Tên đề tài tiểu luận:
QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH VIỆT NAM QUA HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH VĂN HÓA CỦA TỈNH LAI CHÂU
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu tiểu luận
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN QUẢNG BÁ
HÌNH ẢNH VIỆT NAM QUA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA
1. Một số khái niệm về du lịch văn hóa và quảng bá du lịch văn hóa của
Việt Nam
1.1. “Quảng bá” là gì?
1.2. Các hình thức quảng bá du lịch văn hóa ở Việt Nam
2. Một số khái niệm về du lịch văn hóa và bản chất
2.1. Khái niệm văn hóa và du lịch
2.2. Khái niệm du lịch văn hóa
2.3. Bản chất của du lịch văn hóa
3. Du lịch văn hóa ở Việt Nam
3.1. Đặc diểm du lịch văn hóa ở Việt Nam
3.2. Xu hướng phát triển của du lịch văn hóa ở Việt Nam
1
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢNG BÁ DU LỊCH VĂN
HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU
1. Khái quát về hoạt động du lịch văn hóa của Lai Châu
1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên của tỉnh Lai Châu
1.2. Lịch sử hình thành vùng đất Lai Châu
1.3. Tài nguyên du lịch văn hóa của tỉnh Lai Châu
2. Thực trạng quảng bá du lịch văn hóa qua một số địa điểm và lễ hội
2.1. Quần thể hang động Pusamcap
2.2. Di tích Bia Lê Lợi
2.3. Thác Tác Tình
2.4. Động Tiên Sơn
2.5. Lễ hội nàng Han
2.6. Cao nguyên Sìn Hồ
2.7. Chợ phiên San Thàng
3. Thành tựu và hạn chế trong công tác quảng bá
3.1. Những thành tựu đã đạt được
3.2. Những hạn chế cần khắc phục
CHƢƠNG 3: NGUYÊN NHÂN, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP
1. Nguyên nhân của những hạn chế
2. Phƣơng hƣớng cho cơng tác quảng bá du lịch văn hóa của tỉnh Lai
Châu
3. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả cho việc quảng bá hình ảnh
Việt Nam qua hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh Lai Châu.
KẾT LUẬN
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc chiến tranh vũ trang tàn khốc, ác liệt nhất của nhân loại đã trôi qua gần
nửa thế kỷ, với những nỗi đau khó có thể bù đắp được của những con người,
những dân tộc đã đi qua cuộc chiến ấy. Có rất nhiều bi thương, nhưng khi chiến
tranh qua đi, cuốn sách của nhân loại đã bước sang một trang mới. Nhịp sống
diễn ra nhanh hơn, con người hối hả với những công việc khác nhau, xã hội vẫn
không ngừng tiến bộ. Các quốc gia lớn nhỏ đều tăng cường sự hợp tác lẫn nhau
và Việt Nam khơng hề đứng ngồi xu hướng ấy. Có rất nhiều lĩnh vực khác nhau,
tùy thuộc vào thế mạnh của từng quốc gia để lấy đó làm tiền đề cho sự phát triển
kinh tế và hội nhập tồn cầu. Trong đó, du lịch là điểm sáng của rất nhiều các
quốc gia trên toàn thế giới, thu về lợi nhuận khổng lồ hàng năm. Ở Việt Nam, du
lịch có tiềm năng đa dạng và phong phú, phát triển mạnh mẽ trong những năm
gần đây. Nhà nước Việt Nam xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn. Và với sự
phát triển không ngừng, du lịch đang là một trong những nét hấp dẫn nhất của
Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.
Bất cứ một tỉnh thành nào trên dải đất hình chữ S này đều mang trong
mình tiềm năng du lịch rất lớn. Các du khách tìm đến các địa điểm ở Việt Nam
phần lớn vì khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nơi có rất nhiều danh thắng nổi
tiếng và được truyền thông quốc tế ngợi khen. Không nhiều quốc gia sở hữu số
lượng danh hiệu UNESCO nhiều như Việt Nam. Gồm các di sản thế giới, khu dự
trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, cơng viên địa chất tồn cầu, di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại… UNESCO đã cơng nhận tại Việt Nam 8 di sản
thế giới, 9 khu dự trữ sinh quyển thế giới và 9 di sản văn hóa phi vật thể. Trong
đó, vào ngày 23 tháng 6 năm 2014, tại thành phố Doha của Qatar, với sự đồng
3
thuận tuyệt đối của Ủy ban Di sản thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An chính
thức trở thành di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam khi đáp ứng cả hai
yếu tố nổi bật về văn hóa và thiên nhiên. Tràng An hiện cũng là di sản thế giới
kép đầu tiên và duy nhất ở khu vực Đông Nam Á.
