MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1
B. NỘI DUNG
2
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN VÀ PHƯƠNG
THỨC ÁP DỤNG ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG PHÁP LUẬT QUỐC GIA
2
1. Khái niệm
2
1.1. Khái niệm về pháp luật quốc gia
2
1.2. Khái niệm về pháp luật quốc tế
2
1.3. Khái niệm về điều ước quốc tế
2
2. Nguyên tắc thực hiện điều ước quốc tế
3
3. Phương thức áp dụng điều ước quốc tế trong pháp luật quốc gia
5
II. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG THỨC
ÁP DỤNG ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
6
1. Những kết quả/thành tựu của Việt Nam trong việc áp dụng điều ước quốc tế
6
2. Một số khó khăn của Việt Nam trong việc áp dụng điều ước quốc tế
9
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM THỰC HIỆN TỐT VIỆC ÁP DỤNG
CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
11
C. KẾT LUẬN
13
Chủ đề:
“Nguyên tắc thực hiện và phương thức áp dụng điều ước quốc tế
trong pháp luật quốc gia. Liên hệ thực tế việc thực hiện các nguyên tắc và
phương thức áp dụng điều ước quốc tế ở Việt Nam hiện nay”
BÀI LÀM
A. MỞ ĐẦU
Cùng với sự ra đời của các quốc gia độc lập như Hy Lạp, La Mã cổ đại ở phương
Tây; Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ ở phương Đông mối liên hệ giữa các quốc gia cũng
dần được hình thành trong quá trình thiết lập biên giới, những thỏa thuận liên kết để
chống ngoại xâm cũng như giải quyết hậu quả chiến tranh… Các quan hệ khi hình
thành địi hỏi phải được điều chỉnh về mặt pháp lý quốc tế. Do đó, ngay từ thời chiếm
hữu nơ lệ đã xuất hiện những nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh mối quan hệ giữa các
quốc gia. Thời Cổ đại, Luật Vạn dân của Nhà nước La Mã cổ đại đã có quy định điều
chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước La Mã với các quốc gia khác; giữa người dân La Mã
với người nước ngoài và giữa người nước ngồi với nhau sinh sống tại La Mã. Do đó
Luật Vạn dân đánh dấu sự ra đời của Luật Quốc tế. Đến Thế kỷ thứ XVI, nhà luật
học F.Vitoria (Tây Ban Nha) dùng thuật ngữ “Luật giữa các dân tộc” và đến Thế kỷ
XVII thuật ngữ này được sử dụng trong đời sống quốc tế. Năm 1780, nhà Triết
học Jeremy Bentham (Anh) viết tác phẩm nổi tiếng “Giới thiệu về các nguyên tắc về
đạo đức và pháp luật”, thuật ngữ “Pháp luật quốc tế” được ra đời và trở thành tên gọi
của một ngành khoa học pháp lý phát triển ở nhiều quốc gia.
Luật quốc tế có chủ thể của riêng mình - các quốc gia và các tổ chức quốc tế.
Luật quốc gia cũng vậy, chủ thể của nó là Nhà nước và các pháp nhân, cá nhân trên
lãnh thổ đó. Bên cạnh tính độc lập tác động như vậy, Luật quốc tế và Luật quốc gia
cũng có mối quan hệ gắn bó mật thiết. Một trong những biểu hiện của điều này đó là
các điều ước quốc tế ngày càng trở thành một nguồn quan trọng của luật các quốc
gia, đồng thời hướng luật quốc gia một số nước, đặc biệt là các nước đang phát
triển, phát triển theo chiều hướng tiến bộ. Chẳng hạn các điều ước quốc tế về nhân
quyền đã tác động tích cực đến sự thay đổi pháp luật về nhân quyền ở các nước còn
1
tồn tại chính sách phân biệt chủng tộc, giới tính… Ngược lại, cũng có rất nhiều quy
phạm của luật quốc tế được xây dựng dựa trên các quy phạm pháp luật tiến bộ của
một số quốc gia.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay, điều ước quốc tế là một trong
những công cụ hiệu quả nhất mà các quốc gia có thể sử dụng để thiết lập các quan
hệ đối ngoại. Chính vì thế, trong pháp luật các nước nói chung, pháp luật Việt Nam
nói riêng, điều ước quốc tế đóng một vai trị quan trọng và thường được ưu tiên áp
dụng trong trường hợp xảy ra xung đột giữa các quy định của văn bản quy phạm
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về cùng một vấn đề.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN VÀ
PHƯƠNG THỨC ÁP DỤNG ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC GIA
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là hệ thống các quy tắc xử sự do các cơ quan có thẩm quyền
của mỗi quốc gia thừa nhận, ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền, đồng thời là yếu tố điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm đảm
bảo một xã hội ổn định, trật tự trong nội bộ quốc gia.
