nội dung tiếp thu, phản hồi ý
kiến của nhân dân; quy định tiêu chí đánh giá phản hồi, tiếp thu, chỉnh lý văn bản
theo ý kiến đóng góp của nhân dân; quy định chính sách ưu đãi nhằm thu hút “chất

xám” của các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực tham gia vào
hoạt động lập pháp.
Xây dựng căn cứ pháp lý rõ ràng hơn cho hoạt động phân tích chính sách, đánh
giá tác động của văn bản tới cuộc sống. Quy định rõ tiêu chí đối với báo cáo phân
tích chính sách, đánh giá tác động, trong đó thể hiện rõ yêu cầu đối với việc giải
thích, phân tích, lập luận về các phương án, lợi, hại của các phương án, dự báo về
ngân sách và chi phí xã hội và lợi ích mà dự án văn bản mang lại cho xã hội nếu được
ban hành.
Quy định rõ chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động lập
pháp, chẳng hạn: chế tài đối với các hành vi không thực hiện nghiêm chương trình
lập pháp của Quốc hội; ché tài đối với hành vi không bảo đảm tiến độ và chất lượng
12
12


hồ sơ kèm theo dự thảo văn bản; chế tài đối với hành vi khơng hồn thành trách
nhiệm trong tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo văn bản theo góp ý của Nhân dân,
v.v..
3.2. Định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần phải tiến hành đồng bộ cả bốn
vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau: xác định đúng đắn và nâng
cao nhận thức về vị trí, vai trị của Quốc hội; Quốc hội có cơ cấu tổ chức hợp lý; đổi
mới phương thức hoạt động của Quốc hội và nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội.
Cụ thể:
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Những
vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội phải được đưa ra bàn bạc chung, thảo luận kỹ
lưỡng và phải được biểu quyết theo đa số tại các kỳ họp của Quốc hội, sau đó Quốc
hội quyết định bằng việc ban hành các đạo luật và các Nghị quyết. Trong sinh hoạt
của Quốc hội phải phát huy cao độ tính dân chủ, vừa thể hiện trí tuệ của tập thể đại

biểu Quốc hội, vừa tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân. Hoạt động của
Quốc hội phải bảo đảm gần dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đặc biệt,
cần có cơ chế và hình thức thích hợp lấy ý kiến Nhân dân; tiến tới thực hiện trưng cầu
ý dân về các đạo luật.
Đổi mới cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo hướng bảo đảm nâng cao tính
chuyên nghiệp và hiện đại. Tổ chức Quốc hội bảo đảm cơ cấu hợp lý; tăng số lượng
đại biểu chuyên trách; tăng số lượng các ủy ban của Quốc hội; sắp xếp các đại biểu
Quốc hội thành Hội đồng và các ủy ban phải bảo đảm tính chun nghiệp, chun
mơn hóa cao; hiện đại hóa hệ thống các cơng sở, số hóa hệ thống văn phịng, văn thư,
lưu trữ, quản lý cán bộ, tài chính và tài sản công, phát triển mạng lưới thông tin, ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động của Quốc hội.
Quốc hội phải xác định rõ hơn cơ chế, phương thức hoạt động của mình theo
đúng quy định của Hiến pháp và luật. Các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội
13
13


thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế hoạt động của Quốc hội. Đề cao trách nhiệm
chính trị pháp lý của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong việc bảo đảm
hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Quốc hội; tăng cường minh bạch, công khai trong
tổ chức và hoạt động của Quốc hội; Quốc hội cung cấp kịp thời cho nhân dân về các
quyết định của mình và chịu trách nhiệm trước nhân dân; đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội để bảo đảm Quốc hội chủ động
hơn, chuyên nghiệp hơn, ngày càng thực hiện tốt và đầy đủ các chức năng của mình.
Đổi mới cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội, bảo đảm bầu cử, ứng cử của đại biểu
Quốc hội dân chủ, minh bạch, khách quan và tăng cường hỗ trợ về kỹ thuật, thông
tin, cơ sở vật chất cho hoạt động của đại biểu Quốc hội.
3.3. Định hướng tiếp tục hoàn thiện hoạt động lập pháp
Tăng cường việc ban hành luật, giảm dần việc ban hành Pháp lệnh của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Việc ban hành luật của Quốc hội phải hướng tới cụ thể, rõ ràng,