Bên cạnh các danh thắng, di sản, Việt Nam còn hấp dẫn du khách bốn
phương nhờ vào nền văn hóa độc đáo. Việc đưa đất nước hội nhập với bè bạn
năm châu có thể thực hiện qua kinh tế hay chính trị, tuy nhiên hoạt động văn hóa
vẫn là một phương thức hiệu quả, được coi là một loại “sức mạnh mềm” giúp cho
hình ảnh dân tộc trở nên gần gũi nhưng vẫn mang đến dấu ấn riêng biệt.
Trong vài năm trở lại đây, bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch
sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục… chúng ta
thường hay nói tới một loại hình du lịch đó là du lịch văn hố. Được xem là loại
sản phẩm đặc thù cho du lịch của các nước đang phát triển, với nền tảng phát
triển phần lớn không dựa vào những đầu tư để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền,
mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc để
phát triển. Loại hình du lịch này đã mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch
các nước đồng thời lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội.
Ở Việt Nam, với vị thế là một nước đang phát triển, việc khai thác loại hình du
lịch này ở nước ta là cần thiết cho sự phát triển của ngành du lịch, qua đó, mang
lại nguồn thu lớn về kinh tế và đặc biệt hơn, nó cịn là cơ sở cho việc đưa nền văn
hóa nước ta ra thế giới. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, nhiều vùng có những tiềm
năng về du lịch, nhất là du lịch văn hóa, nhưng việc khai thác, phát triển loại hình
du lịch này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của vùng.
63 tỉnh thành của Việt Nam, mỗi nơi đều có những thế mạnh khác nhau để
phát triên du lịch và quảng bá văn hóa. Là một tỉnh thuộc khu vực vùng núi Tây
4
Bắc, Lai Châu có nhiều tiềm năng trong việc phát triển du lịch và góp phần quảng
bá văn hóa nước nhà ra quốc tế nhờ lịch sử phát triểu lâu đời và những địa điểm
du lịch mang nét đẹp hoang sơ, thuần túy.
Là địa bàn có con người cư trú từ rất sớm, nơi đây in đậm dấu ấn từ thời cổ
đại cũng như đi qua những cuộc chiến tranh của dân tộc và mang trong mình
những dấu tích khó phai mờ. Đây cũng là nơi có nguồn du lịch nhân văn khá
phong phú với sự sinh sống của hơn 20 dân tộc anh em. Đất và người nới đây tạo
nên kho tàng văn hóa vơ cùng đặc sắc với các phong tục tập qn, truyền thống
văn hóa, tơn giáo và tín ngưỡng. Tuy có nhiều điểm hấp dẫn là vậy, tuy nhiên
hoạt động du lịch văn hóa tại Lai Châu vẫn chưa được khai thác đúng cách để đạt
hiệu quả xứng đáng với tiềm năng vốn có. Từ thực tiễn đó địi hỏi du lịch Lai
Châu phải có chiến lược cụ thể, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
và định hướng phát triển của du lịch Việt Nam. Vì vậy, tơi đã lựa chọn chủ đề
“Quảng bá hình ảnh Việt Nam qua hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh Lai Châu”
nhằm tìm hiểu về các hoạt động quảng bá du lịch hiện nay cũng như tìm ra những
phương hướng để các hoạt động đó đạt hiệu quả tốt hơn trong tương lai.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Tìm hiểu các hoạt động quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam qua các hoạt
động du lịch văn hóa, cụ thể là du lịch văn hóa của tỉnh Lai Châu.
- Đánh giá những thành tựu đã đạt được và các mặt còn hạn chế của các hoạt
động quảng bá du lịch văn hóa đã được triển khai thơng qua hoạt động du lịch
văn hóa tại Lai Châu.
5
- Dựa trên những đánh giá đã có, đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao
hoạt động quảng bá.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các vấn đề lý luận về du lịch văn hóa.
- Khái quát những vấn đề lý luận về quảng bá hình ảnh Việt Nam và cơng tác
quảng bá hình ảnh Việt Nam
- Khái qt thực trạng quảng bá hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh Lai Châu,
phân tích và đánh giá thực trạng đó.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Hoạt động quảng bá hình ảnh Việt Nam qua hoạt động du lịch văn hóa của
tỉnh Lai Châu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về khơng gian: Tồn bộ các hoạt động du lịch văn hóa và các tài nguyên du
lịch văn hóa như: di tích, lễ hội, phong tục tập quán, nghệ thuật,… của người dân
Lai Châu.
- Về thời gian: nghiên cứu giai đoạn 2008 – 2018
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.
Cơ sở lý luận
Du lịch được coi là ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt, trong đó các
đối tượng văn hóa được coi là tài nguyên du lịch đầy tiềm năng. Nếu tài nguyên
du lịch tự nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ, độc đáo, hiếm hoi của nó thì
tài ngun du lịch nhân văn lại thu hút bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo và
6
tính truyền thống cũng như tính địa phương. Các đối tượng văn hóa, tài ngun
du lịch nhân văn chính là cơ sở để tạo nên những loại hình du lịch văn hóa hấp
dẫn.