1.2. Khái niệm về pháp luật quốc tế
Pháp luật quốc tế (cịn gọi là cơng pháp quốc tế) là tổng hợp các nguyên tắc,
các quy phạm pháp luật để điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu mang tính
chính trị) giữa các chủ thể tham gia quan hệ quốc tế thơng qua đấu tranh thương
lượng, bình đẳng với nhau, nhằm phục vụ mục đích chính trị của các chủ thể đó và
đấu tranh thương lượng, hợp tác với nhau, trong trường hợp cần thiết, có thể sử
dụng biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hay tập thể với quy định của pháp luật quốc tế.
1.3. Khái niệm về điều ước quốc tế
2
Điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể pháp luật quốc tế với nhau trên
cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc, gọi là
những quy phạm pháp luật quốc tế, để ấn định, thay đổi hoặc hủy bỏ các quyền và
nghĩa vụ đối với nhau.
Các hình thức biểu hiện cơ bản của điều ước quốc tế: Hiến chương, Hiệp ước/hiệp
định; Cơng ước; Nghị định thư; các hình thức khác như: tun bố, thơng báo, tạm ước,
hịa ước,...
2. Ngun tắc thực hiện điều ước quốc tế
2.1. Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (nguyên tắc Pacta Sunt
Servanda)
Ngày 23/5/1969, Hội nghị Liên Hiệp quốc về Luật Điều ước quốc tế đã thông
qua Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế với 79 quốc gia bỏ phiếu tán thành.
Ngày 27/01/1980, 30 ngày sau ngày quốc gia thứ 35 (Cộng hòa Togo) nộp lưu chiểu
văn kiện gia nhập Công ước, Công ước Viên 1969 bắt đầu phát sinh hiệu lực pháp
lý. Hiện nay, số lượng các quốc gia thành viên vẫn ngày càng tăng, chứng tỏ rằng,
Công ước có giá trị pháp lý cao trong việc điều chỉnh quan hệ ký kết, thực hiện điều
ước quốc tế giữa các quốc gia. Việt Nam gia nhập Công ước này năm 2001.
“Pacta Sunt Servanda” là cụm từ La-tinh, trong đó “Pacta” là những điều giao
ước; “Sunt” là thì; “Servanda” là cần phải được giữ. Cụm từ này nghĩa là những
điều đã giao ước cần phải được thực hiện; nói cách khác là phải tơn trọng những nội
dung mình đã giao ước. Nguyên tắc này xuất hiện rất sớm và tồn tại dưới hình thức
tập quán quốc tế và đã được vận dụng vào luật quốc tế từ lâu, trở thành một nguyên
tắc pháp lý cơ bản trong quan hệ quốc tế. Ngày nay, nguyên tắc “Pacta Sunt
Servanda” đã được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế, cụ thể là Lời mở đầu của
Hiến chương Liên Hiệp quốc (1945) đã khẳng định quyết tâm của các nước thành
viên là: “Tạo những điều kiện cần thiết để đảm bảo công lý và tôn trọng những
nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế và các nguồn khác của luật quốc tế đặt
ra”. Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc của luật quốc tế; Định ước Henxinki
năm 1975… cũng có nêu rõ nguyên tắc này. Lời nói đầu của Công ước Viên về Luật
3
Điều ước quốc tế 1969 nhấn mạnh” “Ghi nhận rằng nguyên tắc tự nguyện và thiện
chí và quy phạm Pacta Sunt Servanda đã được tồn thế giới cơng nhận”. Điều 26
Cơng ước này quy định: “Mọi điều ước đã có hiệu lực thì ràng buộc các bên tham
gia và phải được các bên thi hành với thiện chí”. Trong thực tiễn, nguyên tắc “Pacta
Sunt Servanda” đã trở thành cơ sở pháp luật quốc tế để các quốc gia thực hiện nghĩa
vụ quốc tế như đã cam kết.