có thể thi hành ngay, hạn chế tình trạng luật đã được ban hành nhưng cần phải chờ
thời gian dài khi có nghị định, thơng tư hướng dẫn thì tinh thần của luật mới đi vào
cuộc sống.
Nâng cao tính chun nghiệp, chun mơn hóa sâu của các ban soạn thảo: chú
trọng lựa chọn những chuyên gia, nhà quản lý có tài năng, am hiểu vấn đề, có đủ
năng lực và kỹ thuật chuyển hóa những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của chính sách
lập pháp thành những điều luật cụ thể trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
hoàn chỉnh nhất với kỹ thuật lập pháp phù hợp. Thành viên ban soạn thảo cần phải
nghiên cứu kỹ chính sách, pháp luật nói chung, từng ngành luật nói riêng, kết họp với
khảo sát thực tế và so sánh với pháp luật các nước.
Tổ chức việc tham vấn công chúng một cách khoa học, thực chất, hiệu quả.
Phạm vi đối tượng tham vấn phải mang tính tiêu biểu, đại diện cho đơng đảo các
nhóm khác nhau liên quan đen các quy định trong dự thảo văn bản được đưa ra tham
vấn. Trong nhóm các đối tượng chịu sự tác động thì cũng phải tham vấn đại diện cho
từng nhóm lợi ích cơ bản của đối tượng chịu sự tác động; bảo đảm cung cấp thông tin
14
14


một cách đầy đủ về các nội dung tham vấn cho các nhóm được tham vấn nhằm
khuyến khích các nhóm đó tham gia góp ý vào dự thảo.
Xây dựng đội ngũ chuyên viên giúp việc cho hoạt động lập pháp có trình độ,
có năng lực tổng hợp và rà sốt kỹ thuật của văn bản, bảo đảm các quy định pháp luật
được thiết kế logic, khoa học, vãn phong trong sáng, một nghĩa. Thực hiện thường
xuyên việc cung cấp thông tin nghiên cứu lập pháp phục vụ hoạt động của đại biểu
Quốc hội, như: kết quả của các đề tài khoa học, báo, tạp chí chun ngành, các kênh
thơng tin trên mạng Internet, các trang mạng xã hội Zalo, Facebook,... để giúp đại
biểu Quốc hội hiểu sâu sắc và toàn diện các khía cạnh của dự án.
Trong q trình lập pháp cần lưu ý một sổ vấn đề: Các quan hệ xã hội mà dự án
luật dự kiến điều chỉnh phải là các quan hệ xã hội có độ ổn định cao để đảm bảo cho

vãn bản luật ổn định, ít phải thay đổi; các quy định của luật có nội dung điều chỉnh rõ
ràng, hạn chế tối đa những quy định khơng có nội dung điều chỉnh; khi thể hiện nội
dung của luật phải làm rõ được chính sách của Nhà nước đối với việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội; xác định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh trong một đạo luật bảo
đảm mỗi đạo luật có đối tượng và phạm vi điều chỉnh riêng theo nguyên tắc không
trùng lặp, chồng chéo, không tạo ra lỗ hổng giữa các văn bản.
4. Một số đề xuất, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện hoạt động lập pháp trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Với vai trò, nhiệm vụ là công chức lãnh đạo công tác tại Văn phòng Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; qua q trình cơng tác
và tiếp thu những kiến thức về môn học Nhà nước và Pháp luật Việt Nam; quá trình
nghiên cứu các tài liệu, văn bản có liên quan, học viên có 04 ý kiến đề xuất, kiến nghị
tiếp tục hoàn thiện hoạt động lập pháp của Quốc hội trong thời gian tới, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, tập trung xây dựng và hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa để chuyển mạnh nền kinh tế sang mơ hình tăng trưởng dựa trên cơ
sở tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ. Đây cần được xem là định hướng
hàng đầu trong việc nâng cao chất lượng lập pháp. Thực chất là đổi mới tư duy pháp
15
15