4.2.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Những phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đê tài này:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.
- Phương pháp thu thập số liệu.
- Phương pháp liệt kê.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu định tính.
5. Kết cấu đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, mục lục, tiểu luận gồm có 3 phần chính:
CHƢƠNG 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến quảng bá hình ảnh Việt
Nam qua hoạt động du lịch văn hóa
CHƢƠNG 2: Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh Lai
Châu.
CHƢƠNG 3: Nguyên nhân, phƣơng hƣớng và giải pháp
7
CHƢƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN
QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH VIỆT NAM QUA
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HĨA
1. Một số khái niệm về du lịch văn hóa và quảng bá du lịch văn hóa của
Việt Nam
1.1.
“Quảng bá” là gì?
“Quảng bá” là một từ Hán Việt được ghép từ chữ “ quảng” có nghĩa là to
lớn, rộng lớn, cịn “bá” là lan rộng ra. Từ đó, chúng ta có thể hiểu đơn giản nghĩa
của từ “quảng bá” là tuyên truyền, phát động một lĩnh vực nào đó để lan rộng ra,
được nhiều người biết đến.
Thuật ngữ “Quảng bá” vốn được sự dụng rộng rãi trên các phương tiện
truyền thông, thường được nhắc tới thông qua những cụm từ như “Quảng bá văn
hóa”, Quảng bá du lịch”, “Quảng bá thương hiệu”, “Quảng bá hàng hóa”,…
Trong từ điển tiếng Việt, “Quảng bá” được định nghĩa là: phổ biến rộng rãi
bằng các phương tiện thông tin 1. “Quảng bá” cũng được hiểu là những hoạt động
được tạo ra nhằm thúc đẩy lợi ích, lợi nhuận cho một cá nhân, một sản phẩm, một
tổ chức hoặc rộng hơn là một quốc gia nào đó.
Quảng bá thường sử dụng trong phát triển thương hiệu, sản phẩm, văn
hóa,… Đây được coi là tiền đề quan trọng trong việc phát triển các lĩnh vực trong
kinh doanh hay truyền thông, nếu như được tận dụng tốt, “quảng bá” tạo nên
1
Nghĩa của từ “Quảng bá”: />
8
nhiều cơ hội hơn cho thủ thể quảng bá. Vì vậy, đây được coi là bước đi hàng đầu
đối với mọi lĩnh vực.
Khái quát lại, có thể hiểu “quảng bá” là hoạt động truyền bá rộng rãi hình
ảnh của một cá nhân, tổ chức, quốc gia đó nhằm đạt được một mục đích cụ thể
mà chủ thể quảng bá mong muốn.
Quảng bá về du lịch văn hóa của một quốc gia có tác động lớn từ 3 yếu tố:
Quan hệ giữa chính phủ các nước; Quan hệ giữa chính phủ và người dân và Quan
hệ giữa người dân trong và ngồi nước.
Trước hết, về mối quan hệ gắn bó giữa chính phủ các nước, đó có lẽ là xu
thế tồn cầu. Ngày nay, khi q trình tồn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh
mẽ, các quốc gia khơng cịn là các ốc đảo riêng biệt, mà gắn bó với nhau ngày
càng chặt chẽ thông qua vô vàn các mối liên kết khác nhau, từ chính trị, kinh tế
đến văn hóa và giáo dục. Một đất nước có chính sách đối ngoại hịa nhã, thân
thiện sẽ tạo nên hình ảnh đôn hậu và mến khách trong mắt bạn bè quốc tế.
Thứ hai, quan hệ giữa chính phủ và người dân, những ấn tượng mà chính
phủ tạo dựng nên sẽ gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, bởi vì người dân chính là thành
phần chủ lực của đất nước. Mối quan hệ này góp phần vào việc xây dựng hình
ảnh đất nước tốt đẹp trong mắt bạn bè quốc tế: thân thiện, hiếu khách,…. Bên
cạnh đó, việc tạo điều kiện cho du khách nước ngoài đến sinh sống, học tập và
làm việc tại nước sở tại chính là cầu nối mang hình ảnh quốc gia đến gần hơn với
bạn bè thế giới.
Cuối cùng, quan hệ người dân nước sở tại với người nước ngoài. Ấn tượng
của người nước ngoài về nước sở tại khơng chỉ thơng qua cảnh đẹp, những chính
sách của nhà nước mà còn từ những nguwoif dân bản xứ mà họ gặp trên mảnh đất
ấy. Bất cứ hành động nào của người dân đều sẽ tạo nên sự tị mị cho du khách và
nếu điều đó càng mới mẻ thfi càng khiến họ ghi nhớ. Một đất nước đáng để đặt
chân đến phụ thuộc rất nhiều vào hình ảnh con người nơi đó. Khi con người ta
9
hiền hậu, thật thà, ấm áp và mến khách thì sẽ tạo nên ấn tượng vô cùng lớn và là
lý do để níu chân du khách với mảnh đất xa xơi.
*Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất
nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế
và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình
chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Mơi trường hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc
tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát
huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang
phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn
đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế,
chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối
tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình,
độc lập và phát triển.”
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ
hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ,
trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực,
với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và
khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán
và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khn khổ quan hệ hữu
nghị và hợp tác tồn diện cho thế kỷ 21. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng
đã được ký kết như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ,
10
Hiệp định về biên giới trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định
nghề cá với Trung Quốc, Hiệp định về phân định thềm lục địa với In-đô-nêxia…2 Các mối quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần khơng nhỏ
vào việc khơng ngừng củng cố mơi trường hồ bình, ổn định và tạo mọi điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong tiến trình hội
nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa
học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất
nước.Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những
vấn đề tồn cầu mà khơng một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt
Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để
cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xun quốc gia, ơ nhiễm mơi trường, buôn lậu ma túy, … Đặc
biệt từ sau sự kiện 11/9/2001, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung
của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song phương và đa
phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và ổn định
của các quốc gia.
Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của
mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, ổn định và phát triển.
1.2.
Các hình thức quảng bá du lịch văn hóa của Việt Nam
Trong thời đại mà kĩ thuật số lên ngôi như hiện nay, chúng ta có nhiều hơn
những phương thức quảng bá nét đẹp văn hóa du lịch. Những nghi thức truyền
thống trước đó như cuộc gặp mặt giữa các vị lãnh đạo, những sự kiện du lịch văn
2
“Chính sách đối ngoại của Việt Nam” – Bộ ngoại giao Việt Nam
11
hóa, giao lưu với nước bạn vẫn có vị trí nhất định, tuy nhiên, những phương thức
truyền thông đang phát triển mạnh mẽ. Tận dụng sự phổ biến của các mạng xã
hội, những trang báo mạng nổi tiếng hay những kênh truyền thơng đều là những
phương thức hay đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam đến gần hơn với
bạn bè quốc tế. Đây được đánh giá là cách làm hiệu quả, bởi lẽ những hình ảnh
thiên nhiên và văn hóa Việt Nam trên các khung hình đề gây ấn tượng sâu sắc về
nét đẹp hoang sơ, kì vĩ, cùng với hình ảnh con người mến khách, thân thiện đã tạo
nên những ấn tượng sâu sắc và khó quên đới với mảnh đất hình chữ S xinh đẹp
này.
2. Một số khái niệm về du lịch văn hóa và bản chất
2.1.
Khái niệm văn hóa và du lịch
Văn hóa:
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn
hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngơn ngữ, tư
tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện,
v.v… Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn
hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại
học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định
nghĩa khác nhau về văn hóa trong các cơng trình nổi tiếng thế giới.3
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
3
Theo Lương Văn Kế, “Thế giới đa chiều”, 2007, trang 313 (NXB Thế Giới)
12
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống,
hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng
cho sự phát triển của loài người qua các thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống
văn hóa là một đất nước giàu có về tinh thần.
Du lịch
Du lịch là việc thực hiện một chuyến đi của con người, với nhiều mục đích
cụ thể riêng biệt đến một nơi khác mà khơng phải để định cư và có sự trở về sau
chuyến đi.4
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization), một tổ chức
thuộc Liên Hiệp Quốc, Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du
hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc
trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và
những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng khơng q một năm, ở
bên ngồi mơi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích
chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi
trường sống khác hẳn nơi định cư.
Theo định nghĩa của Luật du lịch Việt Nam thì du lịch là các hoạt động có
liên quan đến chuyến đi của con người (cá nhân hoặc tập thể) đến những nơi
khơng thuộc khu vực mình cư trú thường xuyên nhằm mục đích tham quan, vui
chơi, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định (khơng bao gồm
mục đích cơng việc).5
2.2.
4
5
Khái niệm du lịch văn hóa
Wikipedia “Du lịch”
Dẫn nguồn từ cet.edu.vn
13
Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với
sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống.6
Theo định nghĩa của WTO, du lịch văn hóa là những chuyến đi mà mục
đích chính hoặc mục đích bao gồm trong đó là thăm các địa điểm, sự kiện mà giá
trị văn hóa, lịch sử của chúng khiến chúng trở thành một phần trong di sản văn
hóa của một cộng đồng. Như vậy, với định nghĩa này có thể thấy tham quan các
điểm di sản văn hóa khơng nhất thiết là động lực chính của một chuyến du lịch
văn hóa. Từ đó chúng ta có thể kết hợp du lịch văn hóa cùng các loại hình khác để
tăng hiệu quả, sự hấp dẫn. Tiêu biểu hiện nay có thể kể đến loại hình “Ecocultural” tourism, tức là kết hợp du lịch văn hóa và sinh thái. Một trong những
quốc gia Đông Nam Á đẩy mạnh loại hình này gần đây là Indonesia. Chiến lược
này được thiết kế từ năm 2011 nhằm thay đổi du lịch Indonesia, đưa du lịch nước
này lên một bước tiến mới, đạt đến giai đoạn quan trọng trong quá trình phát
triển. Với du lịch sinh thái văn hóa, Indonesia hướng đến thu hút du khách thông
qua những chuyến phiêu lưu, khám phá cảnh quan, sinh thái và văn hóa chứ
khơng chỉ tham quan, nghỉ dưỡng đơn thuần. Cách làm này sẽ giúp các tour du
lịch hấp dẫn, đa dạng hơn, khai thác được nhiều giá trị của địa phương.