Như vậy, theo các văn kiện pháp lý quốc tế hiện hành, nguyên tắc “Pacta Sunt
Servanda” địi hỏi mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí,
trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ từ các điều ước quốc tế mà nước mình đã ký kết,
tham gia. Điều này có nghĩa là các điều ước quốc tế phải được thực hiện triệt để,
không phụ thuộc vào các sự kiện trong và ngoài nước.
Để tuân thủ nguyên tắc “Pacta Sunt Servanda”, đặc biệt đối với những quốc
gia là thành viên Liên Hiệp quốc và là thành viên Công ước Viên về Luật Điều ước
quốc tế 1969, các quốc gia trên thế giới đều phải chấp nhận những phương thức để
có thể áp dụng điều ước quốc tế trong pháp luật quốc gia.
2.2. Nguyên tắc thi hành hiệu lực ràng buộc của điều ước quốc tế trên phạm
vi toàn lãnh thổ quốc gia thành viên
Điều 29 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969 quy định: “Trừ khi có
ý định khác được nêu rõ trong điều ước hoặc được xác nhận bằng một cách khác,
một điều ước ràng buộc mỗi quốc gia thành viên trong phạm vi toàn bộ lãnh thổ của
quốc gia thành viên đó”.
Như vậy, quy định nêu trên bắt buộc các quốc gia thành viên phải áp dụng
điều ước trên phạm vi toàn lãnh thổ của quốc gia đó, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy các ngun tắc ghi nhận tại Công ước
Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969 đều nhằm đạt đến mục đích thực hiện trên thực
tế các điều ước quốc tế đã ký kết. Các nguyên tắc được quy định trong Công ước
Viên về Luật Điều ước quốc tế 1969 đối với hoạt động thực thi điều ước quốc tế vừa
bảo đảm để mỗi quốc gia thành viên thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế
4
vừa có thể tạo điều kiện để các quốc gia sử dụng điều ước quốc tế với tính chất cơng
cụ pháp lý điều chỉnh hiệu quả các quan hệ nảy sinh trong đời sống quốc tế.
3. Phương thức áp dụng điều ước quốc tế trong pháp luật quốc gia
Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai phương thức cơ bản để áp dụng điều ước
quốc tế trong pháp luật quổc gia: phương thức chuyển hóa và phương thức chấp
nhận.
3.1. Phương thức chuyển hóa
Đây là phương thức áp dụng pháp luật quốc tế gián tiếp, theo đó, cơ quan lập
pháp chuyển hóa (nội luật hóa) các quy tắc có liên quan của pháp luật quốc tế thành
pháp luật quốc gia. Nghĩa là, pháp luật quốc tế được thực hiện thông qua việc thực
hiện pháp luật quốc gia. Việc chuyển hóa pháp luật quốc tế thành pháp luật quốc gia
thường được thực hiện dưới các hình thức như:
+ Ban hành một luật riêng để thực hiện một điều ước quốc tế nhất định.
+ Sửa đổi, bổ sung luật cũ cho phù họp với điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký
kết hoặc tham gia.