lý trong xây dựng chế độ sở hữu, quyền tự do kinh doanh, sử dụng tài nguyên, đất
đai, môi trường..., để tạo môi trường pháp lý huy động mọi tiềm năng, nguồn lực vào
phát triển kinh tế, xã hội.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả vì nhân
dân phục vụ, vì sự phát triển của đất nước. Trước hết, cần tiếp tục xây dựng một
Quốc hội mạnh trong thẩm định các dự án luật và giám sát tối cao, trong đó có giám

sát hoạt động lập pháp với việc lấy các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và
Đại biểu Quốc hội làm hai trụ cột chính. Chuyển Quốc hội từ góp ý, nêu vấn đề sang
một Quốc hội thật sự phản biện, tranh luận, phân tích quy trách nhiệm trong hoạt
động lập pháp và giám sát tối cao. Giảm việc giao Chính phủ và các cơ quan có thẩm
quyền quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành (giảm ủy quyền lập pháp). Xây dựng
một Chính phủ kiến tạo, liêm chính, tăng cường cơng khai, minh bạch, trách nhiệm
giải trình, kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của cán bộ, công chức và viên chức.
Nâng cao năng lực lập pháp trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân,
trước hết là nâng cao năng lực thể chế hóa mối quan hệ giữa trách nhiệm của Nhà
nước nói chung, của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nói riêng với cá nhân cơng dân
theo hướng đề cao nhân tố con người, tạo điều kiện cho con người thực hiện đầy đủ
các quyền con người, quyền công dân về kinh tế, dân sự, chính trị, xã hội.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện các quy phạm pháp luật về giáo dục, khoa học,
công nghệ và các vấn đề xã hội. Đây là một lĩnh vực đa dạng, phức tạp với nhiều tư
duy pháp lý mới. Theo đó, cần quan tâm đổi mới các tư duy như xã hội hóa trong
giáo dục, đào tạo, khoa học - cơng nghệ, y tế, văn hóa, thể thao...; giáo dục - đào tạo
là quốc sách hàng đầu; các loại thị trường trong lao động, trong khoa học - công
nghệ; phát huy tự do, dân chủ trong nghiên cứu khoa học, sáng tạo...
Thứ tư, nâng cao năng lực nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã
gia nhập hoặc ký kết. Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Nhà
nước ta đã và đang ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong nhiều lĩnh vực kinh tế,
16
16


văn hóa, xã hội ... Vì vậy, tăng cường năng lực nội luật hóa những điều ước quốc tế
mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập là một trong những định hướng quan trọng
trong việc nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội trong thời gian tới.

Phần III

KẾT LUẬN
Hoạt động lập pháp thời gian qua đã được tiến hành một cách toàn diện, đồng
bộ và đạt được kết quả quan trọng cả về chất lượng và số lượng. Thơng qua đó, đã
xây dựng hệ thống pháp luật phục vụ đắc lực cho cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước, định hình khn khổ pháp lý cho sự vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và bảo vệ
quyền con người, các quyền tự do cơ bản của cơng dân; góp phần thúc đẩy và mở
rộng hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội đang đứng trước đòi hỏi phải “Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất
nước”. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động lập pháp thơng qua việc hồn thiện, xây dựng
hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, hiện đại, cơng khai, minh bạch, ổn
định, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của
Nhân dân đảm bảo đúng, phù hợp với tinh thần và nội dung của chủ trương xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân được đề ra trong đường lối của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

17
17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
----------

1.

Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận chính

trị: Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Lý luận Chính trị, H.2021.

2.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XIII ,

Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, TI, II.
3.

Quốc hội: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,

Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.
4.

Báo điện tử Đại biểu Nhân dân.

5.

Cổng thông tin điện tử Quốc hội.

6.

Trang thơng tin tạp chí nghiên cứu lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

7.

Các bài viết trong Tạp chí Cộng sản Việt Nam.
Và các hồ sơ, tài liệu, bài viết có liên quan.

18
18




×