2.3.
Bản chất của du lịch văn hóa
Có lẽ hiếm có một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển ngành du lịch
của mình lại khơng coi trọng du lịch văn hóa. Tuy vậy, du lịch văn hóa chỉ thực
sự phát triển ở những nơi có nền văn minh lâu đời và nghệ thuật dân tộc đặc sắc.
Du lịch văn hoá bao gồm du lịch ở khu vực thành thị, đặc biệt là các thành phố
lịch sử hoặc lớn và các cơ sở văn hoá của họ như bảo tàng và nhà hát. Nó cũng có
thể bao gồm du lịch ở nơng thơn thể hiện truyền thống của các cộng đồng văn hoá
6
Theo nganhangphapluat.thukyluat.vn
14
bản xứ (lễ hội, lễ nghi), các giá trị và lối sống của họ, cũng như những hẻm núi
như du lịch cơng nghiệp và du lịch sáng tạo.
Nói chung người ta thường đồng ý rằng khách du lịch văn hoá chi tiêu
đáng kể so với khách du lịch tiêu chuẩn. Hình thức du lịch này cũng ngày càng
trở nên phổ biến trên khắp thế giới, và một báo cáo gần đây của OECD đã nhấn
mạnh vai trò của du lịch văn hoá trong phát triển khu vực ở các khu vực khác
nhau trên thế giới.7
Du lịch văn hoá được định nghĩa là “sự di chuyển của con người đến các
điểm du lịch văn hoá xa nơi thường trú của họ, với mục đích thu thập thơng tin và
kinh nghiệm mới để đáp ứng nhu cầu văn hoá của họ”. Những nhu cầu văn hố
này có thể bao gồm việc củng cố bản sắc văn hoá của một người bằng cách quan
sát “những người khác” kỳ lạ. Du lịch văn hoá có một lịch sử lâu dài, và với
nguồn gốc của nó trong Grand Tour được cho là hình thức ban đầu của du lịch.
Đây cũng là một trong những hình thức du lịch mà hầu hết các nhà hoạch định
chính sách dường như đặt cược vào tương lai. Ví dụ, Tổ chức Du lịch Thế giới
khẳng định du lịch văn hố chiếm 37% du lịch tồn cầu, và dự báo rằng nó sẽ
tăng trưởng ở mức 15% mỗi năm. Những con số như vậy thường được trích dẫn
trong các nghiên cứu về thị trường du lịch văn hố (ví dụ Bywater, 1993), nhưng
ít khi được ủng hộ với nghiên cứu thực nghiệm.
Một nghiên cứu gần đây về thói quen tiêu dùng văn hoá của người châu
Âu (Ủy ban châu Âu năm 2002) chỉ ra rằng người ta đã đến thăm các viện bảo
tàng và phịng triển lãm ở nước ngồi gần như thường xuyên ở nhà. Điều này
nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của du lịch văn hoá như một nguồn
tiêu thụ văn hoá. Việc khái quát hoá tiêu dùng văn hoá vào kỳ nghỉ, tuy nhiên, chỉ
7
OECD (2009) The Impact of Culture on Tourism. OECD, Paris
15
ra một trong những vấn đề chính của việc xác định du lịch văn hoá. Sự khác biệt
giữa các chuyến thăm văn hoá vào kỳ nghỉ (du lịch văn hoá) và các cuộc viếng
thăm văn hoá được thực hiện trong thời gian rảnh rỗi ở nhà là gì? Phần lớn các
nghiên cứu do Hiệp hội Giải trí Du lịch và Du lịch (ATLAS) thực hiện trên thị
trường du lịch văn hoá quốc tế (Richards 1996, 2001) đã làm nổi bật mức độ liên
tục cao giữa tiêu dùng văn hoá trong nước và trong kỳ nghỉ.
Mặc dù những vấn đề này, các nhà hoạch định chính sách, ban quản lý du
lịch và các nhà quản lý văn hoá trên thế giới vẫn tiếp tục coi du lịch văn hoá là
một nguồn tiềm năng tăng trưởng du lịch quan trọng. Có một nhận thức chung là
du lịch văn hoá là một ngành du lịch “tốt” thu hút du khách chi tiêu cao và ít gây
thiệt hại cho mơi trường hoặc văn hố địa phương trong khi đóng góp rất nhiều
vào nền kinh tế và hỗ trợ văn hoá. Tuy nhiên, các nhà bình luận khác cho rằng du
lịch văn hố có thể gây hại nhiều hơn lợi ích, cho phép du khách văn hố thâm
nhập vào mơi trường văn hố nhạy cảm như là nhân viên bảo vệ trước của du
khách.