3.2. Phương thức chấp nhận
Đây là phương thức áp dụng pháp luật quốc tế trực tiếp, theo đó hiến pháp hoặc
pháp luật của quốc gia quy định pháp luật quốc tế có hỉệu lực trong pháp luật quốc gia,
từ đó quốc gia có thể áp dụng trực tiếp pháp luật quốc tế mà không cần phải thông qua
thủ tục nội luật hóa.
Phương thức chấp nhận có đặc điểm là mang tính trực tiếp, tính chỉnh thể và
khơng thay đổi, nghĩa là nội dung của pháp luật quốc tế khơng bị cải biến trong pháp
luật quốc gia.
Tóm lại, đối với các điều ước quốc tế thì có hai hình thức tiếp nhận vào pháp
luật quốc gia là “chuyển hóa” và “chấp nhận”. Hiện nay, đa số các nước đều sử
dụng cả hai phương thức này nhưng so với phương thức “chuyển hóa” thì phương
thức “chấp nhận” ít được sử dụng hơn khi xử lý mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế
và pháp luật quốc gia.
5
II. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG
THỨC ÁP DỤNG ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những kết quả/thành tựu của Việt Nam trong việc áp dụng điều ước
quốc tế
Đến nay, Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương
và đa phương (UNCLOS, WTO, APEC, RCEP…), ký kết 12 Hiệp định Thương mại
tự do (FTA) trong đó 2 FTA thế hệ mới - Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại Tự do Việt Nam – Liên
minh châu Âu (EVFTA).
Việt Nam luôn tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, các văn bản quy phạm pháp
luật của Việt Nam đã sử dụng thông lệ quốc tế để xử lý mối quan hệ giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia. Theo đó, pháp luật quốc tế được ưu tiên áp dụng so
với pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, nếu quy định của điều ước quốc tế mâu thuẫn với
quy định của Hiến pháp thì Hiến pháp sẽ được ưu tiên áp dụng và quy định của điều
ước quốc tế trở nên vô hiệu. Đây là bước tiến bộ của pháp luật Việt Nam vì nguyên
tắc này chỉ được thừa nhận từ khi ban hành Luật Điều ước quốc tế năm 2016, cụ thể:
Tại Khoản 1, Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 của Việt Nam quy định:
“Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp”. Quan điểm này cũng
được quy định tại khoản 5, Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015: “Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong nước không được cản
trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định
khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ
Hiến pháp”.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã quy định về cách xử lý mối quan hệ giữa
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế tương đối rõ ràng và phù hợp với lý thuyết
6
cũng như thơng lệ chung của quốc tế. Theo đó, pháp luật Việt Nam thừa nhận cả hai
hình thức chuyển hóa (áp dụng gián tiếp) và chấp nhận (áp dụng trực tiếp) để thực
hiện pháp luật quốc tế trên lãnh thổ Việt Nam. Thẩm quyền quyết định áp dụng
phương thức xử lý nào thuộc về Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ, cụ thể:
Tại Khoản 2, Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 của Việt Nam quy định:
“Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng
thời quyết định áp dụng trực tiếp tồn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ,
đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”.
Từ những nội dung nêu trên cho thấy, pháp luật Việt Nam sẽ vừa thúc đẩy
tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam được thuận lợi hơn, vừa đảm bảo sự chặt
chẽ về thủ tục, đảm bảo phù hợp với thơng lệ quốc tế. Theo đó, pháp luật Việt Nam
thừa nhận cả hai hình thức chuyển hóa (áp dụng gián tiếp) và chấp nhận (áp dụng
trực tiểp) để thực hiện pháp luật quốc tế trên lãnh thổ Việt Nam. Thẩm quyền quyết
định áp dụng phương thức xử lý nào thuộc về Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính
phủ. Có thể nói, đây là một trong những điểm nổi bật của hệ thống pháp luật Việt
Nam trong tiến trình cải cách mở cửa và hội nhập quốc tế trong thời gian qua.
Điển hình như: Để thực thi đúng cam kết trong FTA thế hệ mới, Việt Nam
đã và đang thay đổi, bổ sung thêm các quy định cụ thể về Luật Lao động, nâng
chuẩn chế độ bảo hiểm và lương cơ bản cho người lao động… nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích cho người lao động Việt Nam khi làm việc cho các tổ chức, DN trong
nước và nước ngồi. Bộ luật Lao động mới dự kiến sẽ có hiệu lực vào năm 2019, so
với Bộ luật Lao động năm 2012, Bộ luật này đã thay đổi 11 nội dung.
Việc rà soát, chỉnh sửa, bãi bỏ các quy định pháp luật khơng cịn phù hợp,
đảm bảo thực hiện đúng theo luật quốc tế có liên quan đến các FTA Việt Nam tham
gia ký kết… đã và đang được Chính phủ Việt Nam chỉ đạo thực hiện quyết liệt theo
chủ trương của Đảng. Cụ thể, trong những năm qua, Việt Nam đã lấy ý kiến nhân
7
dân và hoàn chỉnh dự thảo, ban hành nhiều Luật mới thay thế, bổ sung như: Luật
Lao động, Luật Tổ chức chính phủ và chính quyền địa phương; Luật Quản lý ngoại
thương…
Hay đối với Công ước Luật biển Liên hợp quốc - Hiến pháp về đại dương.
Cách đây gần 40 năm, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS
1982), được 107 quốc gia; trong đó có Việt Nam, ký tại Vịnh Montego thuộc
Jamaica, đánh dấu thành công của Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ ba,
với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức
quốc tế phi chính phủ.
Cơng ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (gọi tắt là Công ước) là một văn
kiện quốc tế đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 09 Phụ lục. Cơng ước có
hiệu lực từ ngày 16/11/1994 và đã trở thành một trong những điều ước quốc tế đa
phương quan trọng nhất của thế kỷ XX và là điều ước quốc tế phổ cập với 164 quốc
gia thành viên, tính đến thời điểm hiện nay.
Cơng ước được đánh giá là bản Hiến pháp về đại dương. Những quy định của
Công ước là kết quả của quá trình hợp tác, đấu tranh, thỏa hiệp và xây dựng trong
nhiều năm giữa các quốc gia trên thế giới với các chế độ chính trị - xã hội, trình độ
phát triển kinh tế, góc nhìn luật pháp khác nhau.
Việt Nam là một trong số 107 quốc gia tham gia ký Công ước ngay trong
ngày văn bản này được mở và để ký. Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra
Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 của Nghị
quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982,
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc
tế xây dựng một trật tự pháp lý cơng bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác
trên biển.”
Sau một thời gian phê chuẩn Công ước, ngày 21/6/2012 tại kỳ họp thứ ba,
Quốc hội khóa XIII đã thơng qua Luật Biển Việt Nam. Lần đầu tiên, Luật Biển Việt
Nam đã quy định đầy đủ chế độ pháp lý của các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam theo đúng nội dung của
8
Công ước. Luật Biển Việt Nam là cơ sở quan trọng cho việc thống nhất quản lý, sử
dụng, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo của Việt Nam. Qua việc thông qua Luật
Biển Việt Nam, chúng ta đã làm cho thế giới thấy rõ Việt Nam là một thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, ln luôn tuân thủ và tôn trọng luật pháp quốc
tế, thể hiện quyết tâm của nhà Việt Nam phấn đấu vì hịa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển của khu vực và trên thế giới.
Trong những năm gần đây, tình hình Biển Đơng diễn biến phức tạp. Chủ trương
của Đảng và Nhà Việt Nam là tôn trọng và tuân thủ Công ước, vận dụng Công ước để
giải quyết các tranh chấp trên Biển Đơng bằng các biện pháp hịa bình trên cơ sở tơn
trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ cũng như tơn trọng lợi ích của các nước
liên quan. Trong khi tìm kiếm một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông, các
bên liên quan cần kiềm chế, khơng làm gì để tình hình phức tạp thêm, phù hợp với các
quy định của Công ước.
Kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa
các mối quan hệ; đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng sức mạnh tổng hợp;
kiên trì giải quyết tranh chấp Biển Đơng và các vấn đề nảy sinh trên biển bằng biện
pháp hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển 1982,
Việt Nam đã và đang thể hiện là một thành viên có trách nhiệm của Cơng ước, tích
cực vận dụng Cơng ước nhằm thiết lập một trật tự pháp lý công bằng, bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia.
2. Một số khó khăn của Việt Nam trong việc áp dụng điều ước quốc tế
Qua nghiên cứu các báo cáo của Việt Nam đã thực hiện các điều ước quốc tế
cho thấy bên cạnh những kết quả đang ghi nhận, vẫn cịn một số khó khăn, vướng
mắc trong việc thực hiện điều ước quốc tế như:
Thứ nhất, Chưa có hướng dẫn cụ thể của Luật Điều ước quốc tế năm 2016 về
cách thức nội luật hóa các điều ước quốc tế nói chung và các Hiệp định thương mại tự
do nói riêng. Các cam kết của Việt Nam theo một điều ước quốc tế có thể được
chuyển hóa vào các quy định của nhiều loại văn bản khác nhau (văn bản luật hoặc văn
9
bản dưới luật). Điều này có thể gây khó khăn cho việc nội luật hóa các quy định của
các điều ước quốc tế.
Thứ hai, Hội nhập quốc tế chưa được triển khai đồng đều, hiệu quả tổng hợp
chưa cao. Năng lực hội nhập quốc tế chậm cải thiện. Chưa khai thác hết và phát huy
hiệu quả các quan hệ lợi ích đan xen, ổn định với các đối tác quan trọng.
Đối với các điều ước khi tham gia vào các Hiệp định thương mại đặc biệt là
Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới ngày càng nhiều. Bên cạnh những
thời cơ lớn Việt nam cũng gặp một số khó khăn về việc chuyển hóa các quy định
của điều ước quốc tế vào pháp luật nội địa. Việc chuyển hóa các FTA vào nội luật
của Việt nam chưa thống nhất về hình thức văn bản để nội luật hóa các cam kết của
Việt Nam trong FTA thế hệ mới. Trong trường hợp áp dụng trực tiếp hoặc nội luật
hóa nếu như quy định điều ước quốc tế và quy định của nội luật khác nhau thì quy
định của điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng. Vì vậy, Việt Nam cần phải rà
soát lại hệ thống pháp luật của nước mình sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy
định chung và FTA thế hệ mới nhất là đối với các lĩnh vực thương mại, đầu tư, cạnh
tranh của doanh nghiệp nhà nước, lao động, đấu thầu...
Đối với Thương mại quốc tế, từ lâu minh bạch hóa chính sách là một trong
những nguyên tắc cơ bản được nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và các FTA yêu cầu các thành viên phải tuân thủ. Việt Nam đã
thực thi khá tốt các cam kết về minh bạch hóa chính sách thương mại của mình. Đây
cũng là cơ sở để Việt Nam thực hiện các cam kết cao hơn về minh bạch hóa trong
các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA. Song vẫn còn một số những hạn chế
tồn tại thực hiện cơng khai minh bạch cịn chậm chưa được thực hiện đầy đủ do các
quy định về minh bạch hóa nằm ở nhiều chương khác nhau nên việc thực hiện các
cam kết minh bạch cũng sẻ ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ công khai.
Thứ ba, Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ
thực hiện chức năng này phải có trình độ cao. Tuy nhiên, cơ chế hiện nay đội ngũ
cán bộ nước ta nhìn chung vẫn cịn hạn chế về trình độ chun mơn và việc nhận
thức những quy định của điều ước còn hạn chế.