3. Du lịch văn hóa ở Việt Nam
3.1.
Đặc điểm du lịch văn hóa ở Việt Nam
Du lịch văn hóa là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với Việt Nam song
đã có một lịch sử lâu dài trên thế giới. Tổ chức du lịch thế giới (WTO – World
Tourism Organization) từng thống kê du lịch văn hóa đóng góp khoảng 37% du
lịch tồn cầu và dự báo có thể tăng khoảng 15% mỗi năm. Có rất nhiều quốc gia
thế giới khai thác hiệu quả loại hình này trong đó có các quốc gia Đông Nam Á.
Trong những năm qua, du lịch văn hóa Việt Nam đang trên đà phát triển,
lượng khách quốc tế đến cũng như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch
văn hóa nước ta ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến
16
trong nước được bình chọn là địa chỉ u thích của du khách quốc tế. Với toàn xã
hội, du lịch văn hoá cũng đang dần nhận được sự quan tâm nhiều hơn, cho thấy
cần những bước đi đầu tư đúng đắn và hiệu quả vào lĩnh vực đầy tiềm năng này.
Để du lịch văn hóa phát triển thì điều kiện tiên quyết đó là nền văn hóa. Và
đây cũng là thế mạnh rất lớn của Việt Nam. Đất nước ta là nơi có chiều dài lịch
sử lên đến 4000 năm, với sự thay đổi qua nhiều thời kỳ khác nhau. Mỗi vùng đất
của Việt Nam đều in đậm dấu ấn văn hóa lâu đời. thương hiệu và hình ảnh du lịch
Việt Nam đang ngày càng có lợi thế trên trường quốc tế. Du lịch văn hóa góp
phần khơng nhỏ vào thành tích này. Văn hóa Việt Nam là một nét độc đáo, đã thu
hút được sự chú ý của rất nhiều bè bạn quốc tế.
3.2.
Xu hƣớng phát triển của du lịch văn hóa ở Việt Nam
Du lịch văn hóa ở Việt Nam đã được “lên nòng” để phát triển trong vài
năm trở lại đây. Với lợi thế là quốc gia có nền văn hóa lâu đời cũng như những
màu sắc văn hóa khác nhau từ những vùng miền, nước ta đang dần có đươc cơ
hội từ 2 phía: nguồn đầu tư vào phát triển du lịch văn hóa và số lượng du khách
ngày càng tăng. Từ nguồn đầu tư có được từ các năm, ngành cơng nghiệp khơng
khói này cũng tạo ra việc làm và thu nhập trực tiếp cho khoảng 2,5 – 4 triệu
người. Du lịch văn hóa góp phần quan trọng giúp cho du lịch dần trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn và có những đóng góp trực tiếp vào GDP của quốc gia. Với đà
phát triển này thì trong tương lai du lịch văn hóa vẫn sẽ là lĩnh vực đặc biệt quan
trọng với kinh tế Việt Nam.
Yếu tố thành cơng của Du lịch Việt Nam có được là do đã và đang khai
thác hiệu quả các giá trị đặc sắc của văn hóa dân tộc đưa vào trong kinh doanh du
lịch. Thông qua hoạt động du lịch; sự giao lưu, giao thoa giữa các dòng du khách
nội địa và quốc tế với cư dân bản địa đã cho ra đời một loại hình sản phẩm văn
hóa đặc trưng đó là những sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch là những sản phẩm
17
văn hóa phục vụ các đối tượng du khách khác nhau. Khi đưa các sản phẩm văn
hóa vào trong kinh doanh du lịch sẽ tạo nên các sản phẩm du lịch. Việc nghiên
cứu, khai thác các giá trị văn hóa để phát triển du lịch đã ra đời Du lịch văn hóa.
18
CHƢƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU
1. Khái quát về hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh Lai Châu.
Sơ lƣợc về điều kiện tự nhiên của Lai Châu
1.1.
Lai Châu là một tỉnh thuộc vùng biên giới, với phía bắc giáp tỉnh Vân Nam
– nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa, phía tây và phía tây nam giáp tỉnh Điện
Biên, phía đơng giáp tỉnh Lào Cai, phía đơng nam giáp tỉnh n Bái, và phía nam
giáp tỉnh Sơn La. Nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 450 km
về phía tây bắc, Lai Châu có toạ độ địa lý từ 21°51’ đến 22°49’ vĩ độ Bắc và
102°19’ đến 103°59’ kinh độ Đơng.