10
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM THỰC HIỆN TỐT VIỆC ÁP
DỤNG CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Trong giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế cần
quán triệt những chủ trương lớn sau đây:
Một là, thực hiện nhất quán đương lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Hai là, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập
trung của Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tạo
lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên
ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Xây dựng nền
ngoại giao hiện đại vì lợi ích quốc gia - dân tộc, lấy phục vụ người dân và doanh
nghiệp làm trung tâm.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
giữa hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp,
huy động tiềm năng của toàn xã hội, đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng
cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước.
Bốn là, tiếp tục đổi mới họp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động,
tích cực, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động
của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên
nguyên tắc cùng có lợi, vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới, nhằm tạo ra sự thay đổi về chất trong công tác hợp tác quốc tế về pháp luật.
Nghiên cứu giải pháp gia tăng sự hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong
các thiết chế luật pháp quốc tế.
Năm là, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù họp với những điều ước quốc tế và
cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu
sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi
11
trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải
quyết tranh chấp quốc tế. Thường xuyên rà soát, đánh giá tính tương thích của pháp
luật trong nước và điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực quản lý của mình theo quy trình rà
sốt dưới sự chủ trì của Bộ Tư pháp hoặc trong quá trình ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Sáu là, Tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành trong quá trình đàm phán, ký
kết các điều ước quốc té để kịp thời áp dụng thực hiện. Trong đó phối hợp chặt chẽ với
Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao cũng như các Bộ chuyên ngành để đảm bảo q trình
chuyển hóa FTA khơng gây ra khó khăn, cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp,
nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như xem xét chuyển hóa FTA theo
hướng cải cách mơi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam. Có thể thấy việc
chuyển hóa FTA vào nội luật khơng phải là một cơng việc đơn giản.
Bảy là, chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa
phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC và các khuôn khổ hơp tác khu
vực và quốc tế; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các
nước láng giềng; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây
dựng cộng đồng vững mạnh; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song
phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tạo thế
đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy.
Tám là, chủ động tham gia xây dựng các khuôn khổ của pháp luật quốc tế
như: các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu;
xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác
chiến lược, đối tác tồn diện và các đối tác khác.
Chín là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động
can thiệp của các thế lực thù địch vào các công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước.
Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất
là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, kiên trì, kiên quyết bảo vệ
các lợi ích chính đáng của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế.
12
C. KẾT LUẬN
Hiện nay q trình tồn cầu hóa trên thế giới đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ,
các quốc gia trên thế giới ngày càng gắn kết chặt với nhau thơng qua các chương
trình hợp tác cũng như ký kết các điều ước quốc tế . Từ khi bắt đầu công cuộc đổi
mới cho đến nay Việt Nam luôn chú trọng vấn đề tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, có
rất nhiều điều ước song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết và trong
tương lai như vậy có thể thấy rằng có nhiều điều ước hơn nữa mà Việt Nam là thành
viên. Từ những cơ sở thực tiễn đã nệu trên cho thấy vị trí của các điều ước quốc tế
trong hệ thống pháp luật nước ta đã được xác định rõ thông qua các quy định của
pháp luật, các điều ước quốc tế đã trở thành một công cụ pháp lý quan trọng để điều
chỉnh các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới và
các tổ chức quốc tế. Đây là một bước tiến triển quan trọng trong hoạt động lập pháp
bởi xác dịnh định vị trí của điều ước quốc tế so với nội luật có ý nghĩa trực tiếp đến
với các cam kết quốc tế có thực hiện được hay khơng. Vấn đề thực thi điều ước ở
Việt Nam nhìn chung đã có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo thực thi các cam kết
quốc tế và đạt được những thành tựu to lớn.Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại
hạn chế như đã phân tích cần phải khắc phục.
Cuối cùng cần phải khẳng định rằng điều ước quốc tế có một vị trí quan trọng
trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Vì vậy các nước trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng cần phải thực hiện điều ước mà mình là thành viên
thực hiện một cách tận tâm, trách nhiệm và thiện chí./.
13