Lai Châu có 273 km đường biên giới với cửa khẩu quốc gia Ma Lù
Thàng và nhiều lối mở trên tuyến biên giới Việt – Trung trực tiếp giao lưu với các
lục địa rộng lớn phía tây nam Trung Quốc; được gắn với khu vực tam giác kinh
tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh bằng các tuyến Quốc lộ 4D, Quốc lộ
70, Quốc lộ 32 và đường thuỷ sơng Đà. Lai Châu có tiềm năng để phát triển dịch
vụ – thương mại, xuất nhập khẩu và du lịch, đồng thời, cũng có vị trí chiến lược
hết sức quan trọng về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc
gia. Đây là khu vực đầu nguồn và phòng hộ đặc biệt xung yếu của sông Đà,
sông Nậm Na và sông Nậm Mu, điều tiết nguồn nước trực tiếp cho các cơng trình
thuỷ điện lớn trên sông Đà, đảm bảo sự phát triển bền vững cả vùng châu thổ
sơng Hồng.
Vị trí tiếp giáp với quốc gia khác là lợi thế để phát triển du lịch cũng như
kinh tế giữa 2 quốc gia. Tuy vậy, đây cũng tiềm tàng mối nguy hiểm về các tệ nạn
xã hội, các hoạt động buôn bán trái phép qua đường biên giới. Đây được coi là
19
một thách thức lớn không chỉ của riêng Lai Châu mà là của tất cả những tỉnh giáp
biên giới khác. Địa hình núi cao xen lẫn các thung lũng đã tạo nên cho nơi này
nhiều khung cảnh với vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa lãng mạn. Đây chắc hẳn là thế
mạnh du lịch khơng phải nơi đâu cũng có được. Địa hình được tạo bởi những dãy
núi chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đơng Nam, có nhiều đỉnh núi cao như
đỉnh Pu Sa Leng cao 3.096 m, đỉnh Bạch Mộc Lương Tử cao 3.046 m. Núi đồi
cao và dốc, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, có nhiều cao ngun, sơng suối.
Sơng có nhiều thác ghềnh, dịng chảy lưu lượng lớn nên tiềm năng thuỷ điện rất
lớn. Lai Châu có đặc điểm địa hình là vùng lãnh thổ nhiều dãy núi và cao ngun.
Phía đơng khu vực này là dãy núi Hồng Liên Sơn, phía tây là dãy núi Sông Mã
với độ cao 1.800 m. Giữa hai dãy núi đồ sộ trên là phần đất thuộc vùng núi thấp
tương đối rộng lớn và lưu vực sông Đà với nhiều cao ngun đá vơi. Cùng với khí
hậu cận nhiệt đới ẩm, nhiệt độ trung bình năm khoảng 21 °C-23 °C tạo nên khơng
gian thống đãng và dễ chịu, cùng là điểm cộng rất lớn cho du lịch của Lai Châu.
1.2.
Lịch sử hình thành vùng đất Lai Châu
Lai Châu là một trong những tỉnh có con người đến cư trú từ rất sớm. Tại
các khu di khảo ở hang Nậm Pé, Nậm Tun (Phong Thổ) đã tìm thấy cơng cụ thời
kỳ đồ đá và một số công cụ bằng đồng của nền văn hóa Đơng Sơn. Xưa kia Lai
Châu đặt dưới quyền điều hành của các tù trưởng dân tộc Thái, quy phục triều
đình Việt Nam. Đây vốn là một châu thuộc phủ Điện Biên, tỉnh Hưng Hóa xưa.
Tỉnh Lai Châu được thành lập theo Nghị định ngày 28/6/1909 của Tồn
quyền Đơng Dương. Lúc đó tỉnh Lai Châu gồm các châu Lai, châu Quỳnh Nhai,
châu Điện Biên tách ra từ tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Lai Châu (nay là thị
xã Mường Lay thuộc tỉnh Điện Biên).
20
Tháng 11/2003, Quốc Hội ra Nghị quyết trong đó chia tỉnh Lai Châu thành
tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên. Tỉnh Lai Châu mới có diện tích tự nhiên
là 906.512,3 ha. 10/2004, thành lập thị xã Lai Châu mới, thị trấn Phong Thổ mới
và thị trấn Tam Đường.
Ngày 27/12/2013, chuyển thị xã Lai Châu thành thành phố Lai Châu.
Suốt chiều dài lịch sử của đất nước, Lai Châu luôn là vùng đất có truyền
thống văn hóa, truyền thống yêu nước và cách mạng, người dân nơi đây luôn yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau, chăm chỉ, cần cù trong sản xuất và cuộc sống sinh
hoạt. Nhân dân Lai Châu đang dần vượt qua những khó khăn về kinh tế, điều kiện
thời tiết và khí hậu khắc nghiệt để từng bước đi lên, góp phần vào sự phát triển
của đất nước.
1.3.
Tài ngun du lịch văn hóa của tỉnh Lai Châu
Tính đến quý I năm 2014, tỉnh Lai Châu đã có 20 di tích được xếp hạng.
Trong đó 4 di tích được xếp hạng di tích quốc gia (di tích Bia Lê Lợi; Di tích
động Bình Lư; Quần thể danh lam thắng cảnh Pusamcap; di tích Nậm Tun); 16 di
tích xếp hạng Di tích cấp tỉnh (Di tích đèo Vân Long; di tích đền thờ nàng Han; di
tích Núi Đá Ơ; di tích Hang Thẳm Tạo; di tích Thác Tác Tính; di tích Hang
Kháng Chiến Nà Củng; di tích Đồn Mường Tè;…)
Lai Châu mang vẻ đẹp đặc trưng của vùng núi Tây Bắc với địa hình hiểm
trở. Nơi đây có những đỉnh núi mờ sương, những khu rừng rậm nhiều hang động
xen lẫn thung lũng và khe suối, tạo nên các danh thắng mang sắc thái đa dạng
như cao nguyên Sìn Hồ đẹp như một bức tranh mộc mạc, dung dị; cánh đồng
Mường Than quyến rũ, một trong 4 cánh đồng nổi tiếng vùng Tây Bắc, làm mê
đắm biết bao du khách; đèo Hồng Liên Sơn (hay cịn gọi là đèo Ơ Quý Hồ) hiểm
trở, hùng vĩ, luôn thôi thúc những phượt thủ tò mò, ưa mạo hiểm; thác Tác
21
Tình lơi cuốn và kiều diễm như chính cái tên của nó… Lai Châu tự hào vẫn lưu
giữ được nhiều di sản văn hóa cổ truyền, đa dạng, tạo nên sắc thái riêng của
người dân địa phương như múa xòe Thái Mường So, các di chỉ khảo cổ, bộ tranh
cúng 36 bức của người Giáy…
2. Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa của tình Lai Châu qua một số địa
điểm và lễ hội
2.1.
Quần thể hang động Pusamcap
2.1.1.
Vài nét về quần thể hang động Pusamcap
Từ trung tâm thị xã Lai Châu, đi 6 km về phía tây là tới quần thể hang
động Pu Sam Cáp. Quần thể này được bố trí hài hịa gồm 3 hang động lớn là:
Thiên Mơn, Thiên Đường và Thủy Tinh. Vẻ đẹp nguyên sơ của nó khiến nhiều
người ngỡ ngàng. So với các động như Phong Nha (Quảng Bình), Thiên Cung
(Quảng Ninh) hay Hương Tích (Hà Nội), Pu Sam Cáp dường như không hề thua
kém. Bởi vậy, từ khi được phát hiện ra (tháng 7 năm 2006) quần thể hang động
này đã có hàng trăm ngàn lượt du khách tìm đến thưởng ngoạn.
Đường lên động gập ghềnh, khúc khuỷu như muốn gợi trí tị mị khám phá
của du khách. Ta có thể bắt gặp ngổn ngang những cây cổ thụ lâu năm, có cây bị
gió xô ngã xuống ngang đường, rêu mốc, tầm gửi bám kín. Tất cả như cịn
ngun sơ đầy bí ẩn.
22
Đường đi lên động Pusamcap gập ghềnh, khúc khuỷu
(Ảnh: DuLichVn)
2.1.2.
Giá trị du lịch văn hóa của quần thể hang động Pusamcap
Có thế nói rằng, những khối nhũ đá khổng lồ và thiên nhiên hoang sơ đã
tạo nên vẻ đẹp và huyền bí cho cho Pu Sam Cáp. Những khối nhũ đá cấu tạo vịm
hang và dấu tích của các đường đứt gãy kiến tạo trên các thạch đá, hệ thống hang
động Pu Sam Cáp là minh chứng cho sự hình thành và kết cấu tự nhiên về các
chấn động của lớp vỏ Trái Đất. Trải qua hàng nghìn năm nước chảy, thảm thực
vật phát triển đã tạo bức tranh mà khơng có bất kỳ họa sỹ nào có thể vẽ được.
Đan xen giữa những hang động có giá trị cao về thẩm mỹ, khu rừng nguyên sinh
cùng thảm động – thực vật phong phú đã góp phần tạo nên một Pu Sam Cáp như
một kho tàng bí ẩn khổng lồ với những trầm tích kiến tạo lạ lùng nhìn vào như
một bức tranh thu nhỏ toàn cảnh của vùng Tây Bắc hiện rất đang được các nhà
chuyên môn, khảo cổ đang tìm hiểu và giải mã cho quần thể hang động này.
Những bức tranh của thiên nhiên sẽ làm thỏa con mắt của du khách, những sự kỳ
bí, huyền bí của hang động sẽ thơi thúc trí tị mị của con người.
23
Cảnh tượng kì vĩ bên trong của Pusamcap
Động Thiên Mơn
24
Động Thiên Đường
Động Thủy Tinh
25